Truyện ngắn
Tác giả: Trúc Khê Ngô Văn Triện

Nguyễn Trãi, anh hùng dân tộc

Chương 7: 7) Tập thư trao cho các tướng Minh

Từ năm mậu tuất (1418) Thái Tổ khởi binh ở Lam Sơn, cho đến năm đinh mùi (1427): người Minh phải cầu hoá rút quân về nước. Trong 10 năm, Nguyễn Trãi truy tuỳ nơi nhung mạc, ngoài những việc vì vua hoạch kế bày mưu, để chỉ huy các tướng sĩ ở ngoài mặt trận, còn phụng mệnh viết rất nhiều những văn từ mệnh để giao thiệp với các tướng Minh. Những văn từ mệnh ấy, có đủ những lời mềm mỏng hoặc cứng cỏi, nhũn nhặn hoặc kiêu căng, giữa cơn binh lửa rộn rằng, cây bút của vị văn thần đã khéo tuỳ tình thế, tuỳ trường hợp mà uốn nắn để cho được việc. Ngày nay ta đọc những văn ấy, có nhiều bài khiến ta hưng khởi và sung sướng vô hạn, vì nó đã cho ta được trông thấy những bóng quang vinh của dân tộc trong hồi đức Thái Tổ Cao hoàng đế nhà Lê Lam Sơn khởi nghĩa đánh đuổi quân Tàu.

Xin trích dịch mấy bài sau đây để độc giả được biết những văn thư ấy thế nào, nhân thể cũng là một cách để bổ khuyết cho phần tự sự.

Thư trả lời Phương Chính

(Trong khi Bình Định Vương còn đóng quân ở miền rừng núi Thanh Hoá, tướng Minh là Phương Chính đưa thư kể tội. Vương sai Nguyễn Trãi viết thư trả lời. Trãi viết bức thư sau)

Bảo mày giặc dữ Phương Chính. Đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm cành. Nay lũ mày chỉ chuyên lừa dối, giết hại những kẻ vô tội, hãm người ta vào đất chết chẳng động lòng thương, trời đất không thể dong, người ma đều phải giận. Bởi thế luôn năm đi chinh phạt chỉ thua lụn bại. Vậy mà không biết tự đổi lỗi, đi bới hôi ra nữa, sau này hối lại còn kịp nữa sao! Huống nay nước xuân mới nhóm, lam chướng càng dày, thế không thể chịu đựng lâu được. Vậy mà mày tay cầm đại binh, lữa lần không tiến khiến quân sĩ nhuốm phải lam chướng mà chết, đó là tội lỗi của ai?

Binh pháp nói rằng: "Bậc nhân giả lấy yếu trị mạnh, bậc nghĩa giả lấy ít địch nhiều”. Nay mày muốn đánh nhau thì nên tiến binh vào cùng ta quyết sống mái một keo, đừng nên dùng dàng để khổ cho hai quân nữa”.

Lại trả lời Phương Chính

(Phương Chính được bức thư trên, mắng lại là nếu muốn đánh nhau thì kéo quân xuống đồng bàng đất phẳng, nên lại trả lời bàng thư này)

Bảo mày giặc dữ Phương Chính. Xưa nay người giỏi dụng binh không chỗ nào hiểm cũng không chỗ nào không hiểm, không chỗ nào dễ cũng không chỗ nào không dễ, được thua là ở tướng, chứ có phải ở địa thế hiểm với dễ đâu. Vào chỗ hiểm mà đấu, như hai hổ đấu nhau trong cái hang không, khéo chọi thì thắng, vụng chọi thì bại. Cho nên đất không có hình thường nhất định, chiến không có thế thường nhất định, có gì phân biệt hiểm với dễ đâu! Mày nếu không lui, nên dẫn binh vào mà quyết chiến.

Lại gởi cho Phương Chính

(Tháng 5 năm bính ngọ 1426, quân ta đến dưới thành Nghệ An, giặc đóng kín cửa thành không ra, nên ta gởi cho thư này)

Bảo mày giặc dữ Phương Chính. Ta nghe bậc danh tướng, quà nhân nghĩa mà dễ quyền mưu. Lũ mày thì quyền mưu cũng còn chẳng đủ, huống lại nói gì nhân nghĩa. Ngày xưa thư mày gởi đến cho ta, thường cười ta náu núp ở chỗ núi rừng, không dám ra giao đấu ở đồng bàng đất phẳng. Nay ta đã đến đây, ngoài thành Nghệ An đều là chiến trường cả, mày bảo đó là núi rừng hay là đồng bàng? Mày đóng kín cửa thành ngồi xó trong ấy, có khác gì một mụ già không? Ta e lũ mày không trốn đâu khỏi được cái nhục khăn yếm.

Lại trả lời Phương Chính

Phàm đồ việc lớn, lấy nhân nghĩa làm gốc; nên công lớn, lấy nhân nghĩa làm đầu. Chỉ có nhân nghĩa vẹn toàn thì công việc mới trôi chảy được.

Nước mày nhân việc họ Hồ lỗi đạo, mượn cái danh "thương dân đánh tội” để thoả cái thực "cướp của giết người", lấn chiếm bờ cõi ta, hiếp đáp sinh dân ta, nặng thuế, nghiêm hình, bòn gio đãi sạn, dẫu kẻ tiểu dân ở trong chỗ thôn cùng ngõ hẻm, cũng không được yên thân mà sống, nhân nghĩa mà như thế ư? Nay dân oán thần giận, nước mày lại gặp đại tang (năm ất tý 1425, vua Minh Nhân Tông mất), như thế mà không biết xét mình đổi lỗi, lại còn kéo dài mãi việc binh cách ở phương xa, khiến quân lính phơi thây, nhân dân lầm cát. Ta e mối lo của Quà thị không ở ấp Chuyên Du mà sẽ xảy ra ngay bên kẽ vách. (Câu này mượn lời của cụ Khổng. ý nói triều đình nhà Minh, cứ để ý vào việc viễn chinh, không lo nội trị, coi khéo mà hoạ biến xảy ra ngay ở bên cạnh sườn cũng chưa biết chừng).

Thư đưa cho Vương Thông, Sơn Thọ

Tôi nghe điều tin là vật báu của nước! Người mà không có điều tin thì còn làm trò gì. Trước đây tiếp được thư của các ngài và các ngài sai người ra nói ước sự hoà giải, tôi đã nhất nhất nghe theo. Nay xem trong thành vẫn đào hào đóng cọc đắp luỹ dựng rào, huỷ đồ cổ để đúc súng đạn, sửa chiến khí (sử kà: Vương Thông lấy chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, huỷ ra để đúc súng đạn, lại đắp cao thêm luỹ thành Đông quan, đào hào đóng cọc). Như vậy thì các ngài định rút quân về kinh chăng? định bền giữ thành trì chăng? đều không sao hiểu được. Truyện có câu: "Bất thành vô vật" nghĩa là nếu không thành thực thì việc gì cũng đều hỏng cả. Ngài nếu thực không bỏ lời trước, thì việc làm tưởng nên minh bạch những lẽ lợi hại. Định rút quân thì rút quân, định đóng giữ thì đóng giữ. Cớ sao mặt ngoài thì vờ vĩnh kết hiếu, bên trong lại ngầm ngấm mưu toan? Tưởng chẳng nên sau trước trái nhau, trong ngoài bất nhất như vậy. Kẻ tiểu dân ngu nhưng mà tinh lắm. Tôi dẫu mờ tối không biết gì, nhưng thật có như lời cụ Khổng Tử nói "Xem cách dùng, nhìn lối đi, xét chỗ đứng”, như vậy thực dối của lòng người, dẫu nhỏ bàng tơ tóc cũng không thể che giấu được.

Thư dụ Vương Thông

Thư đệ đến quan Tổng binh thành sơn hầu.

Bức thư bữa trước, chưa thấy đáp phục: sai người vào chực đợi lại cũng chẳng thấy cho về. Vậy thì câu nói "Ngôn hành phải đi đôi với nhau” của đại nhân ngày trước, nay đâu rồi ư? Tôi nghĩa cái đạo nước nhỏ thờ nước lớn phải nên kính sợ, vả nghĩ lời nói của đại nhân ngày trước, nghĩa không nỡ tuyệt, cho nên gởi thư đến mãi, chẳng chút ngại phiền. Nhưng chẳng được như lòng, không biết có phải là tình thế khiến vậy hay không? Theo tôi trộm tính cái kế của đại nhân lúc này, không gì bàng rút quân, khải hoàn để cổi cái khổ can qua cho hai nước để gỡ cái vạ hao hại cho quốc gia, để vẹn cái nghĩa dựng hộ nước bị đổ, nối hộ dòng bị đứt để tỏ cái nhân của đấng vương giả coi bốn bể đâu cũng như đâu, trên không phụ sự uỷ nhiệm của triều đình, dưới không trái nghĩa xuất khổn của đại tướng, khiến tên ghi sửý sách, há chẳng tốt đẹp lắm sao! Dữ kỳ noi theo vết xâu của Hán, Đường, ham đất lớn thích công to, sao bàng làm cái quân nhân nghĩa, chỉ cốt vì dân mà đánh kẻ có tội. Nay không nghĩ đến điều đó mà chỉ chăm chăm đắp thành đào hào, ngày ngày lên mở cửa thành cho quân ra đánh cắp rơm củi, sao mà tự khổ đến thế!

Đại nhân nếu bảo thành trì hiểm cố có thể giữ để chờ đợi, thì tôi e nước xa không cứu được lửa gần. Nếu bảo những quân dũng cảm ở trong thành còn nhiều, muốn quyết một trận sống mái; thì tôi tưởng khi tôi còn ở Khả Lam Trà Lân, các ngài có những mấy vạn quân tinh nhuệ, mà tôi chỉ có mấy trăm quân tâm phúc, tôi còn đánh tan đi được để thành cái thế chẻ nứa, huống nay tôi gồm thu Diễn, Nghệ, Thanh Hoá, Tân Bình, Thuận Hoá và Đông Đô các lộ, tuyển quân tinh nhuệ có hàng mấy chục vạn, vậy thì cái kế sống mái, có thể ngồi tính mà biết trước được rồi.

Song nước thịnh hay suy, quan hệ ở trời, quân mạnh hay yếu, không cứ ở nhiều. Đại nhân thường xem việc họ Hồ ngày trước mà so ví. Tôi nghĩ việc ngày nay với việc ngày trước khác nhau xa lắm. Họ Hồ dối trời ngược dân mà tôi thì kính trời thuận dân, là thuận nghịch khác nhau là một. Quân của họ Hồ trăm vạn nhưng trăm vạn lòng, quân của tôi chỉ vài chục vạn nhưng hết thẩy đều cùng một lòng, điều đó khác nhau là hai. Nay đại nhân nếu “không vì người mà bỏ lời nói phải", quyết kế rút về, sai người thân tính cùng với Sơn đại nhân (Sơn Thọ) sang sông hội họp, tôi sẽ xin lui quân ngay về các miền Thạch Thất, Thanh Đàm (Thanh Trì), Khoái Châu để đợi xuất cử. Nếu không như vậy, tôi cũng chẳng biết làm sao được.

Lại dụ Vương Thông

Thư kính cùng quan Tổng binh và các vị Đại nhân.

Xưa nay người giỏi dùng binh là ở chỗ hiểu biết thời thế. Được thời và có thế thì biến mất làm còn, hoá nhỏ thành lớn; mất thời và không thế thì trở mạnh ra yếu, đổi yên làm nguy, chỉ ở trong khoảng trở bàn tay mà thôi. Nay các ngươi không rõ thời thế, chỉ dối giả quen, há chẳng phải là hạng sất phu đớn hèn, sao đủ nói chuyện việc binh được. Dạo trước trong mang gian dối, ngoài thác giảng hoà, đắp luỹ đào hào, chờ quân cứu viện, tâm tích không tỏ, trong ngoài bất nhất, như vậy khiến ta tin sao được mà chẳng phải ngờ. Cố nhân có câu rằng: "Kẻ khác có lòng, ta lường đoán lấy”, tức là thế đó. Ngày xưa nhà Tần thôn tính sáu nước, chuyên chế bốn biển, quốc chính không tu, mình tan nước vỡ. Nay Ngô (Minh Thái Tổ lúc mới khởi binh, dựng nước là nước Ngô) mạnh đã đâu bàng Tần mà hà khắc hơn Tần nhiều lắm, chẳng qua chỉ trong vòng một năm, sễ đến nối nhau mà chết hết, đó là mệnh trời chứ chẳng phải sức người. Hiện nay phía bắc có kẻ định Thiên Nguyên (bấy giờ Hậu chúa nhà Nguyên còn giữ ở phía bắc, đặt niên hiệu là Thiên Nguyên), bên trong có mối lo Tần Châu các xứ. Giảng Tả một khu không tự giữ được, huống lại còn chực đi lấn chiếm nước khác nữa sao! Bọn các ngươi không hiểu sự thế, bị ta đánh bại, lại còn chực níu lấy Trương Phụ để nhờ uy thanh, như thế có phải là đại trượng phu không, hay chỉ là đàn bà thôi đó?

Sự thế ngày nay dù có vị thượng tướng đem quân đến đây, cũng quyết chẳng làm trò gì được, huống chi Trương Phụ chẳng qua đến để mà nộp mạng chứ bõ nói gì!

Ngày xưa vua Chiêu Liệt nhà Hán là dòng sót lại của họ Lưu, Khổng Minh còn giúp cho nghiệp lớn lại dấy lên được. Huống nay con cháu của Hoàng Trần (Khi ấy vua Lê Lợi tạm lập Trần Cao lên ngôi, xưng là con cháu nhà Trần), mệnh trời thuận cho, lòng người theo về, nước Ngô kia còn chực đoạt làm sao được! Vả đời xưa các bậc hào kiệt, chưa gặp thời thì ẩn náu, thấy cơ hội thì dấy lên. Cho nên Y Doãn chỉ là một gả thờ cầy ở sất Săn, Thái công chỉ là một chàng câu cá ở sông Vị, thế mà một người làm đến vương tá, một người làm đến đế sư, vậy đó là người hào quà chăng? là người bần tiện chăng? Lại như Mộ Dung nước Yên, Thạch Lặc nước Triệu, đó là người Trung Quốc chăng? là người mán rợ chăng? Ta nghĩ lời của ngươi nói thật là lời của kẻ tiểu nhân rợ mọi, không phải lời nói của người Trung Quốc.

Nay các ngươi kế cùng sức kiệt, lính tráng mỏi mệt, trong không lương thảo, ngoài không cứu viện, bám bíu lấy một khoảng đất, thoi thóp trong một mảnh thành, chẳng phải là miếng thịt trên thớt, con cá trong chậu rồi sao? Vậy mà còn lừa dối dân ta, dụ dỗ những điều phi nghĩa. Các kẻ trung thần nghĩa sĩ của nước ta, trong khi cùng ách, còn nếm mật nàm gai, không chịu đem lòng kia khác, huống chi như ngày nay còn ai tin nghe những lời bất nghĩa của lũ ngươi. Chỉ e trong thành, người Nam thì nhớ thương chúa cũ, người Ngô thì không chịu được khổ, cùng hại lũ ngươi rồi đem nhau ra hàng, như Trương Phi, Lã Bố ngày xưa, bị hại bởi tay những thủ hạ, ấy là cái là tất nhiên đó.

Nay các thành từ chức Đô ty trở xuống, đều tức giận lũ ngươi lừa dối, nhiều người vượt luỹ ra ngoài, báo cáo những tình hình bên trong; kẻ bị khốn cực thì đâm chém lẫn, không đợi phải đến quân lính của ta nữa. Ta ngồi suy tính cho lũ ngươi thì cái cơ bại vong có sáu; Nước lụt mênh mông, tường đổ rào nát, củi cỏ thiếu thốn, ngựa chết lính mệt; bại vong đó là một. Ngày xưa Đường Thái Tông bắt Kiến Đức mà Thế Sung phải ra hàng, nay bao nhiêu ải quan hiểm trở đều có binh tướng đồn đóng, viện binh nếu đến, tất nhiên bị bại. Viện binh đã bại, lũ người còn trốn đàng trời, bại vong đó là hai. Nước ngươi binh khỏe ngựa béo, nay còn để cả miền bắc để phòng thủ quân Nguyên, không rỗi đâu nhìn ngó xuống phía nam được; bại vong đó là ba. Can qua bận rộn, chinh phạt rối ren, người chẳng sống yên, nhao nhao thất vọng: bại vong là bốn. Tôi gian chuyên chính, chúa yếu trị vì, xương thịt tàn nhau, vạ khởi ở trong tường vách; bại vong đó là năm. Nay ta nổi dậy quân nghĩa, trên dưới cùng lòng anh hùng tận lực, quân lính ngày một luyện, khí giới ngày một tốt, vừa cầy ruộng vừa đánh giặc, trong thành mỏi mệt, tự phải diệt vong; bại vong đó là sáu. Ngồi giữ một mảnh thành con, để chờ đợi cái cơ bại vong ấy, ta thật tiếc thay cho lũ ngươi. Cổ nhân có câu "Nước xa không cứu được lửa gần”. Dù có viện binh đến đây, cũng không ích gì cho sự bại vong cả. Ngày xưa Phương Chính Mã Kỳ chỉ chuyên làm những sự hà ngược sinh linh lầm cát, thiên hạ oán thán: nào mồ mả của nhà ta, nào bắt vợ con của dân ta, kẻ chết hàm oan, người sống bị khổ. Lũ ngươi là những người xét rõ sự cơ, hiểu sâu thời vụ, vậy nên chém đầu Phương Chính Mã Kỳ đem đến cửa quan dâng nộp. Như vậy trong thành sẽ khỏi nạn cá thịt, trong nước sẽ khỏi vạ đau thương, hoà hiếu lại thông, can qua xếp nép. Nếu muốn rút quân về nước, ta hãy sửa sang cầu cống, mua sắm tàu thuyền, thuỷ lục hai đường, tuỳ theo ý muốn; quân ra khỏi cõi, muôn phần đảm bảo được yên ổn không lo ngại gì; nước ta lại phụng cống xưng thần, theo như lệ trước. Nếu không nghe lời ta như vậy, thì nên sắm quân dàn trận, ra giao chiến ở giữa bình nguyên để quyết một trận thư hùng để xem cái tài hơn kém, không nên ngồi rú một xó, bắt chước cái điệu bộ của đàn bà nữa.

Thư dụ thành Bắc Giang

Thư ngỏ với tướng hiệu, quan viên, quân nhân trong thành Bắc Giang.

Ta nghe người có bắc nam nhưng đạo không kia khác, nhân dân quân tử, chẳng phải là riêng ở một nơi nào. Nước An Nam ta, tuy xa xăm ở cõi Lĩnh Ngoại, nhưng vẫn có tiếng là một nước thi thư, những bậc người tài thức trí mưu, không đời nào là không sờn có. Bởi vậy phàm những công việc ta làm hết thảy đều noi theo lễ nghĩa, trên ứng với trời, dưới thuận với người.

Dạo trước quan tổng binh Thành sơn hầu từ sau trận thua ở Ninh Kiều, có sai người đưa thư ước sự hoà giải. Ta nên muốn hết lòng kính thuận với triều đình, dưới muốn gỡ nạn can qua cho hai nước, cho nên nhất nhất nghe cả. Hắn lại khuyên ta dâng biểu cầu phong, bảo sau khi đệ biểu lập tức lui quân. Vậy mà biểu đã đi rồi, quân vẫn không lui, lại còn bồi đắp rào luỹ, sửa sang khí giới, tự lấy thế làm đắc kế, bội ước thất tin đến vậy là cùng. Nay các nơi Thanh Hoá, Diễn Châu, quân thủ vệ đã đều đến hết cả đây, phàm vợ con tài vật của họ, không hề bị suy suyển mảy may nào cả. Ta nghĩ cái kế hơn hết của lũ ngươi bây giờ không gì bàng ra khỏi thành, cùng quan Đốc quân họ Sài quyết việc về để khỏi chết uổng mấy ngàn tính mệnh ở trong thành.

Ta thường xem những việc đắt thất của người xưa, như Bạch Khởi nước Tàu, Hạng Võ nước Sở, giết kẻ đã hàng và bội ước. Ta quyết không khi nào lại làm như thế: các người nên cứ khoan tâm, đừng nghi ngờ mà hỏng việc. Ngươi nếu bảo thành cao hào sâu, lương thực lại nhiều, thì như Thanh Hoá, Nghệ An các thành, thành không phải không cao, hào không phải không sâu, lương không phải không nhiều, binh không phải không mạnh, mà quan Đô đốc Sái, quan không phải không to, trí không phải không sáng, cũng còn phải tuỳ thời đạt biến, để giữ toàn tính mệnh cho mấy vạn người: vậy mà lũ ngươi lại còn muốn giữ lời bàn hư để mang lấy vạ thực, há chẳng cũng lầm lắm ư?

Vả ta xem nước ngươi hiện nay, trong có mối nguy biến tường vách, ngoài có kẻ cường địch Bắc Nguyên, hoàng trùng đại hạn luôn năm, giặc cướp nổi như ong vấy, cái cơ táng loạn, há chẳng đủ biết trước rồi sao. Bậc trí giả thường biết trước từ khi việc chưa đến nơi, cớ sao lũ ngươi lại kiến cơ một cách muộn màng mà cố muốn tự khổ như vậy. Lũ ngươi nếu chịu ra ngoài thành cùng ta hoà thân, ta sẽ coi các ngươi như tình anh em ruột thịt, chẳng những là bảo toàn vợ con tính mệnh mà thôi. Nếu không như vậy thì tuỳ lòng các ngươi, chỉ trong sớm tối sẽ gặp nhau chẳng lâu lai gì. Đến lúc bấy giờ, các ngươi có hối lại cũng không kịp nữa, các ngươi nên nghĩ kỹ.

Thư dụ thành Tam Giang

Thư ngỏ cùng tướng hiệu quan viên quân nhân trong thành Tam Giang.

Chỗ đáng quà của người quân tử là ở chỗ thức thời đạt biến, lượng sức liệu mình. Nay có kẻ lấy quả trứng chim để chống với núi Thái, lấy càng bọ ngựa để cản lại bánh xe, mà tự cho là sức có thừa tưởng cũng tự ngu quá lắm. Lũ ngươi lấy một số vài ba trăm quân, giữ mảnh cô thành để cùng ta đối kháng, phỏng có khác gì như thế? Thử nghĩ thành trì của các ngươi, cao sâu không thấm với thành Nghệ An, lương thực của các ngươi, đầy đủ sao được bàng thành Diễn Châu, mà quân vũ dũng cảm tự lại lấy đâu được nhiều như quân Diễn, Nghệ, quan tước của các ngươi, lại không lớn bàng Sái đô đốc. Nay Diễn, Nghệ, Thuận Hoá, Tân Bình, Trấn Giang, các xứ, quân giữ thành đều đã mở cửa ra hàng. Dưới cây bồ đề ở bến nay (bến bồ đề) Sái đô đốc đã định ngày rút quân về kinh, phàm những quan quân và vợ con tài sản, đều không bị phạm đến mảy may nào cả. Vậy mà lũ ngươi còn cứ mê lú, không chịu tính xa, sao mà kiến cơ một cách chậm muộn vậy?

Các tướng sĩ của ta ai cũng đều hăm hở muốn phá vào thành, nhưng ta nghĩ tưhơng số người vô tội ở trong thành, vì các ngươi mà bị vạ lây, tiếng trống nổi lên, ngọc đá không còn phân biệt, bởi vậy viết mấy dòng chữ này gởi đến.

Hết Chương 7: 7) Tập thư trao cho các tướng Minh
Thông tin sách