SỰ TUÂN THỦ PHÒNG VỆ[1]
Tuân thủ thực sự là một khái niệm khá phức tạp, có nhiều loại tuân thủ khác nhau:
1. Tuân thủ với các chuẩn mực[2] chúng ta đã thảo luận trước đây thường là hoàn toàn vô thức. Nó có thể được tiếp nhận (được học tốt) khi còn thơ ấu. Chúng ta hiếm khi nghi ngờ những chuẩn mực xã hội[3]; đúng hơn chúng ta coi đó là những chuẩn mực được định sẵn, giống như "mọi thứ vốn là như vậy." Nhận thức này được ủng hộ trong suốt cuộc đời bởi "tính hiệu lực" của chuẩn mực -- nó là chuẩn mực có nghĩa là nó hoạt động bởi vì tính hiệu lực.
2. Nhưng đôi khi chúng ta lựa chọn tuân theo một cách có ý thức, đó là khi chúng ta tự nguyện tham gia một nhóm. Chúng ta chấp nhận những chuẩn mực nhất định bởi vì nhóm này hấp dẫn chúng ta, chúng ta hòa mình trong nhóm và trong các giá trị hay mục tiêu của nhóm. Ở những hình thức mang tính cường điệu hơn, thì điều này được gọi là sự chuyển đổi[4].
3. Trong các trường hợp khác, chúng ta tuân theo bởi chúng ta bị bắt buộc, tức là chúng ta có ý thức về sự tuân theo của mình nhưng dường như có rất ít sự tự nguyện trong đó. Điều này thường được gọi là sự phục tùng[5], và nó có thể do bất cứ thứ gì gây ra từ một khẩu súng dí vào đầu đến một lời hứa sẽ nhận được viên kẹo. Nói cách khác, nó là sự tuân theo do chế tài của xã hội hay của nhóm.
4. Nhưng hầu hết những gì chúng ta gọi là sự tuân thủ trong tài liệu nghiên cứu liên quan tới "điều gì đó có ý thức" và "không hoàn toàn tự nguyện." Lo lắng xã hội thường dẫn tới điều này -- lo sợ ngượng ngùng, không thoải mái với sự xáo trộn, ý thức về sự yếu kém hơn, ước mơ được yêu mến... Tôi nghĩ điều này nên được gọi là sự tuân thủ phòng vệ.
Solomon Asch và sinh viên của ông thực hiện nghiên cứu cơ bản về dạng tuân thủ này:
Thử tưởng tượng rằng bạn tự nguyện tham gia một thử nghiệm tâm lý, và bạn có mặt trong phòng thí nghiệm vào thời gian đã hứa. Trong phòng có một cái bàn và bốn cái ghế xung quanh, có ba sinh viên khác đã ngồi vào ba chiếc ghế. Vì vậy bạn ngồi vào chiếc ghế cuối cùng và tự chuẩn bị cho một dạng thử nghiệm tâm lý kỳ lạ. Cuối cùng, người thử nghiệm bước vào đem theo hai chồng bài cát tông lớn. Anh ta tự giới thiệu, cám ơn bạn về sự tự nguyện và bắt đầu giải thích: Một bộ bài, được thể hiện bởi quân bài trên cùng, có ba vạch riêng biệt, mỗi vạch có chiều dài khác nhau. Một bộ bài khác có một vạch riêng biệt. Công việc này được gọi là "đánh giá chiều dài vạch" và trông có vẻ rất dễ: Thậm chí từ một khoảng cách xa, vạch nằm giữa ba vạch này kết hợp với một vạch đơn rất rõ ràng.
Nào chúng ta hãy bắt đầu. Người thử nghiệm chỉ vào sinh viên thứ nhất. Anh ta nhìn vào các vạch này, một chút ấp úng... và lựa chọn cách kết hợp sai! Ồ mới chỉ là một người trong số đông. Người thử nghiệm gật đầu có vẻ tin tưởng vào bản thân! Anh ta chỉ vào người tình nguyện thứ hai, anh này cũng ấp úng... và lựa chọn vạch không đúng! Bây giờ bạn bắt đầu cảm thấy không được thoải mái. Người thử nghiệm chỉ vào người thứ ba -- đây là cơ hội cuối cùng của cậu -- và anh ta cũng lựa chọn câu trả lời hoàn toàn sai. Bây giờ đến lượt bạn. Là một người chính trực, bạn đưa ra câu trả lời đúng -- lúc này, toàn bộ ba người tình nguyện và người thử nghiệm nhìn bạn như thể bạn là người ngoài hành tinh.
Người thử nghiệm đưa xem quân bài thứ hai của mỗi nhóm, và bắt đầu lại. Những sinh viên lại bắt đầu đưa ra những câu trả lời bạn thấy rõ ràng là sai. Nhưng lúc này, khi đến lượt bạn, bạn sẽ làm gì? Thậm chí trong hoàn cảnh xã hội không bị đe doạ chút nào, 35% thời gian những đối tượng trong thử nghiệm này đưa ra những phản ứng hoàn toàn sai. Đúng là 10% đối tượng không bao giờ thích ứng; thật không may 10% khác thích ứng ở mọi thời điểm hay ở toàn bộ những lần thử nghiệm đầu tiên. Và, mặc dù mỗi người trong số chúng ta hoàn toàn tin rằng ta là một phần trong số 10% đầu tiên -- người cùng trong nhóm người theo chủ nghĩa cá nhân thiếu tế nhị -- nhưng thực tế đó chỉ là những gì mọi người nghĩ. Bạn không biết bạn sẽ cư xử thế nào cho đến khi bạn ở đó!
(Chú ý: ba đối tượng đầu thường là những người đồng mưu với người thí nghiệm -- thường là sinh viên cao học.)
Asch và sinh viên của ông đã thực hiện nhiều thay đổi trong nghiên cứu này để tìm ra những biến đổi có ảnh hưởng quan trọng tới lượng phù hợp:
1. Sự khó khăn hay không rõ ràng của công việc[6]. Ví dụ, chúng ta có thể làm cho sự khác biệt giữa chiều dài các vạch ngắn hơn nhiều và do vậy câu trả lời đúng chắc chắn sẽ ít hơn. Bạn có thể đoán, sự phù hợp tăng theo các trường hợp đó. Một thử nghiệm tương tự được Shaw sử dụng để tính những tiếng lách cách trong máy đếm nhịp. Ông nhận thấy rằng máy nhịp càng nhanh thì sự phù hợp càng tăng.
Điều đang diễn ra là chúng ta cần ngày càng nhiều sự cống hiến của nhóm khi công việc trở nên khó khăn hơn. Nếu trong tình huống ban đầu, chúng ta tuân theo bởi vì chúng ta không muốn rắc rối, thì trong tình huống không rõ ràng chúng ta cũng "tuân theo" bởi chúng ta ít chắc chắn về bản thân và những người khác chính là nguồn thông tin. Một vài người gọi điều này là sự thay đổi từ những áp lực mang tính quy chuẩn để tuân thủ sang những áp lực thông tin để tuân thủ.
Mặc dù, có thể sẽ là tốt hơn nếu coi nó giống như sự chồng chéo giữa hai quá trình khác nhau: Một mặt, chúng ta cho biết nhu cầu của mình để người khác chấp nhận (và những nhu cầu xã hội khác); mặt khác, chúng ta nói nhu cầu của mình để nhận thức đúng về những gì đang tiếp diễn xung quanh chúng ta.
2. Khả năng nhận thức tương đối của đối tượng và của nhóm[7]. Trong một nghiên cứu, họ để các đối tượng thực hiện nhiệm vụ đánh giá vạch, đầu tiên tiến hành một mình, và họ nhận được phản hồi về việc họ làm tốt ở mức độ nào: "Bạn làm thực sự tốt" hay "Ở thử nghiệm này bạn làm không tốt lắm!". Tuy nhiên, phản hồi là ngẫu nhiên, tức là không có liên quan với kết quả thí nghiệm. Nói cách khác, người thí nghiệm tác động vào lòng tự trọng của mọi người.
Sau đó, đối tượng được đặt vào thí nghiệm của Asch. Nếu người ta cho họ biết họ làm tốt -- nghĩa là cảm thấy có năng lực -- họ ít tuân thủ hơn. Nếu người ta cho họ biết họ làm không tốt -- tức là cảm thấy không có năng lực -- họ tuân theo nhiều hơn. Chú ý rằng điều này cũng liên quan tới mức độ đánh giá nhu cầu thông tin: Nếu bạn không thành thạo ở một việc nào đấy, bạn sẽ quay sang nhờ người khác hướng dẫn.
Bạn cũng có thể kích thích khả năng nhận thức của nhóm: Tưởng tượng rằng bạn đang trải qua tình huống của Asch với ba anh chàng đeo kính rất dày, ngồi thẳng, liếc mắt hung hăng.... Nếu bạn tin họ thiếu khả năng (ở nhiệm vụ này) bạn sẽ ít tuân theo họ hơn. Hay chúng ta có thể làm ngược lại: Tưởng tượng ở đó với ba sinh viên kiến trúc, tất nhiên những người này khá giỏi về các đường kẻ...
3. Vị thế nhận thức tương đối của nhóm và của đối tượng[8]. Nếu ảnh hưởng của nhận thức liên quan tới nhu cầu thông tin hợp lý, thì ảnh hưởng của tác động của vị thế sẽ ít hợp lý hơn nhiều, và nó đưa ra một ví dụ rõ ràng hơn về sự tuân thủ "phòng vệ". Nếu chúng ta bị thuyết phục rằng nhóm này có một vị thế nhận thức cao hơn (trong mắt chúng ta), chúng ta tuân theo nhiều hơn. Nếu chúng ta bị thuyết phục rằng họ đang ở vị thế thấp hơn thì chúng ta tuân theo ít hơn.
Điều này cũng đúng đối với sự tuân thủ nhóm của các cá nhân: nếu chúng ta nhận thấy một người có vị thế cao băng qua đường không tuân theo tín hiệu dừng đi, chúng ta có khả năng theo anh ta nhiều hơn là khi chúng ta nhìn thấy một người có vị thế thấp làm điều đó. Thậm chí điều này còn đúng hơn khi vị thế được kết hợp với năng lực: Ai là người tốt hơn để đi theo trong hệ thống giao thông ở New York, một uỷ viên trẻ nhanh nhẹn hay một kẻ vô công rồi nghề bốc mùi rượu?[9]
4. Đòan kết nhóm[10]. Nếu nhóm này gồm những người bạn thì chúng ta tuân theo nhiều hơn. Mặc dù theo cách của mình, trong một nhóm toàn bạn bè, tự do "làm chúng ta", mong muốn để làm 1 nhóm đòan kết là một phần khiến chúng ta là bạn bè!
Nhưng chúng ta không cần chỉ nhìn vào xu hướng tuân theo của chúng ta về nhóm mình mà chúng ta cũng tuân theo những nhóm chúng ta mong muốn được là thành viên -- nhóm liên quan đến mình. Đối tượng bị hấp dẫn bởi nhóm càng nhiều, sự tuân thủ càng tăng. Ví dụ, hãy hình dung một nam sinh cam kết với một nhóm anh em trai trong hội.
Có lẽ yếu tố quan trọng nhất của nhóm đòan kết là chia sẽ các mục tiêu. Khi nhóm có một mục tiêu chung, sự tuân thủ sẽ nhiều hơn. Trong một thử nghiệm, người ta nói với các đối tượng rằng nhóm có câu trả lời chính xác nhất sẽ nhận được những tấm vé xem kịch họ đang mong ước. Bạn nghĩ rằng tất cả mọi người sẽ cố gắng cao nhất để đưa ra những dự đoán chính xác của mình, thậm chí nếu phần còn lại của nhóm có vẻ không đồng ý. Nhưng thay vào đó chúng ta lại nhận ra sự tuân theo hơn bất kỳ lúc nào. Không ai muốn "đứng ngoài" khi những điều có giá trị đang bị đe dọa. Giống như người Nhật nói, cái đinh ló ra dễ bị búa đóng vào![11]
5. Thành phần nhóm[12]. Nếu đối tượng nghĩ rằng nhóm gồm nhiều loại người khác nhau, anh ta hay cô ta cũng sẽ tuân thủ hơn. Nếu tất cả họ giống nhau, và tất cả họ đều mắc phải cùng một lỗi ngớ ngẩn tất nhiên bạn sẽ cho rằng phải có điều gì đó đối với nhóm. (Bạn có nhớ sự quy kết?)
Nhưng nếu bạn là một sinh viên, bên cạnh bạn là chủ ngân hàng, ở phía bên kia là người nội trợ, và phía cuối là anh thợ nề -- vậy thì cái gì là điểm chung của họ khiến họ cư xử một cách hòa đồng. Bạn chính là người có nhận định sai lầm và bởi vậy bạn tuân theo và hòa đồng với họ.
6. Số lượng thành viên trong nhóm[13]. Sự biến đổi dễ dàng nghiên cứu nhất là số thành viên trong nhóm, nhưng kết quả lại đơn giản một cách đáng thất vọng. Sự tuân thủ sẽ cao với 3 hay 4 người; tuân thủ cao hơn với 6 hay 7 người; sự tuân thủ dừng lại ở mức 15 hay 16 người. Rõ ràng, áp lực xã hội trong tình huống của Asch không tăng theo tuyến tính với số lượng thành viên trong nhóm.
Tuy nhiên, so sánh với những ảnh hưởng về hành vi của nhóm lớn (hành vi của quần chúng.) thì nếu bạn xem phim về những cuộc mít-tinh khổng lồ của Hítle, sự mộ đạo tôn giáo quy mô, hay một trận bóng đá, bạn biết rằng hành vi xúc cảm rất dễ lây truyền trong đám đông lớn. Có một điều gì đó trong đám đông khiến người ta không còn ý thức hay thậm chí mất nhân cách: Bạn không còn ý thức về cá nhân và để quần chúng mang bạn đi.
7. Sự nhất trí trong nhóm[14]. Có lẽ sự nhất trí trong nhóm là thứ có khả năng thay đổi mạnh nhất trong nghiên cứu của Asch. Trong những nghiên cứu đầu tiên, các đối tượng luôn luôn nhất trí đồng lòng. Tất cả điều bạn muốn là một người không tuân thủ theo những người khác và câu bùa chú bị phá bỏ. Bạn có thể cảm thấy tự do đi lệch hướng. Thậm chí điều này đúng khi một đối tượng ngỗ nghịch vẫn đưa ra câu trả lời sai để hòa đồng với nhóm!
Đây là một điểm rất quan trọng. Hầu hết mọi xã hội đều hà khắc với những người bất tuân thủ bởi vì sự bất tuân thủ đe doạ sự ổn định của cấu trúc xã hội. Nếu người bất tuân thủ biểu lộ sự bất tuân thủ của anh ta mà chịu các hình phạt thì những người khác sẽ làm theo. Do đó "trách nhiệm" của xã hội là phải đảm bảo có hình phạt! Nhớ rằng, đây có thể là một điều tốt hay điều xấu, nó phụ thuộc vào xã hội và bản chất của sự bất tuân thủ.
Đa dạng văn hóa
1. Dân tộc. Khi chúng ta so sánh giữa người Na-uy và người Pháp về khuynh hướng tuân thủ, chúng ta nhận thấy rằng người Na-uy tuân thủ hơn người Pháp. Điều này không có gì ngạc nhiên đối với những người đã quen thuộc với hai nền văn hoá này: Người Na-uy nhấn mạnh vào trách nhiệm xã hội truyền (kể từ thời Viking!); Người Pháp có truyền thống xa xưa về chủ nghĩa cá nhân mang màu sắc đặc biệt. (Thật buồn cười nếu bạn muốn chọn gây chiến với một người Pháp, hãy chọn đề tài!)
2. Sự ghét bỏ. Văn hóa Nhật Bản, giống với văn hoá Na-uy, nó có xu hứng nhấn mạnh vào truyền thống, sự hợp tác, trách nhiệm, và giống người Na Uy, người Nhật có xu hướng tuân thủ nhiều hơn người Mỹ. Nhưng khi so sánh sinh viên đại học Nhật Bản với sinh viên đại học ở Mỹ, người ta nhận thấy rằng họ tuân thủ ít hơn! Thực tế, họ có xu hướng chống lại sự tuân thủ, tức là có xu hướng đưa ra câu trả lời sai khi nhóm đưa ra các câu trả lời đúng (chúng ta có thể nói, thật là chảnh).
Đây là ảnh hưởng của sự ghét bỏ. Sinh viên Nhật dường như cảm thấy mất mát chút ít, không còn là một phần trong văn hoá truyền thống Nhật Bản, nhưng cũng không phải là phần đích thực của văn hoá phương Tây, mà nền văn hóa này chi phối cuộc sống đại học và các nghiên cứu. Chúng ta thấy ảnh hưởng tương tự này gần hơn trong gia đình vào thập kỷ 60 thế kỷ 20 với phong trào híp-pi: phần lớn các sinh viên ở tầng lớp trung lưu cảm thấy không còn là một phần văn hóa vượt trội, hướng tới thành công ở xung quanh họ, và thường xác định bản thân, không phải trên khía cạnh "điều đó chính là tôi" mà là ở khía cạnh "Tôi không phải là bạn," tức là chống lại sự tuân thủ.
3. Vị thế được chỉ định. Vị thế được chỉ định là vị thế gắn với bạn khi sinh ra, vị thế xã hội chỉ định cho bạn, không liên quan gì tới mong muốn và khả năng của bạn. Vị thế thấp được chỉ định cho người da đen, phụ nữ và những nhóm sắc tộc khác nhau, là những ví dụ rõ ràng cho vấn đề này.
Trong những năm 50, người ta nhận thấy rằng, mặc dù không có sự khác biệt nào giữa người da trắng và người da đen về xu hướng tuân thủ nói chung, nhưng cả trẻ em da trắng và da đen đều tuân thủ hơn khi đa số trong nhóm của của chúng là da trắng chứ không phải là da đen. Trở lại những điều chúng ta đã xem xét: vị thế nhận thức tương đối và khả năng nhận thức tương đối, ý thức về lòng tự trọng thấp hơn thường đi kèm với vị thế chỉ định thấp.
4. Sự khác biệt về giới. Trong những năm 50 và 60, nghiên cứu chỉ ra rằng hầu hết phụ nữ tuân thủ hơn đàn ông. Các nhà tâm lý học xã hội - nhất là những người đàn ông -- say xưa với điều này. Nhưng Sistrunk và McDavid (1971) đã xem lại nghiên cứu này và chú ý tới một điều đặc biệt: Tất cả các nhà nghiên cứu viên đều là đàn ông!
Sistrunk và McDavid bắt đầu với 100 lời phát biểu về quan điểm và thực tế, ví dụ "Xe Fords tốt hơn xe Chevies," "bánh ngọt dễ làm hơn bánh nướng," và "trái đất chuyển động quanh mặt trời." Sau đó họ yêu cầu 53 người đánh giá câu nói nào "có nam tính" (thí dụ "xe Fords..."), hay "nữ tính" (thí dụ "bánh ngọt.."), hay "trung lập" ("trái đất..."). Sau đó, với bất kỳ câu nói nào 80% số người đồng ý được đưa vào trong một bảng hỏi. Và với mỗi câu, họ kèm theo một "câu trả lời của đa số" giả tạo (ngẫu nhiên) thí dụ "Hầu hết người Mỹ đồng ý."
Sau đó, họ đưa bảng hỏi cho 270 đối tượng nam và nữ. Dưới đây là kết quả: (Những người đại diện cho "xu hướng tuân thủ;" không lo lắng về con số tuyệt đối -- họ nhìn vào sự khác biệt và tương đồng.)
Mục Nam tính
Mục Nữ tính
Mục Trung lập
Trung bình cộng
Nam giới
34.15
43.05
39.65
38.95
Nữ giới
42.75
34.55
39.10
38.80
Điều mà các con số này thể hiện là trong văn hóa của chúng ta, phụ nữ là người khá tuân thủ khi vấn đề có liên quan đến thể thao, xe hơi hay những lĩnh vực mà họ không biết nhiều hoặc không quan tâm nhiều; và đàn ông là người tuân thủ trong những lĩnh vực liên quan đến nấu nướng, thời trang hay lĩnh vực họ hoặc không biết hoặc không quan tâm. Nói cách khác, sự tuân thủ của hai giới là như nhau. Kết quả đưa ra lúc ban đầu do một thực tế là đàn ông xây dựng nghiên cứu sử dụng những câu nói họ cho là hấp dẫn -- tức là những câu hỏi cho đàn ông!
SỰ PHỤC TÙNG[15]
Sự phục tùng là một hiện tượng rất giống với sự tuân thủ. Phục tùng có thể được phân biệt với tuân thủ ở chỗ phục tùng nhấn mạnh vào tác động của tính hợp pháp (ngược lại các áp lực xã hội khác), và bởi thực tế rằng nó thường liên quan tới một cá nhân riêng lẻ -- người nắm quyền.
Nghiên cứu nổi tiếng nhất liên quan tới sự phục tùng là của Stanley Milgram. Hãy tưởng tượng bản thân bạn đang ở trong tình huống này: Bạn tự nguyện tham gia vào một thử nghiệm tâm lý học, vì vậy bạn nhận đứng trong văn phòng của tiến sĩ Milgram vào một buổi tối. Một sinh viên khác đã ở đó với tiến sĩ Milgram. Tiến sĩ Milgram cám ơn hai bạn về sự tự nguyện và giải thích rằng đây là nghiên cứu về ảnh hưởng của sự trừng phạt đối với việc học tập. Một người trong số hai bạn sẽ là giáo viên và người kia là học sinh. Để quyết định điều này, ông ta yêu cầu mỗi bạn chọn một mảnh giấy nhỏ trong một chiếc mũ: Miếng giấy của bạn ghi giáo viên, và của người tình nguyện kia ghi học sinh.
Bạn và tiến sĩ Milgram đưa học sinh vào một phòng nhỏ cạnh cửa, bạn giúp đỡ vị tiến sĩ tài giỏi này buộc học sinh vào một thứ giống như chiếu ghế điện. Sau đó, bạn gián điện cực vào các phần khác nhau trên cơ thể anh ta.
Bạn và tiến sĩ Milgram trở lại phòng làm việc của ông ta, ông ta đặt bạn trước micro, loa, và một thứ trông khá nguy hiểm, đó là một cỗ máy điện tử với 30 nút tắt bật nằm thành một hàng dọc theo phần dưới đằng trước, được ghi từ 30 vol đến 450 vol (Những nút gần cuối có ghi ở trên là "Nguy hiểm: điện áp cao!")
Bạn chuẩn bị đọc một danh sách các những chữ không có nghĩa vào micro cho học sinh ở phòng bên cạnh nghe và anh ta phải nhắc lại chúng theo một trật tự đúng như bạn đã nói. Nếu anh ta nhắc sai, bạn kéo công tắc thứ nhất. Sau đó, công tắc này sẽ bị khoá lại, yêu cầu bạn phải sử dụng điện áp cao hơn tiếp theo nếu anh ta mắc sai lầm lần sau.
Nếu bạn đọc danh sách, và tất nhiên, học sinh lại mắc một vài lỗi, bạn kéo công tắc thứ nhất. Bạn đọc lại danh sách, nhưng anh ta lại mắc lỗi, vì vậy bạn kéo công tắc tiếp theo. Khi bạn chuyển lên công tắc này, học sinh bắt đầu càu nhàu. Ở 75 vol, anh ta than vãn chút ít. Ở 150 vol, anh ta van xin từ bỏ thí nghiệm. Có lẽ, bạn quay sang tiến sĩ Milgram, ông ngồi cạnh bạn và đang chữa bài kiểm tra, bạn hỏi ông ta đã đồng ý dừng lại hay chưa. Ông ta giải thích rằng cả hai bạn đã tình nguyện làm thử nghiệm và ông ta mong cả hai bạn hoàn thành thử nghiệm này.
Ở 180 vol, người học sinh la hét rằng anh ta không thể chịu đựng được sự đau đớn này. Bạn đang dao động và đổ mồ hôi hột. Ở 300 vol, bạn giật công tắc và bắt đầu nghe thấy tiếng thét khác phát ra từ cổ họng người học sinh, nhưng nó bị nghẹn lại. Khi bạn đọc lại cho anh ta nghe danh sách, thậm chí anh ta không còn cố gắng phản ứng. Anh ta bất tỉnh! Có lẽ, thậm chí anh ta đã chết! Bạn quay sang tiến sĩ Milgram để xin chỉ dẫn, và ông ta nói với bạn: "Không phản ứng là một cách trả lời sai lầm. Đừng lo lắng: Sẽ không có sự phá huỷ thần kinh lâu dài. Hãy tiếp tục."
Bạn tiếp tục gây sốc cho người tình nguyện tới điện áp cao nhất 450 volts, tất nhiên không có ý thức, toàn bộ điều này là một sự thiết lập mà người học sinh là sự liên minh với tiến sĩ Milgram!
Trước khi Milgram làm thử nghiệm này, ông ta hỏi một vài ý kiến của các nhà tâm thần học có bao nhiêu phần trăm số người có thể chịu đựng đến cùng. Các nhà tâm thần học (chúng ta nghĩ họ biết về hành vi điên rồ này) cho rằng hầu hết mọi người chịu đựng được đến 150 vol (khi học sinh yêu cầu chấm dứt thử nghiệm), chỉ có 4 % có thể chịu đựng được tới điện áp 300 vol, và chỉ có 1% chịu đựng được điện áp 450 vol.
Trong nghiên cứu Milgram thì 62% đi đến hết cuộc thử nghiệm với điện áp lên đến 450 vol.
Đây là điều gây ngạc nhiên (không có ý định chơi chữ) đối với cộng đồng các nhà tâm lý học (kết quả cao hơn mong đợi!). Thử nghiệm này được thôi thúc thực hiện nhờ những thử nghiệm của Nurenburg, trong thử nghiệm của Nurenburg những si quan Nazi thường cam kết rằng họ chỉ tuân theo mệnh lệnh. Mọi người cho rằng những hành động hung bạo do những sĩ quan này gây ra là kết quả của nhân cách bị bóp méo được nền văn hóa bóp méo khuyến khích, rằng những người Mỹ gan dạ sẽ không bao giờ dính dáng đến cách cư xử kiểu như vậy. Sau cùng, chúng ta là những người theo chủ nghĩa cá nhân. Nghiên cứu của Milgram đã chỉ ra một cách hơi đột ngột rằng chúng ta không phải vậy.
Tất nhiên, các kiến thức về lịch sử đã khiến những nghiên cứu của Milgram trở nên không cần thiết: Sự phục tùng quyền lực và những hành động hung bạo thường đi cùng với nhau, nó là một phần trong sự tồn tại của con người, cứ quay trở về lịch sử ta sẽ thấy điều này. Cách đây không lâu, chúng ta có ví dụ về Nazi. Gần đây hơn, chúng ta có ví dụ về Amin ở Uganda và Pol Pot ở Cam-pu-chia, và sự "thanh lọc sắc tộc" ở Bosnia. Và thậm chí những người Mỹ gan dạ chúng ta vẫn còn nhớ cuộc thảm sát ở Mỹ Lai, Việt Nam, đấy là còn chưa đề cập đến sự đối đãi nhận được từ người Mỹ bản địa, người Mỹ gốc Phi, người nhập cư và những lao động trong hơn hai thế kỷ tồn tại của chúng ta.
62 % là con số khó tin. Nhưng có thể đó là do nói quá lên. Vậy hãy chỉ nói 10% thôi. Dân số của chúng ta là 250 triệu người. 10% của số đó là 25 triệu, 25 triệu người sẽ tuân theo lệnh làm tổn hại hay giết người khác.
(TQ hiệu đính: đây là 1 tiêu đề rất quan trọng, cho nên tôi xin phép được nói rộng thêm. Xã hội Mỹ tự hào về sự tự do cá nhân, nhưng nghiên cứu của Tiến Sĩ Milgram chỉ ra rằng 62% số người Mỹ có khuynh hướng phục tùng. Và dù con số đó không chính sác, hay giả như con số chính sác là 10%, thì nó có nghĩa rằng, khi chính phủ Mỹ ra 1 quyết định gì đó (bất luận đúng hay sai) thì có ít nhất 25 triệu người Mỹ sẽ thi hành. Và nếu quyết định của chính phủ Mỹ là sai và tàn ác, thì nó có nghĩa rằng 25 triệu người thi hành điều ác. Và hãy áp dụng thống kê này vào nước khác, như Trung Quốc. Nếu chính phủ Trung Quốc ra 1quyết định sai lầm, thì có ít nhất là 100 triệu người Trung Quốc thi hành chính sách sai lầm.)
Khi chúng ta kết hợp xu hướng phục tùng này với những hành vi trái đạo đức, thiếu sự cảm thông, hay sự tàn bạo... Một vài năm trước đây, bang Texas đăng tuyển hai vị thi hành án tử hình bằng cách tiêm thuốc độc, những người thi hành án sẽ được trả 600 đô la cho một cái chết. Và bang Texas đã nhận được hơn 30.000 hồ sơ dự tuyển cho vị trí này. Nếu tình trạng của thế giới hay của quốc gia khiến cho bạn buồn, có lẽ bạn nên xem xét xem mình đã làm việc như thế nào, cho bạn làm việc cùng ai.
Giống với thử nghiệm của Asch, thử nghiệm của Milgram đã được sửa đổi lại để tìm ra những ảnh hưởng của trạng thái ở gần người học. Trong thử nghiệm ban đầu, người học được đưa vào một phòng riêng biệt. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu anh ta được ngồi cùng phòng hay thậm chí ngồi ngay cạnh người giáo viên là bạn? Hay điều gì sẽ xảy ra nếu bạn là người đụng vào anh ta để gây sốc? Như bạn có thể hình dung, trạng thái gần gũi có thể làm giảm một cách đáng kể mức độ của sự phục tùng: Nếu người học và giáo viên trong thử nghiệm ở chung một phòng, sự phục tùng sẽ giảm xuống còn 40%, nếu giáo viên chạm vào người học để gây sốc, sự phục tùng giảm xuống còn 30%.
Nghiên cứu ban đầu của Milgram được thực hiện ở "một trường đại học danh tiếng ở Miền Đông nước Mỹ" (Trường Đại học Yale). Điều gì sẽ xảy ra nếu như thử nghiệm được thực hiện tại một tòa nhà văn phòng xiêu vẹo ở khu buôn bán kinh doanh Bridgeport, Connecticut? Ồ, có lẽ phần trăm của sự phục tùng sẽ giảm xuống còn 48%.
Trong nghiên cứu ban đầu của tiến sĩ, giáo sư, nhà tâm lý học, nhà khoa học, Milgram, ông đã dành toàn bộ thời gian để ngồi đó, ông là hiện thân của quyền lực. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu ông không có mặt ở đó? Điều gì sẽ xảy ra nếu ông đưa ra sự chỉ dẫn của mình qua điện thoại? Sự không có mặt của người đại diện cho quyền lực sẽ làm giảm sự phục tùng xuống còn 21%. Tương tự như vậy, nếu một người "bình thường" là người đưa ra lệnh thì sự phục tùng sẽ giảm xuống còn 20%.
Tuy nhiên, biến số làm giảm mức độ phục tùng nhất là sự xuất hiện của một cá nhân thách thức. Trong kịch bản này, bạn thấy một tình nguyện viên từ chối gây sốc cho bất kỳ ai trước khi thử nghiệm được bắt đầu. Điều này làm giảm sự phục tùng xuống còn có 10%. Một lần nữa ta thấy sự có mặt của "người không tuân thủ" có ảnh hưởng mạnh như thế nào!
Những biến số khác có chút ít ảnh hưởng. Phụ nữ có mức độ phục tùng tương tự như nam giới. Có một vài khác biệt chính khi so sánh giữa các nền văn hóa. Và những nghiên cứu này không chỉ hạn chế đối với người được cho là người tuân giáo ở những năm 50: Những nghiên cứu gần đây cho thấy sự tương đồng hay thậm chí có sự phục tùng cao hơn. (Meeus và Raaijmakers 1986, 1987)
Hầu hết chúng ta, trong những lúc khó khăn, thích nghĩ rằng chúng ta là những người tranh đấu trong bóng tối cho sự tự do, hay là những người tuần hành ủng hộ nhân quyền, hay là những người có nguyên tắc. Nhưng thật không may, những người ở trong tình huống đó sẽ nói với bạn rằng bạn không thực sự biết bạn sẽ hành động như thế nào cho đến khi bạn ở trong những tình huống đó. Đối với hầu hết chúng ta, sự không phục tùng quyền lực hay không tuân thủ các áp lực xã hội là rất khó. Tuy nhiên có hiệu ứng khai sáng (hay sự dự báo tự chuốc lấy thất bại): Biết được sẽ khó khăn như thế nào mang lại cho bạn lợi thế.
SỰ KHÔNG DÍNH DÁNG[16]
Một lĩnh vực nghiên cứu nữa có quan hệ mật thiết với tuân thủ đó là sự không dính dáng. Nó cũng được biết đến như nghiên cứu về sự can thiệp của người ngoài cuộc.
Một ví dụ được ưa thích về sự không dính dáng là ví dụ về vụ Kitty Genovese bị giết chết: Vào 3 giờ sáng, trong khoảng thời gian hơn 30 phút Kitty Genovese đã bị tấn công ba lần tại sân khu chung cư cô ấy ở. Đầu tiên kẻ sát nhân bóp cổ cô, sau đó bỏ đi, rồi quay lại hãm hiếp cô, sau đó hắn lại bỏ đi, và cuối cùng hắn trở lại, giết chết cô. Toàn bộ bi kịch này được chứng kiến, tiếng kêu cứu của cô được 38 người hàng xóm nghe thấy, không ai trong số bọn họ đến cứu cô hay ít ra là gọi điện cho cảnh sát.
Phản ứng kiểu như thế là là bình thường: "Đặc trưng cho thành phố New York;" "Có thể không bao giờ xảy ra ở đây;" và "Điều đó sẽ khác nếu tôi có mặt ở đó." Các nhà tâm lý học Bibb Latane', John Darley và các sinh viên của họ đã quyết định đặt những câu khẳng định trong ngoặc kép đó vào một bài thử nghiệm.
Ở một trong những nghiên cứu của họ, một tình nguyện viên được yêu cầu đợi người thử nghiệm ở trong phòng chờ. Trong cái phòng chờ đó đã có sẵn hai sinh viên khác, họ đang đọc tạp chí. Sau khi người tình nguyện viên đã ngồi xuống ghế, một ít khói sẽ được thổi vào trong phòng nhờ vết nứt ở trên tường gần chỗ tình nguyện viên đó ngồi. Những sinh viên khác (tất nhiên là những người đóng vai phụ, bù nhìn) không có phản ứng gì. Khói biến thành luồng; khói tràn ngập trong phòng; và bạn thậm chí không còn nhìn thấy phía bên kia của phòng nữa. Trong tất cả những trường hợp đó, những người đóng vai phụ kia vẫn ngồi nguyên ở vị trí của họ, đọc tạp chí...và hầu hết các tình nguyện viên đều làm vậy!
Trên thực tế, chỉ có 10% các sinh viên phản ứng trong vòng 6 phút. Thậm chí nếu họ sử dụng 3 sinh viên thực sự -- nghĩa là những sinh viên không phải được hướng dẫn là hãy ngồi yên -- chỉ có 12,5 % là có phản ứng. Khi có một mình 75% sinh viên có phản ứng trong vòng 6 phút.
Một thử nghiệm khác, được Bibb Latane và Judith Rodin thực hiện, thậm chí còn ấn tượng hơn. Một người thử nghiệm là nữ yêu cầu tình nguyện viên điền vào một bảng câu hỏi, một sinh viên khác cũng (hình như) đang làm việc này, và đằng sau cái rèm là một phòng kho. Khi tình nguyện viên điền vào bảng mẫu, anh ta hay cô ta nghe thấy tiếng người thử nghiệm đang leo lên một chiếc thang và có vẻ như đang vật lộn với những cái hộp rất nặng. Bỗng nhiên, cô ấy ngã: cái thang đổ kêu đánh xoảng một cái, toàn bộ thân thể cô đập mạnh xuống sàn bê tông, cô kêu lên "Lạy Chúa, cái chân của tôi... Tôi... không thể cử động được!" Điều này cứ thế tiếp diễn ra khoảng một phút. Người sinh viên kia tiếp tục điền vào bảng câu hỏi. Có khoảng 80% tình nguyện viên tham gia vào thử nghiệm như vậy đã làm thế.
Khi chúng ta ở cùng với người nào đó mà người này không có phản ứng gì, thì chỉ có 20% trong số chúng ta có phản ứng lại với tình huống khẩn cấp mà thôi. Thậm chí ngay cả khi chúng ta ở một mình, chỉ có 70% chúng ta có phản ứng. Điều này sẽ khiến bạn thực sự băn khoăn về con số 30% còn lại, phải vậy không? Liệu có phải họ e sợ việc khó sử khiến họ thậm chí không thể đứng lên để hỏi xem người thử nghiệm có làm sao không?
Ồ, có thể ở đây có điều gì đó còn khác hơn so với việc e ngại sẽ gặp sự khó xử -- mặc dù sự khó xử có khả năng là một yếu tố. Đầu tiên, hầu hết mọi người dường như đều có trải nghiệm ở một mức độ nào đấy về sự sợ hãi thấu cảm -- kết hợp của việc đồng nhất hóa nạn nhân với sự không chắc chắn về điều phải làm khiến cho nhiều người trở nên tê liệt hay hoảng loạn.
Robert Baron đã thấy rằng, khi một nạn nhân bị đau và chủ thể cảm thấy rằng họ có thể làm điều gì đó để làm giảm nỗi đau, thì khi nạn nhân càng bị đau, phản ứng của chủ thể sẽ càng nhanh. Nhưng khi nạn nhân bị đau và chủ thể không biết mình sẽ phải làm gì, thì khi nạn nhân càng bị đau, chủ thể phản ứng càng chậm.
Bởi vậy, nếu chúng ta cảm thấy hơi căng thẳng và không biết chắc mình sẽ phải làm gì, và ở đó lại còn có mọi người khác nữa, chúng ta thường hy vọng rằng những người xung quanh sẽ là người có phản ứng, do đó chúng ta không cần phải làm gì cả. Trên thực tế, càng có nhiều người xung quanh, khả năng chúng ta có phản ứng càng ít đi. Điều này có vẻ đúng trong trường hợp của Kitty Genovese: Khu tập thể của cô tạo thành hình chữ U xung quanh cái sân và cửa sổ của các nhà thì mở. Nhiều người trong số họ đơn giản đã cho rằng ai đó chắc chắn đã gọi điện cho cảnh sát rồi.
Nếu bạn nghĩ thế này thì nó có vẻ khá hợp lý: Nếu tôi ở đó có một mình, tôi có 100% trách nhiệm, và chắc chắn tôi phải giúp đỡ. Nếu tôi ở đó với một người khác nữa, tôi có 50% trách nhiệm, và tôi có thể tung đồng xu để quyết định. Nhưng nếu tôi ở đó cùng 100 người khác, tôi chỉ có 1% trách nhiệm, bởi vậy sẽ là quá táo bạo đối với tôi nếu như tôi cố gắng giúp đỡ (và tiềm năng sẽ bị khó xử là lớn). Người ta gọi điều này là sự phân tán trách nhiệm[17].
Và ngoài ra còn có cả những lý do đơn thuần là ích kỷ để không giúp đỡ người khác: Một số người hàng xóm của Kitty Genovese đã thừa nhận rằng họ không muốn dính líu gì đến việc này -- cái giá phải trả cho việc dính líu đến nó là quá lớn. Nếu bạn chạy ra ngoài và giúp cô ấy, bản thân bạn có thể bị thương hay bị giết (hay bị kiện, đó là điều thường xảy ra đối với những người can thiệp vào những "tranh chấp dân sự"). Thậm chí nếu bạn gọi cảnh sát, bạn sẽ phải khai tường trình, phải thu xếp thời gian tham dự, phải ra làm chứng, và có thể sẽ bị kẻ phạm tội trả thù.
Bây giờ hầu hết chúng ta thích nghĩ rằng chúng ta là những người tốt, thậm chí ngay cả khi chúng ta lạnh người đi vì sợ, hoảng loạn, hay đùn việc cho người khác làm, hay quan tâm đến bản thân mình trước tiên. Bởi vậy chúng ta cần phải chắc chắn về việc biện minh cho những quyết định của mình. Điều này được thực hiện một cách đơn giản nhất bằng cách bóp méo sự thật hay còn được gọi là giải thích lại tình huống.
Ví dụ, trên đại lộ Số 5 ở thành phố New York, vào ban ngày, có một phụ nữ tên là Eleanor Bradley bị gãy chân khi đi mua sắm. Cô nằm đó, đau đớn trong vòng 40 phút trước khi có ai đó đến giúp cô, trong khi đấy có hàng trăm người đi bộ qua cô! Rõ ràng rằng, mỗi người tự giải thích trường hợp của cô theo một cách: có người cho rằng không có chuyện gì nghiêm trọng xảy ra với cô cả, có thể cô say rượu, cô ấy bị điên, cô ấy đang đóng phim, diễn một vai Candid Camera nào đó, hay bất kỳ điều gì khác.
Điều này được củng cố hơn bởi tính trách nhiệm của việc truyền tin đã được đề cập ở trên: Nếu việc cô ấy gãy chân là thực sự nghiêm trọng thì liệu những người đi qua có dừng lại giúp cô không? Chúng ta sử dụng những cái khác như một nguồn thông tin, cũng như hướng về sự sợ hãi lúng túng hay mong muốn sở hữu.
Xem xét những cách mà chúng ta có thể chống lại những xu hướng rủi ro này trong bản thân chúng ta là điều rất có ích. Chúng ta có thể tìm thấy những đầu mối hay trong các nghiên cứu của Leonard Bickman. Ví dụ một số người tham gia vào một cuộc thử nghiệm có liên quan đến việc sử dụng hệ thống liên lạc. Sau đó họ bỗng nghe thấy tiếng la thét qua hệ thống liên lạc này. Những người nghĩ rằng mọi người tham gia trong cuộc thử nghiệm này đều đang ở cùng một tòa nhà có xu hướng ở yên tại chỗ; còn những người nghĩ rằng chỉ có một mình họ và nạn nhân ở trong cùng tòa nhà có xu hướng cố gắng tìm sự trợ giúp.
Trong một nghiên cứu khác của Bickman, lại sử dụng hệ thống liên lạc một lần nữa, 1/3 người trong đối tượng thử nghiệm nghe thấy tiếng la hét, 1/3 người khác nghe thấy tiếng la hét tiếp sau giọng nói của người chứng kiến đang lo lắng, và 1/3 người cuối cùng nghe thấy tiếng la hét và người chứng kiến nói đây là tình huống khẩn cấp. Nhóm đầu tiên ít có xu hướng ít muốn giúp đỡ nhất, còn nhóm cuối cùng có xu hướng muốn giúp đỡ nhiều nhất.
Chính xác là bởi tính chất nhân tạo của họ, những nghiên cứu trên được đưa ra nhằm nhấn mạnh rằng những việc như tính trách nhiệm của sự truyền tin và định nghĩa lại tình huống thực ra là "nằm trong đầu người ngoài cuộc." Do vậy, chúng ta có thể trực tiếp chống lại những xu hướng này hơn bằng cách xây dựng những thói quen cụ thể nào đó. Giả sử như tinh thần trách nhiệm cá nhân (trừ khi có ai đó chuyên nghiệp hơn xuất hiện một cách rõ ràng), và giả sử đó là tình huống khẩn cấp (cho đến khi bạn biết rõ sự thật).
Cũng có một giải pháp cho vấn đề của sự sợ hãi đồng cảm: Xây dựng khả năng xử lý trường hợp khẩn cấp. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng những người có kiến thức trong việc cấp cứu các trường hợp khẩn cấp có xu hướng muốn giúp đỡ nhiều hơn, thậm chí họ muốn cấp cứu cho cả những trường hợp mà họ không được đào tạo. Như những chuyên gia, họ không đánh mất khả năng xử lý trong những tình huống khẩn cấp của mình.
Một lần nữa, hiệu quả của sự khai sáng hay sự tiên tri tự chuốc lấy thất bại[18] lại đóng vai trò trong bạn: Chỉ biết rằng chúng ta có xu hướng không giúp đỡ sẽ khiến khả năng giúp đỡ của bạn cao hơn. Nó có thể làm hỏng những thực nghiệm tâm lý xã hội tương lai, nhưng lại có thể cứu tương lai của Kitty Genoveses.
SỰ BẤT TUÂN THỦ[19]
Nếu tuân thủ nói theo nghĩa đen là tình trạng bình thường thì bất thuân thủ, dù tốt hay xấu, là sự không bình thường hay lầm đường lạc lối. Nhưng bạn có thể bất thường theo nhiều cách khác nhau:
Chứng bệnh tinh thần
Khi ai đó hành động một cách lạ lùng thì một trong những cách dễ dàng nhất là gán cho họ cái mác của một người bị bệnh tâm thần. Thật đáng buồn, có rất nhiều người bị dán cái mác này chỉ bởi vì họ cáu giận, làm phiền hay gây rắc rối cho người khác, đặc biệt khi những người khác đó là những người có quyền lực còn những người bị dán mác đó thì không. Họ không làm những việc mà người ta cho rằng họ phải làm, bởi vậy chúng ta tống khứ họ đi chữa bệnh hay đến một các tổ chức.
Nói như vậy không có nghĩa là không có cái gì được gọi là chứng bệnh tinh thần cả. Mà "đúng" là những chứng bệnh tinh thần thường mang nghĩa rộng là những cư xử, kinh nghiệm, suy nghĩ, hay cảm xúc thực sự gây rắc rối hay hoàn toàn không thể kiểm soát được. Những người lập dị, một người bất đồng về chính trị hay một tội phạm có thể chọn làm những điều mà họ muốn. Một người bị bệnh tâm thần không được hoàn toàn tự do lựa chọn, do đó anh ta không phải chịu trách nhiệm hoàn toàn.
Những vấn đề rất có khả năng liên quan đến chứng bệnh tinh thần là (1) các yếu tố di truyền trội (chẳng hạn như bệnh tâm thần phân liệt được cho là có khả năng di truyền), (2) hệ thống thần kinh bị tổn hại, (3) các chấn thương tâm lý, (4) điều kiện lâu dài, hay (5) nghiện.
Điều này không khiến cho việc phân biệt chứng bệnh tinh thần với các dạng khác của sự bất tuân thủ trở nên dễ dàng hơn. Ví dụ, chúng ta còn lâu mới tạo lập được các phương pháp rõ ràng để phân biệt đâu là nguyên nhân sinh học còn đâu là nguyên nhân tâm lý. Nhiều người tin rằng những tên tội phạm hành động như vậy là do những rối loạn ban đầu và do các điều kiện xã hội. Ở liên bang Xô Viết cũ, những người có quan điểm chính trị bất đồng được coi là kẻ mất trí, vì những quan điểm chính trị, hay ít ra là một phần các quan điểm chính trị đã được hình thành dựa trên những hoàn cảnh điều kiện lâu dài. Hơn nữa, bản thân văn hóa cũng là một vấn đề liên quan đến hoàn cảnh, điều kiện lâu dài. Và những người có nguyên tắc -- Saint Francis là một ví dụ tiêu biểu về kiểu người này, hay người sinh viên đứng trước những cái xe tăng trên quảng trường Thiên An Môn -- thường hành động theo cách mà hầu hết chúng ta coi là điên rồ.
Có một vấn đề mà tôi cần làm rõ là: Ở phần này, chúng ta đang nói về sự xa vời các chuẩn mực chứ không phải trạng thái bình thường. Có nhiều điều không bình thường nhưng không được coi là lệch lạc (ví dụ như tóc đỏ), thậm chí còn được coi là có giá trị (vẻ đẹp, sự thông minh, sức mạnh....)
Sự phạm tội
Khi việc bất tuân thủ có liên quan đến những quy phạm đã được chính thức hóa chẳng hạn như pháp luật thì chúng ta gọi nó là phạm tội. Phạm tội phải thường là do sự lựa chọn, nên nếu tội lỗi đó có biểu hiện của sự thiếu năng lực tinh thần, không cố ý, do tai nạn hay hoàn cảnh thì những yếu tố này ít nhất có thể làm giảm mức độ tội lỗi.
Một số kẻ phạm tội có thể được hiểu là do thiếu xã hội hóa. Lương tâm hay cái siêu ngã của chúng không phát triển, có lẽ là bởi khi bé chúng không được quan tâm, bị lạm dụng, sống trong nghèo đói... Nó cũng có thể là bởi vì ngay từ đầu chúng đã thiếu khả năng cảm thông cơ bản mà một số người coi khả năng này là nền tảng của lương tâm.
Đôi khi những người này cũng được gọi là tâm thần xã hội (sociopath). Thuật ngữ cũ gọi là người bệnh tâm thần (psychopath), nhưng ngày nay thuật ngữ này thường chỉ được dùng cho những trường hợp cực đoan nhất mà thôi. Những người này ít quan tâm đến các tình cảm của con người, lại càng ít quan tâm đến luật pháp và các chuẩn mực xã hội. Tự cho mình là trung tâm, họ muốn cái mà họ muốn khi họ muốn, và lấy cái họ muốn, họ cho rằng họ có đầy đủ những kỹ năng để làm vậy. Đôi khi chúng ta ca ngợi họ -- Billy, đứa trẻ, Bonny và Clyde.... là những người thực sự bất tuân thủ. Nhưng nhìn chung chúng ta coi họ nằm ở biên giới gần với những người mắc bệnh tinh thần.
Tương tự với những người này là những kẻ tội phạm, những kẻ có thể có lương tâm phát triển nhưng chúng lại có những yêu cầu đòi hỏi quá lớn. Ví dụ một kẻ nghiện ma túy ăn cắp để có tiền thỏa mãn cơn nghiện của mình. Hay một người nào đó ăn cắp vì đói chẳng hạn.
Nhưng nhiều kẻ phạm tội thực sự không phải là những người bất tuân thủ mà chúng là những người tuân theo các chuẩn mực khác. Có thể nói rằng, chúng thuộc về tiểu văn hóa tội phạm. Nếu như bạn được nuôi dạy với niềm tin rằng ăn cắp trong nhiều tình huống là tốt trong khi đó nền văn hóa chủ đạo lại coi rằng đó là tội phạm, hay bạn tin rằng giết ai đó để trả thù là một nghĩa vụ đạo đức chứ không phải là tội lỗi, thì chính sức mạnh tuân thủ của bạn ở đây là vấn đề. Những ví dụ có thể đưa ra để minh họa cho loại này là tội phạm "gia đình", các băng đảng ở đô thị, và những nhóm giống như nhóm "klan".
Ngoài ra còn có những người tự định nghĩa bản thân một cách tiêu cực, có nghĩa là định nghĩa theo cách mà những người khác không làm. Đây cũng lại là chống lại sự tuân thủ, và nó có thể chiếm phần lớn trong các hành vi cư xử mang tính phá hoại, chẳng hạn như những hành động phá hoại ngu xuẩn những công trình. Một số nhóm biến hành động chống lại sự tuân thủ thành một phần trong những chuẩn mực của chúng, do đó việc ném vỏ lon bia lên bãi cỏ nhà người khác, hay sơn tên của bạn lên mọi nơi, hay đánh vào những tấm bia mộ đá trở thành những "việc đáng làm."
Những vấn đề gây ra bởi những tiểu văn hóa tội phạm và những nhóm chống lại sự tuân thủ có thể tồi tệ hơn bởi sự xa lánh, ghét bỏ mà nhiều người trong những nhóm có liên quan cảm thấy. Nếu như không có địa điểm vui chơi nào phù hợp với thanh niên thành thị thì nhu cầu liên quan đến bản sắc và ở trong một nhóm nào đó có thể khiến họ phạm tội kiểu tiểu văn hóa và khát vọng xóa bỏ chống lại văn hóa chính thống của họ sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Ví dụ, hãy để ý đến sự gia tăng hoạt động của phái tân Nazi hay hoạt động của bọn đầu trọc ở Đức, bọn chúng hoạt động mạnh hơn khi tình trạng thất nghiệp và dòng người lao động nhập cư tăng lên. Đặc biệt nguy hiểm là những cá nhân có nhân cách yếu, điều nầy khiến họ vô cùng mong muốn được trở thành thành viên và nhận được sự công nhận từ bất kỳ nguồn nào.
Người thể hiện đầy đủ tiềm năng
Một số người khác biệt là những người mắc chứng bệnh tinh thần hay kẻ tội phạm. Hầu hết những người khác biệt chỉ là những người tuân theo các chuẩn mực khác -- có nghĩa rằng họ không phải là "những người không tuân thủ". Nhưng có một số ít người lại thực sự độc lập với các sức ép của sự tuân thủ và họ sử dụng sự tự do của mình để làm những việc tốt. Thuật ngữ phổ biến dùng để chỉ những người này là những người thể hiện đầy đủ tiềm năng[20].
Abe Maslow tin rằng khi bạn không còn bị thúc ép bởi những nhu cầu vật chất, bởi sự sợ hãi, bởi những lo lắng xã hội, hay bởi những phức cảm tự ti của bạn thì bạn thực sự tự do làm những điều mình muốn -- bạn tự do "trở thành người mà bạn có thể.". Bạn là một người thể hiện đầy đủ tiềm năng.
Maslow đã xem xét cuộc sống của một số người mà ông cảm thấy họ là những ví dụ tiêu biểu cho những người thể hiện đầy đủ tiềm năng, bao gồm cả một số người nổi tiếng như Abraham Lincoln và Eleanor Roosevelt. Ông đã kết luận bằng việc đưa ra một danh sách những đặc điểm chung của những người này. Tôi không có ý định liệt kê hết tất cả những đặc điểm đó ra ở đây mà chỉ xin nêu ra một số đặc điểm có ý nghĩa liên quan đến sự không tuân thủ.
Những người thể hiện đầy đủ tiềm năng đấu tranh cho (1) sự tự chủ và độc lập, và họ (2) chống lại đồng hóa văn hóa, có nghĩa là những áp lực xã hội mà hầu hết chúng ta dường như không thể chống lại. Họ không dễ bị gây ấn tượng bởi quyền lực và sự thịnh hành. Thay vào đó, họ dựa vào chính bản thân mình, vào những giá trị, lương tâm, lý lẽ và kinh nghiệm của chính họ.
Họ có (3) những giá trị dân chủ, có nghĩa là họ cởi mở và cảm thấy thoải mái với những khác biệt về văn hóa hay những khác biệt cá nhân. Họ không chỉ khoan dung mà họ thực sự bị thu hút hướng tới những sự đa dạng, khác biệt. Và họ (4) chấp nhận người khác và chấp nhận bản thân mình chứ không như ai đó nói họ nên thế này, nên thế kia.
Những dấu hiệu tinh tế hơn của việc bất tuân thủ của họ là sự thiên vị của họ đối với (5) sự cởi mở, không tính toán, cân nhắc trước, và (6) sự đơn giản hơn là sự giả vờ và không tự nhiên. Họ có khả năng (7) ngộ được những điều mà người khác coi đó là việc đương nhiên, và khả năng (8) sáng tạo cho phép họ ở trên những điều trần tục. Tuy nhiên, tất cả những điều này không có nghĩa là chúng ta đang nói đến ai đó rất chói sáng, hay những người bất tuân thủ cực đoan: Tình yêu đối với sự đơn giản của họ thường có nghĩa rằng họ có vẻ ngoài bình thường, và khả năng chấp nhận bản thân và người khác của họ có nghĩa là họ chấp nhận trật tự xã hội như nó vốn có.
Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì bất tuân thủ không phải là phẩm chất duy nhất của những người thể hiện đầy đủ tiềm năng. Họ cũng tận hưởng (9) những mối quan hệ thân mật nồng ấm với một vài người bạn, và họ có khả năng tuyệt vời về (10) quan tâm xã hội. Trên thực tế, song song với nhân tố bất tuân thủ trong nhân cách của họ là nhân tố thậm chí còn quan trọng hơn, đó là tình thương, lòng trắc ẩn.
[1] Defensive Conformity
[2] the norms
[3] social norms
[4] conversion
[5] compliance
[6] The difficulty or ambiguity of the task
[7] The relative perceived competence of the subject and the group
[8] Relative perceived status of the group and the subject
[9] TQ hiệu đính: điều này liên quan tới câu "thượng bất chính, hạ tất lọan". Khi chúng ta thấy một người có địa vị làm sai điều gì, chúng ta có khuynh hướng làm sai theo. Và ngược lại, nếu chúng ta thấy người vô công rỗi nghề làm sai điều gì, thì chưa chắc chúng ta làm theo.
[10] Group cohesiveness
[11] TQ hiệu đính: hiểu biết điều này rất là quan trọng trong việc thiết lập 1 cơ quan hay chính thể. Người cùng nhóm không thích làm kẻ "ngọai cuộc". Nghĩa là, họ không thích chỉ trích nhau.
[12] Group composition
[13] Group size
[14] Group unanimity
[15] Obedience
[16] Non-involvement
[17] Diffusion of responsibility
[18] self-defeating prophecy
[19] non-conformity
[20] Self-actualizers