Đức Phật dạy nếu chúng ta muốn hiểu điều gì, chúng ta phải biết nhìn bản chất của điều đó.Sau khi phân tách sự tương quan giữa phái nữ và phái nam, Ngài đi đến kết luận không có gì chướng ngại đối với phụ nữ trong việc tu tập như phái nam, phụ nữ có thể đạt được quả vị cao nhất như A La Hán hay Bậc Thánh, bậc cao nhất trong sự thanh lọc tâm. Đức Phật phải đối đầu với sự chống đối mãnh liệt vì cho phụ nữ hoàn toàn tự do trong việc thực hành tôn giáo vào lúc bấy giờ.
Trong thời kỳ Đức Phật, trước khi Ngài giải phóng phụ nữ, tục lệ và truyền thống coi phụ nữ như vật sở hữu để cho phái nam sử dụng theo sở thích. Luật Manu cổ xưa của Ấn Độ ấn định phụ nữ thấp hơn phái nam. Địa vị của người phụ nữ trong xã hội bấy giờ rất thấp, chỉ thu hẹp trong việc bếp núc. Họ cũng không được phép vào chùa và tham dự các hoạt động tôn giáo dưới bất cứ hình thức nào.
Như chúng ta đã ghi nhận trước đây trong phần "Kiểm Soát Sanh Đẻ", có sự kỳ thị phái nữ bắt đầu ngay trước khi đứa trẻ ra đời! Việc phá thai bé gái lan tràn trên nhiều nơi trên thế giới này ngày nay xác nhận thêm sự kiện hãi hùng này. Thêm nữa, dưới tiêu đề "Phong Trào Giải Phóng Phụ Nữ và Hậu Quả Đối Với Đời Sống Gia Đình", sự kỳ thị phụ nữ tại các xã hội giàu có, đặc biệt đối với phụ nữ có tham vọng giữ chức vụ quản trị cao cấp trong khu vực đoàn thể, đã được đề cập đến với nhiều chi tiết.
Tuy nhiên, trong các nước đang phát triển cũng như các nước chậm tiến, tình trạng được mô tả không những quá xấu mà còn đáng thương hơn nữa như những khám phá dưới đây.
Theo lễ nghi tại Ấn Độ, phái nam chi phối xã hội, phụ nữ góa bụa chịu một số phận rất hẩm hiu . Có rất nhiều trường hợp, góa phụ (hãy còn ở trong lứa tuổi 20) bị gia đình và xã hội ruồng bỏ sau khi chồng chết.
Trong những gia đình dị đoan, góa phụ bị trách cứ bởi gia đình chồng vì chồng chết, góa phụ còn bị gia đình nhà chồng ruồng bỏ. Họ hầu như chẳng có sự lựa chọn nào. Người Ấn Giáo nhìn phụ nữ tái giá bằng một cặp mắt khinh bỉ, dù người đàn ông chẳng có vướng mắc gì. Cho đến tận thời nay, người ta còn mong đàn bà góa nhẩy vào giàn hỏa thiêu xác chồng để chết theo tục lệ gọi là sati (trà tỳ). Mặc dù tập tục này đã bị coi như phi pháp bởi người Anh từ mấy thập niên qua, nhưng trường hợp mới nhất vẫn còn thấy xẩy ra vào năm 1996. Đa số các phụ nữ Ấn Độ chẳng còn gì khi trở thành góa bụa.
Một thí dụ điển hình thấy nơi một góa phụ thành lập gia đình khi còn nhỏ, tục lệ tảo hôn thường thấy tại thôn quê Ấn. Góa phụ này than: "Tôi lấy chồng lúc mới năm tuổi. Chồng tôi,13 tuổi, tôi chưa hề dược gặp mặt trước khi cưới, chết sau lễ cưới được một tháng. Bây giờ tôi vẫn còn là người đàn bà góa."
Theo Ngân Hàng Thế Giới, 65% phụ nữ Ấn trên 60 tuổi là góa phụ. Tỷ lệ này lên đến 80% với phụ nữ trên 70 tuổi. Hội Phụ Nữ Dân Chủ Ấn báo cáo tại Ấn, lý lịch một phụ nữ phụ thuộc vào người đàn ông, cảnh góa bụa mất mát rất nhiều chứ không phải chỉ là mất chồng.
Tình hình cũng không mấy gì tốt đẹp hơn tại một số quốc gia lân bang. Đã từ lâu, gia đình coi con gái thấp hơn con trai và đối xử với con gái như vậy. Người con gái chỉ được coi như chỉ thích hợp cho việc nội trợ lặt vặt. Người phụ nữ phải sống trong nhiều thông lệ xã hội chủ trương kỳ thị họ. Người con gái trở thành gánh nặng kinh tế, cái nợ đời tinh thần. Thế nhưng, người phụ nữ lại được kỳ vọng phải mạnh khỏe, tích cực làm việc, dạy bảo con cái, và là một người mẹ hiền. Nhiều đứa bé trai lớn lên nghĩ rằng chị hay em gái của chúng thấp hơn chúng vì chúng thấy chúng được đối xử tốt hơn chị em gái. Niềm tin ấy được củng cố bởi đa số người trong xã hội, kể cả chính nữ giới.
Có lẽ vấn đề lớn nhất là do thiếu sự hỗ trợ và những hạn chế mà người con gái phải đối đầu nếu họ muốn làm một điều gì trong đời sống vượt qua những vai trò truyền thống như phụ giúp gia đình, trông em, nấu bếp và dọn dẹp nhà cửa. Vì mục đích đó, người con gái sau cuộc huấn luyện dài chỉ để trở thành người vợ tốt khi lớn lên.
Người con gái 16 tuổi tại Rawalpindi vạch rõ:"Xã hội của chúng ta không đối xử tốt với nữ giới. Người ở nơi đây không giáo dục con gái vì cho rằng con gái không phải là con của họ. Con gái được coi như là người của bên chồng trong tương lai, bất cứ đầu tư nào cho tương lai con gái đều vô ích. Con gái về nhà chồng lúc còn non dại, thường quãng 13 tuổi tại khắp nơi. Phần đời còn lại là trông nom bên chồng, mang thai và nuôi dưỡng con cái để kéo dài và củng cố gia tộc ."
'Chúng ta cần phải nhổ hết gốc rễ loại suy nghĩ trên đây, giáo dục cho con gái là điều bắt buộc để việc này không trở thành một vấn đề phải giải quyết.' Cô nói: "Con gái cũng nên có việc làm, làm việc tại những nơi thích hợp không ai phản đối và tốt nhất là có những nữ đồng nghiệp để cha mẹ không thể chống đối. Tôi bao giờ cũng ân hận là sinh ra làm đàn bà. Đôi khi tôi không được phép làm điều gì, tôi chỉ biết vào phòng, khóc than và cầu nguyện Thánh Thần biến tôi thành con trai"
Dự án cho các thiếu nữ tại các nước như vậy đang dần dần thay đổi, hãy thay đổi tất cả bằng một cách phát triển một số thiếu nữ nòng cốt hoạt động như chất xúc tác để tạo được sự chú ý tại địa phương về vấn đề, về sự kỳ thị mà phụ nữ phải đối đầu.
Vấn đề giáo dục hầu như không thay đổi. Nhiều phụ nữ đã phải tranh đấu để có quyền đi học. Một số được giúp đỡ bởi các bà mẹ không được học hành nhưng tin tưởng đời sống của chính các bà tốt đẹp hơn nếu được đi học.
Trong nhiều xã hội, địa vị của người đàn bà là ở nhà; người đàn bà lập gia đình có bổn phận đầu tiên là làm tròn bổn phận người vợ và người mẹ. Không thể là như vậy đối với phụ nữ tự do. Cả đến tại các xã hội tiến bộ, phụ nữ cũng bị mất thể diện. Chẳng hạn tại những nơi công cộng, phụ nữ phải ngồi riêng, cách xa phái nam, hay ngoài tầm mắt của họ- như đằng sau nam giới. Khi phụ nữ được đặt ngồi cuối phòng hay cuối hội trường, việc sắp xếp này tỏ đấu hiệu tế nhị là vai trò của phụ nữ là đằng sau chứ không phải ngang hàng với nam giới.
Một số người tin phụ nữ thiên về tội lỗi. Cho nên, tốt hơn là để phụ nữ làm việc nội trợ để họ có thể quên đi thái độ tội lỗi bẩm sinh!