Y BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CỐ
ĐẮC A NẬU ĐALA
TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ
Các vị Phật, vô số các vị Phật - những kẻ giác ngộ- ở quá khứ, hiện tại và vị lai (tam thế) hiểu được sự thật của kiếp người, xa lánh các mộng tưởng đảo điên, vượt qua mọi chướng ngại, thoát khỏi mọi sợ hãi, an nhiên tự tại, sống vui trong lẽ vô thường, đồng thời cởi bỏ, buông xả mọi thứ, đạt đến cái Không là nhờ y theo Bát Nhã Balamật mà "hành", sẽ đạt tới "Vô thượng chánh đẳng chánh giác" - sự giác ngộ tối cao không gì hơn nữa - tức là thành Phật. "A nậu Đa la Tam miệu Tam bồ đề" là phiên âm tiếng Phạn, dịch ra Hán ngữ sẽ là "Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác" nghĩa là sự "sáng suốt cao nhất", "minh triết siêu việt", "giác ngộ trọn vẹn nhất", hoàn hảo nhất (the most supreme enlightement, la plus haute et parfaite illumination). Mọi người đều có khả năng "giác ngộ", hiểu rõ sự tình, thấy rõ sự thật: Nó vậy đó. Nó vốn phải vô thường. Nó vốn phải sanh lão, bệnh tử. Nó vốn phải ngu dốt và sẽ còn ngu dốt. Và khi hiểu được ngũ uẩn giai không, thì nó không còn lo sợ chuyện sinh tử nữa, "vượt thoát sinh tử", nói cách khác. Ở các chùa thấy tượng Phật quá khứ trông trang nghiêm quá, Phật hiện tại - Phật Thích Ca - thì mỉm cười thoải mái, tự tại, ung dung, còn Phật tương lai, Di Lặc thì cười ha hả, cười hết ga, cười toe toét. Vậy có thể nói, trong tương lai, người ta sẽ "ngộ" nhanh hơn chăng, "ngộ" dễ dàng hơn chăng? Thật ra, người ta có thể ngộ từng giờ, từng phút: phật rồi ma, ma rồi phật. Lúc ngộ thì là phật, lúc mê thì là ma, thế thôi. Không sao, cứ tinh tấn. Tu lâu dài và có kinh nghiệm lọc bỏ những phiền não thì phật nhiều lên, phật lâu hơn. Phật thì ngộ trăm phần trăm, các vị tu sĩ thì năm bảy chục phần trăm còn người thường như ta thì lâu lâu giật mình ngộ một chút cũng tốt. Vì thế mà Phật dạy phải ráng tinh tấn, ráng nhẫn nhục. Thiền định và quán "Bát nhã" có lẽ là một phương pháp kết hợp tốt cho cả tâm và thân.
Điều thú vị ở đây là nói đắc "A nậu Đala Tam miệu Tam bồ đề" gì gì đó. Trên đã nói "vô đắc" sao bây giờ còn đắc? Thật ra đắc ở đây là đắc cái "Không", đắc cái có sẵn đó, đắc cái không có gì để đắc cả, không có chỗ nào để đắc cả! Tấm kiếng mờ dính đầy bụi, khi chùi cho sáng ra thì không phải là tìm kiếm được, đạt được, giành được, thủ đắc được tấm kiếng. Cho nên nói đắc mà thật ra không đắc. Toàn bộ Tâm Kinh viết chặt chẽ và không hề mâu thuẫn. Trong kinh Kim Cang, Phật nói rõ điều này với Tu bồ đề: "Đừng nói Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ngay với một chút pháp nào đi nữa, ta cũng không có chi gọi là đắc!" ( Đoàn Trung Còn, Sđd).
Tâm Kinh rõ ràng rất "tự tin", rất dứt khoát và quả quyết: Các vị Phật dĩ vãng hiện tại tương lai đều phải nhờ Bát Nhã Balamật mà thành Phật, nghĩa là nhờ thấy "ngũ uẩn giai không", kiến tánh, mà thành Phật.. Dĩ nhiên là vẫn còn đó Tứ diệu đế, Bát Chánh đạo, Thập nhị nhân duyên... là những bậc thang, con đường cần thiết cho mỗi giai đoạn nào đó, nhưng Tâm Kinh thì vượt qua, vượt ra, vượt lên, vì tất cả những con đường vòng đó cũng chỉ để cuối cùng đạt tới vô ngã, chân như, tịnh lạc: Không, chân không cũng là diệu hữu. Các vị Phật cứ theo Tâm Kinh Bát Nhã mà "hành" thì sẽ đắc cái "không có gì để đắc cả" đó, mà tâm sẽ hoàn toàn vắng lặng, vượt qua mọi chướng ngại, tức những "sai lầm khởi lên từ tác dụng trí năng" và vượt luôn những chướng ngại bắt rễ từ "ý thức truy nhận và cảm quan như sợ hãi và bàng hoàng, vui vẻ và buồn phiền, thất vọng và giải đãi (Suzuki, Sđd) nghĩa là đạt đến sự tịnh diệt, tự tại tuyệt đối. Suzuki viết: "Bát nhã Ba la mật là mẹ của Phật đạo và Bồ tát đạo". Mẹ tức là từ đó sanh ra.