Tâm Kinh "phá chấp" từng bước một, từ thấp đến cao, có vẻ như là phá một cái tháp nhiều tầng từ chấp ngã đến chấp pháp: nào 12 xứ, 18 giới, nào 12 nhân duyên, nào 4 thánh đế... Và cuối cùng là "phá" cả 2 cái còn lại: Trí và Đắc. "Trí" là phần quan trọng nhất của "lục độ", sáu pháp để... thành Bồ tát! Thế nhưng "Trí" lại có vẻ như là một cái vỏ bọc nguy hiểm, càng lúc càng dày, làm cho con sâu trong kén không bung ra được để hóa bướm. Trí còn lôi theo nó tính tự cao, tự đại, tự mãn. Osho viết: "Có những câu hỏi Phật không trả lời bởi vì chỉ có thể được kinh nghiệm. Tâm trí bao giờ cũng cố gắng đưa ra câu trả lời lừa phỉnh, giảng giải, dẫn chứng trong kinh sách. Tâm trí luôn vay mượn và tích lũy, tích trữ tri thức! Nếu có thể đi ra ngoài tâm trí, xuyên qua tâm trí và một khoảnh khắc "vô trí" nảy sinh thì có được câu trả lời".
Đúng là tri thức làm mờ mắt, làm mụ muội nhận thức trực quan đưa đến chân lý. Thiền là vô trí. Phải trải nghiệm về nó mà không thể lý luận.
Nhưng Phật không hề coi thường trí - miễn là Trí tuệ phải đi với Từ bi! Vấn đề chính là hiểu biết "cách nào" và mang lại lợi lạc gì cho chúng sanh, chớ không phải hiểu biết "cái gì" để tích lũy cho nhiều kiến thức! Cái gì thì vô số, càng hiểu biết càng thấy dốt. Tích lũy tri thức, "đầu cơ" tri thức, "buôn bán" tri thức là chuyện thường ngày của nếp sống hiện tại. Kẻ càng có tri thức càng dễ vênh váo, kiêu ngạo, có thể thành đạt, nhưng không hẳn là người có hạnh phúc, có an lạc. Trí mà có Tuệ thì không dừng ở trí, mà vượt qua trí - vô trí - không dừng ở biện biệt, so sánh, tính toan, phân biệt các khái niệm, các phạm trù... nhờ đó mà thấy được tướng không vạn pháp. Nhờ tâm thức đó mà nhìn sự vật, hiện tượng, với con mắt khác: con mắt "Bất Nhị", không phê phán, không kỳ thị mà vượt qua, vượt lên. Lão tử tự coi mình là người "ngu muội, đần độn" (ngã ngu nhân... độn độn hề). Đó là người "vô trí", bậc thánh nhân, người giác ngộ vậy.
Nhưng "Vô đắc" có lẽ mới là "mục tiêu" tối thượng của một dòng "hành thâm", mặc dù hành thâm Bát nhã chả có một mục tiêu nào cả.
Không phải vô cớ mà Tâm Kinh đặt Vô Đắc ở cuối đoạn văn chính yếu. Nó là điểm cốt lõi, cũng giống chữ Không ở câu đề, Đắc là nút gút, để giải quyết rốt ráo, được đặt trên đỉnh tháp. Thái tử Tất Đạt Đa, hơn ai hết, bỏ nhà, bỏ vợ con, bỏ vương triều đi tu... lúc đầu cũng là để mong tìm kiếm được cái gì đó hơn hẳn cái đang có, chẳng hạn tìm sự trường sinh bất tử hay Niết bàn, ở đó có sự sung sướng hơn, hạnh phúc hơn; hoặc ít ra đi tu cũng để tìm kiếm con đường triệt tiêu nguyên nhân gây ra sự đau khổ của kiếp người. Trong nhiều năm trời, trải qua bao nhiêu sai lầm, ngài mới phát hiện ra một điều thú vị: chả có cái chi để đạt tới cả. Bờ bên này cũng là bờ bên kia. Và có lẽ Phật đã luôn tủm tỉm cười từ lúc đó. Cái hồi bỏ nhà đi tìm đạo, cái hồi tu khổ hạnh, chắc không có cái nụ cười đó bao giờ! Ngài chỉ cười khi đã "đắc đạo", nghĩa là phát hiện ra một điều lý thú: Chả có cái chi để đắc cả! Vô đắc! Dĩ nhiên tùy căn cơ từng người, Phật chỉ dẫn bằng những con đường khác nhau, trên mỗi chặng đường tu tập đó đều có chút phần thưởng, nghĩa là có thêm niềm hạnh phúc, an lạc, bớt phiền não, bớt lo âu, bớt sợ hãi. Cuối cùng Phật bảo: Không có cái gì để đắc bởi không có chỗ nào để đắc cả. Nó sẵn có đó rồi. Khi phật đã giác ngộ, người ta hỏi: "Thầy đã đạt tới cái gì?". Và ngài cười nói: "Ta chẳng đạt tới cái gì cả - Có cái gì để đạt đâu! Ta chỉ phát hiện ra cái vẫn sẵn có đó. Ta chỉ đơn giản đi về nhà. Không có thành đạt nào cả. Ta chỉ đơn giản nhận ra nó. Đó không phải là phát minh, đó chỉ là phát hiện lại" (Osho, sđđ).
Nhưng vì sao "Vô đắc" được đặt ở điểm cuối cùng, của một loạt "phá chấp", nó quan trọng đến thế, vì sao? Câu trả lời có thể là vì chính sự sợ hãi là nguồn gốc của nỗi khổ đau lớn nhất của kiếp người. Giải thoát khỏi sợ hãi cũng chính là giải phóng năng lượng tiêu hao cho những chuyện vô ích, để chuyển hóa năng lượng đó qua cho sự an lạc, hạnh phúc, yêu thương. Vì sao người ta lại sợ hãi? Bởi vì người ta muốn. Muốn gì? Muốn không sanh, không bệnh, không lão, không tử. Muốn luôn sung sướng. Muốn luôn trẻ đẹp, không bao giờ già, không bao giờ chết, không bao giờ bệnh. Muốn thành người giàu có nhất nước, nhất thế giới, muốn thành người nổi tiếng, lừng danh, thành đạt, thành công nhất thế giới! Vì muốn Đắc cho nên sợ Thất. Muốn được thì sợ mất. Sợ sinh từ ham muốn. Niết bàn, thiên đàng hay địa ngục thì cũng chính ta tạo ra cho ta, nó sẵn đó trong ta. Lúc tham lam, sân giận...đã là địa ngục. Lúc an nhiên tự tại đã là thiên đàng. Kim Dung có vẻ thấm "vô đắc" nên những nhân vật của ông mang tư tưởng đó: Đoàn Dự không muốn học võ, lại đạt võ công tối thượng, không muốn làm vua thì lại làm vua. Lệnh Hồ Xung không coi sinh tử là quan trọng, không cần thị phi, dấn thân vào chốn giang hồ với cái tâm hồn nhiên trong sáng, vô tâm và vô đắc nên cuối cùng lại "đắc". Đắc mà không đắc: gác kiếm, từ bỏ, để tiếu ngạo giang hồ, rong chơi ngày tháng. Trong khi đó Mộ Dung Phục đêm ngày đao đáo mộng phục quốc, tìm đủ mọi thủ đoạn âm mưu để cuối cùng thành một người điên...
Tóm lại, trong cái chân không, không có trí, không có đắc. Không có mong cầu, không có vướng bận, không có muốn thì không có sợ, và không có sợ thì đã được giải thoát.
Nói cho cùng, Ngũ uẩn đã giai không, tức Ngã còn không thì sao lại còn có đắc? Đắc cái gì? Đắc cho ai? Đắc để làm gì? Còn chấp Đắc là còn mong cầu, còn chờ đợi, để rồi hồi hộp, hí hửng, hoặc lo âu, sợ hãi... tóm lại là luẩn quẩn loanh quanh. Cho nên Tâm Kinh nói đơn giản: Vô đắc!