Kỹ năng sống
Tác giả: Đỗ Hồng Ngọc

Nghĩ Từ Trái Tim

Chương 22: CỐ TRI

BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

THỊ ĐẠI THẦN CHÚ

THỊ ĐẠI MINH CHÚ

THỊ VÔ THƯỢNG CHÚ

THỊ VÔ ĐẲNG ĐẲNG CHÚ

NĂNG TRỪ NHẤT THIẾT KHỔ

CHÂN THẬT BẤT HƯ

Tâm Kinh Bát Nhã Balamật là một "linh chú". Chú, tiếng phạn là dharani, "một câu nói thoát ra trong một trạng thái hết sức đặc biệt; thân, tâm và ngôn ngữ hòa hợp lại trong một định lực thật lớn. Một câu nói có thể thay đổi được hoàn cảnh, thì gọi là linh chú" (NH, Sđd). Cũng theo ông, với nhiều người, câu linh chú sẽ chẳng linh ứng chút nào, như "đàn khảy tai trâu", vì chưa được chuẩn bị để nghe, để tiếp nhận.

Như vậy, "chú" hay thần chú là một thứ linh ngữ, mật ngữ, chỉ "thiêng" trong một trạng thái nào đó của con người. Với người này thì "thiêng" mà với người khác thì không. Vấn đề ở đây là tại sao Tâm Kinh kết thúc bằng một linh chú và tại sao được ca tụng đến mức 4 lần nói là "đại thần", "đại minh" "vô thượng" "vô đẳng đẳng" nghĩa là rất thần diệu, rất sáng suốt, cao nhất, không có gì sánh bằng! Bốn lần ca tụng và rất "đại ngôn". Đại ngôn đến nỗi làm cho ta e ngại! Những người được gọi là "trí thức" được dạy phải luôn khiêm tốn - và cả Phật cũng rất khiêm tốn.

Thế nhưng cái "cố tri" Bát Nhã Balamật này thực chất không phải là cái "tri" thường thấy ở người trí thức mà là cái "hành" của người hành giả, nó không từ kiến thức, từ lý trí mà từ trực giác, nói cách nào đó, từ cái vượt qua ngoài lý trí, cái vô trí. Mặt khác nó cũng không có ý nghĩa như tích lũy tri thức, để nhằm đạt một cái gì đó, như qua một kỳ thi để có bằng cấp, học vị, để được lên chức, làm quan, mà ở đây, cái đạt được lại là cái "không", cái khoảng trống, cái vắng lặng, tịch diệt, từ bỏ, buông xả. Do vậy khi sự ca tụng hồ hởi của tri thức đáng được "cảnh giác" - đao to búa lớn, đại ngôn hoặc ngược lại giả vờ khiêm tốn - bao nhiêu thì ở đây là cái " cố tri" của trực giác với những lời reo vui, hoan hỉ, kinh ngạc, tán tụng đáng cho ta trân trọng, nghiền ngẩm bấy nhiêu!

Tại sao phải reo lên đến bốn lần? Đại thần, đại minh, vô thượng, vô đẳng? Chắc chắn phải là có một sự bộc phát bất ngờ, sâu sắc, một sự tràn ngập hân hoan, một phát hiện vĩ đại nào đó như là tiếng kêu "Eureka! Eureka!" của nhà khoa học. Nhà khoa học kia reo lên và trần truồng chạy tung ra khỏi phòng tắm, lúc đó hẳn là rất buồn cười, nhưng không ai trách ông cả, cũng như làm sao mà bộ Đại Bát Nhã 600 quyển, tinh gọn còn vài ba trăm chữ (Tâm Kinh) rồi rút chỉ còn cô đọng trong 6 từ, biến thành một lời "chú" có tính chất đặc biệt linh ứng đến nỗi Tâm Kinh nói: "năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư" mà không mang một ý nghĩa nào? Và ta hãy tưởng tượng vị Bồ tát cũng đang tung cửa chạy ra, reo lên...

Suzuki là một một học giả có uy tín về Thiền. Ông nghiên cứu rất sâu và trong tài liệu của ông phát hiện những điều lý thú về Tâm kinh. Ông nói bài chú kết thúc Tâm Kinh này luôn luôn được đọc theo lối không dịch nghĩa, làm như âm hưởng đích thực của lối dịch âm Phạn có một tác động nhiệm mầu. Nếu câu đó không sao hiểu nổi, và chúng cứ để cho không hiểu, chúng càng khó hiểu thì uy lực mầu nhiệm đằng sau lại càng có hiệu nghiệm! Rồi Suzuki kết: "Sự thực, hình như toàn thể bản kinh được viết ra vì câu thần chú đó, và không có gì khác hơn" (Suzuki, Sđđ).

Ngược lại, Osho giải thích ở góc độ khác, theo ông, mật chú này không phải để tụng niệm. Nó cần được hiểu. Toàn bộ thông điệp Bát Nhã chỉ cần cô đọng trong một câu thôi: như một công thức. Một công thức thần thông, Osho cho đây là một cái "mẹo", để giúp loại bỏ các bóng ma (đau khổ) do mình gây ra (vọng tưởng!). Ma là giả, mật chú cũng giả, nhưng có ích. Mật chú cần để loại bỏ ảo tưởng, loại bỏ ảo tưởng rồi thì cái còn lại là chân lý. Trực quan bắt đầu vận hành. Một người tưởng mình nuốt một con rắn vào bụng, sợ khiếp và suy sụp nặng. Đi bao nhiêu bệnh viện, bác sĩ vẫn không tìm ra, không chữa khỏi. Sau nhờ một ông "thầy" ra tay: thầy đợi bệnh nhân ngủ, lén bỏ con rắn (rắn không độc) vào mền. Khi bênh nhân thức dậy, "thầy" liền đọc một câu thần chú bala bala gì đó, rắn bò ra, bệnh nhân khỏe ngay tức khắc! Rắn là giả, sợ là tưởng, bệnh cũng không thật. Bùa chú cũng không thật, nhưng có ích, ở đây, trong tình huống này.

Công thức bí mật - mật chú - chỉ linh ứng dành cho một người đã được chuẩn bị. Khi nhìn thấy công thức E = mc2 thì một người chưa đi học chỉ phì cười, người học rồi thì áp dụng, hiểu nó, còn nhà vật lý học thì toát mồ hôi, ngã nón chào! Không tự dưng mà Einstein viết ra được công thức đó. Và viết cho ai?

Tâm Kinh Bát Nhã Balamật gom lại trong một câu, mật chú, linh chú và được ca ngợi là: rất sáng suốt, cao nhất, vô song... hẳn có ý nghĩa và dành cho ai đó. Phật không triết lý suông. Phật không phải là triết gia mà là một y vương, không chỉ chữa cái đau mà còn chữa cái khổ của kiếp người, giúp người ta hết bệnh - bệnh thiệt và bệnh ảo - thoát khỏi sợ hãi, tham đắm, si mê, sân hận, ngờ vực... để được hạnh phúc, được an nhiên, tự tại. Vả lại, trong đời sống có biết bao người đang giúp đời, đang xây dựng hạnh phúc cho đời, cho nhân loại, bảo vệ môi trường, tạo yêu thương giữa người với người, người với vật, với muôn loài, với thiên nhiên? Họ cũng là Bồ tát một cách nào đó. Có điều bản thân họ đã thoát sợ hãi chưa? Họ cần một câu chú để nhắc nhở. Để đừng quên. Và khi họ đọc câu chú đó, họ hiểu, hiểu rõ cả một tiến trình hành thâm "Ngũ uẩn giai không", Vô thường, Vô ngã, Vô trí, Vô đắc. Họ không đọc tụng ngây ngô. Mật chú do vậy là cần thiết như một công thức thần thông, một linh ngữ để nhắc nhở kẻ đã hành thâm.

Hết Chương 22: CỐ TRI
Thông tin sách