Tôn giáo, Tư tưởng
Tác giả: Thích Chơn Thiện

Bàn Về Tây Du Kí Của Ngô Thừa Ân

Chương 4

Tư tưởng Phật học và các quan niệm về nhân sinh và xã hội của Ngô Thừa Ân biểu hiện qua Tây Du Ký

(Bàn từng hồi truyện)

Hồi thứ 1

Hồi 1: “Gốc thiêng nẩy nở, nguồn rộng mở

Tâm tánh tu trì, đạo sinh lớn”

I. Tư tưởng Phật học.

- Theo Phật giáo (cả Nam và Bắc truyền), thế giới hệ này gồm có bốn châu thiên hạ: Nam Thiện Bộ Châu, Bắc Câu Lôi Châu, Ðông Thắng Thần Châu và Tây Ngưu Hóa Châu. Bốn châu ấy nằm chung quanh núi Tu-di (Sumeru) rất lớn, sừng sững giữa đại dương. Tác giả Tây Du Ký đã mở đầu truyện giới thiệu nơi sinh của Mỹ Hầu Vương tại núi Hoa Quả tựa như là vị trí núi Tu-di kia, và xem là nơi “ mạch Tổ của mười châu”. Từ ngữ Hoa Quả là từ biểu tượng quy luật vận hành nhân quả của hiện tượng giới, thế giới sinh diệt của nhị nguyên tính (Dualism), của sự phân biệt rõ ràng giữa đục và trong, chủ thể và đối tượng. Ðây là quy luật vận hành mà giáo lý Phật giáo giới thiệu. Nó thuộc giáo lý trí tuệ, giúp con người phát triển trí tuệ.

Mỹ Hầu Vương sinh ra từ trứng đá như đã được đề cập ấy, bởi vì theo quy luật này thì nhân quả phải cùng loại (đá thì phải sinh ra đá, khỉ thì sinh ra khỉ). Nói khác đi, Mỹ Hầu Vương là biểu tượng của trí tuệ (chánh kiến và chánh tư duy) hay Thánh tuệ uẩn trong giáo lý Phật giáo, mà tiêu biểu là đôi mắt rực sáng làm kinh động đến Thiên đình của Mỹ Hầu Vương. Ðây là đôi mắt thấy rõ sự thật Vô ngã, Vô thường, Khổ và Không của hiện tượng giới. Sự thật đó làm kinh động, đảo lộn cái thấy thường hằng, hữu ngã của chúng sinh ở trên Trời và dưới Thế.

- Trí tuệ Vô ngã đó sẵn có trong tâm của mỗi người, theo Ngô Thừa Ân, mhư một giang sơn đã soạn sẵn trong động Thủy Liêm dành cho Mỹ Hầu Vương. Sự thật Vô ngã, Vô thường, Khổ và Không cũng thế, là sự thật của sinh diệt, nằm ngay hiện tượng giới như động Thủy Liêm như là đang giới thiệu bốn pháp ấn của giáo lý Phật giáo.

- Tại sao con người không thấy được sự thật về bốn pháp ấn ấy nơi thế giới chung quanh mình? Tại sao loài khỉ kia không khám phá ra động Thủy Liêm vẫn thường hiện diện tại đó, trước mắt chúng? - Hỏi tức là trả lời vậy. Chính thác nước đổ mạnh đã che khuất khỏi cái nhìn hời hợt của đàn khỉ, hệt như lòng tham ái, chấp thủ ngã đã che khuất tâm con người khỏi sự thật Vô ngã, Vô thường, Khổ và Không. Ở giáo lý Phật giáo, dòng thác đổ mạnh gọi là dòng bộc lưu, biểu tượng cho dòng nước Ái, dòng thủ, dòng sinh tử. Tại đây, Ngô Thừa Ân đang thật sự kiến trúc động Thủy Liêm theo giáo lý nhà Phật.

Chỉ có Mỹ Hầu Vương sinh ra từ đá, từ tú khí của trời đất, mà không sinh từ dục vọng (hay từ nghiệp), mới có trí tuệ Vô ngã phát hiện ra sự thật vô thường, khổ đau. Mỹ Hầu Vương đã dàn dụa nước mắt, sầu não thấy lửa vô thường đang bốc cháy chung quanh cuộc sống, lo lắng tìm lối thoát ra khỏi khổ đau. Tất cả đàn khỉ còn lại thì vẫn nhởn nhơ với niềm hạnh phúc nhỏ trước mắt. Thấy rõ sự thật Vô thường là dấu hiệu của đạo tâm phát khởi, và là dấu hiệu của sự thấy rõ con đường ra khỏi sự trói buộc của vô thường, như một chú khỉ đã phát biểu muộn màng rằng: “Ðại vương lo xa như thế là đạo tâm ngài đã phát khởi rồi đấy” và đã giới thiệu với Mỹ Hầu Vương hiện nay tại cõi đời này, ở nơi động cổ, núi Tiên có ba đấng Phật, Tiên, Thần Thánh là thoát khỏi sinh diệt, luân hồi (thật ra là Phật, Bồ Tát, Duyên Giác và A-la-hán); từ đó Mỹ Hầu Vương ra đi, tìm đến đại Tôn giả Tu Bồ Ðề, một đại đệ tử của Ðức Phật, để học đạo giải thoát của Tam thừa giáo (Bồ Tát-thừa, Duyên Giác thừa, Thinh Văn thừa) và Nhất thừa giáo (Phật thừa). Ðây là điểm giáo lý rất đại thừa (Phật giáo phát triển).

- Có một nếp sống thanh đạm, rời khỏi phiền não hằng ngày, và hiếu hạnh của một bác tiều phu ở trước cổng vào trú xứ của Tôn giả Tu Bồ Ðề mà Mỹ Hầu Vương ca ngợi, vui mừng khi thấy, như là dấu hiệu của quê hương giải thoát có mặt gần kề. Chính bác tiều phu chỉ được cho Mỹ Hầu Vương đến yết kiến bậc đạo sư. Tại đây Ngô Thừa Ân gián tiếp giới thiệu hiếu đạo cũng là một phần thể hiện của đạo giải thoát, tương ưng với Phật giáo.

- Sự thật mà Mỹ Hầu Vương sẽ học từ Tôn giả Tu Bồ Ðề và sẽ chứng ngộ là sự thật Vô ngã tướng của các pháp (còn được gọi là Vô ngã tính hay Vô tự tính hoặc Không tính). Sự thật ấy được hé mở từ mẫu đối thoại đầu tiên giữa Tôn giả Tu Bồ Ðề và Mỹ Hầu Vương mang đầy hương vị của một cảnh khai tâm của một thiền sư:

“Tôn giả Tu Bồ Ðề hỏi:

- Tính danh ngươi là gì”

- Con không có tính gì cả... Nhất sinh không có tính.

- Không phải là tính tình. Tính danh bố mẹ nhà người kìa?

(Ðây là hỏi về bản lai diện mục)...

Thế rồi, Tôn giả Tu Bồ Ðề cho pháp danh là Tôn Ngộ Không (đã đề cập ở phần tổng luận).

Ðạo giải thoát khỏi cội nguồn của mọi khổ đau mở nguồn từ Ngộ Không này, và đạo ấy có mặt trong tâm của mỗi người, như Tôn giả Tu Bồ Ðề thường có mặt ở “Tà nguyệt tam tinh” động (Tà nguyệt tam tình là chữ tâm gồm có một nét như vành trăng và ba chấm). Tác giả Tây Du Ký đã giới thiệu đúng con đường tu tập của Phật giáo là con đường trở về chính mình để tu tập tâm, huấn luyện tâm và giải thoát tâm. Con đường này rất là nhân bản và rất là hiện thực.

II. Quan niệm của Ngô Thừa Ân về con người

- Nếu về mặt Phật học, phái đoàn Tây du biểu thị các phần tố tâm lý của một tâm thức đi về giải thoát khỏi sinh tử, thì về mặt tương đối của đời sống xã hội phái đoàn Tây du là biểu hiện sự cấu trúc của nhân tính (personality) thể hiện sự hòa điệu giữa tim và óc, giữa tiềm thức, siêu thức và ý thức, giữa cá nhân và xã hội.

Tại đây, Mỹ Hầu Vương là biểu tượng của khối óc (hay lý trí). Lý này vốn có mặt trong tâm mỗi người và có khả năng có thể mở rộng ra vô hạn như ý nghĩa Mỹ Hầu Vương tìm đường đi ra khỏi thế giới hữu hạn của sinh tử. Khả năng vô hạn ấy đã được nền giáo dục hiện đại chứng tỏ.

- Khối óc, hay nguồn hiểu biết của con người, như đạo Nho quan niệm (nói đúng là quan niệm của Khổng Tử) có ba dạng hiểu biết gọi là “sinh nhi tri học nhi tri và khốn nhi tri” biểu hiện ra khác nhau ở mỗi con người. Ở Mỹ Hầu Vương sinh ra là đã tự biết (sinh nhi tri); rồi tìm thầy học đạo (học nhi tri); sau đó là lên đường hành đạo, chiến thắng ác ma (khốn nhi tri)

- Tiếng nói của lý trí là tiếng nói của sự ngay chính, tình đồng loại, của óc tổ chức, của sự dự phòng tốt đẹp cho tương lai, của sự công bằng, và của sự phân biệt minh bạch phải, trái, tốt, xấu, như sự hiểu biết của chính cá nhân Mỹ Hầu Vương. Lý trí giữ vai trò hướng dẫn mọi hành động của con người, như đôi mắt, hệt như Tôn Hành Giả hướng dẫn phái đoàn Tây du. Chúng ta sẽ tiếp tục khảo sát vai trò của lý trí trong các hồi kế tiếp, theo quan niệm của tác giả Ngô Thừa Ân.

III. Quan của tác giả về xã hội.

- Một xã hội tốt đẹp, an lạc, hạnh phúc, theo tác giả phải là một xã hội thái bình (không chiến tranh), độc lập với các sức mạnh thống trị như xã hội khỉ ở động Thủy Liêm.

- Xã hội ấy cần được tổ chức tốt về an ninh kinh kinh tế, như xã hội ở núi Hoa Quả ở trong vị thế an toàn và phong phú thực phẩm.

- Xã hội ấy phải được lãnh đạo bởi người có đủ tài, đức do dân chọn lựa như Mỹ Hầu Vương, mà không phải do tuổi tác hay dòng dõi. Quan niệm này của Ngô Thừa Ân được viết ra từ thế kỷ thứ XVI của xã hội phong kiến Trung Hoa quả là một quan niệm đầy dân chủ và tiến bộ. Ðây là mô hình xã hội mà nhân dân làm chủ, bảo vệ được quyền sống của nhân dân.

Hồi thứ 2

Hồi 2: “Thấu lẽ bồ đề, vào chính quả

Dứt căn ma quỷ, rõ nguyên nhân”

I. Về tư tưởng Phật học.

- Hồi thứ hai là Hồi học đạo và hành đạo của Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không đã học, bàn luận, và hành “Tam thừa giáo” và “Nhất thừa giáo” suốt bảy năm liền, như Ngô Thừa Ân giới thiệu:

“...Diễn đủ Tam thừa giáo

Lúc diễn thiền môn, khi giảng đạo

Ba nhà hợp lại nghĩa thêm càng”

Trong thời gian này Tôn Ngộ Không làm công tác của một người xuất gia, chấp tác và thực hành văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ để nuôi dưỡng trí tuệ giác ngộ Không tánh (Vô ngã tánh) của các pháp. Ngô Thừa Ân đã vẽ nên thời gian tu tập này rành rẽ hệt như một nhà Phật học chính gốc. Ðộng cơ và nguyện vọng xuất gia của Tôn Ngộ Không là để giải thoát hết thảy phiền não, khổ đau của sinh tử rất tương ưng với giáo lý của Phật giáo. Ngô Thừa Ân đa dẫn dắt Tôn Ngộ Không đi đúng tiến trình Giới, Ðịnh, Tuệ giải thoát khiến cho người đọc Tây Du Ký không còn nghi ngờ giá trị của bộ tiểu thuyết này mà trọng tâm là giới thiệu con đường (hay lộ trình tu tập giải thoát của đạo Phật). Chúng ta hãy tiếp tục theo dõi.

- Sau bảy năm hành đạo, khi Tôn Ngộ Không hiểu rõ đường đi chỗ đến, Tôn giả Tu Bồ Ðề dạy tiếp tục công phu thiền chỉ và thiền quán để chế ngự thân và ý, để điều hòa thân và điều hòa tâm. Tôn Ngộ Không thực hành công phu này trong ba năm thì sáng tỏ tâm và tuệ. Một hôm Tôn giả hỏi Tôn Ngộ Không:

- Người tu đã đắc quả gì rồi?

- Ðệ tử gần pháp tánh, đã rõ căn nguyên, còn phải đề phòng ba tai họa nữa (nghĩa là cần tiếp tục công phu chỉ, quán để vượt qua ba tai họa ấy), điều mà kinh nghiệm giải thoát của Tôn Ngộ Không chưa đặt chân đến được. Do vì thành quả tu tập của Tôn Ngộ Không ngang đây là sắp cướp được quyền sinh diệt của tạo hóa sẽ giáng xuống ba tai họa. Ðó là họa “sét đánh” có thể làm ngưng trệ sinh mệnh giải thoát; họa “âm hỏa” (không phải là lửa trời, cũng không phải là lửa của người) vì họa “bi phong” (không phải là gió trời) rất mạnh cũng gây ảnh hưởng khốc hại đến sự nghiệp giải thoát.

Ngôn ngữ của Ngô Thừa Ân tại đây rất là tiểu thuyết và rất là biểu tượng, nhưng đồng thời cũng diễn đạt các bước đi tu tập giải thoát rất là thiện xảo.

Trong Phật giáo, ba tai nạn đó là gì? Trở về với giáo lý truyền thống Phật giáo, khi hành giả thông rõ pháp tánh là khi đắc pháp nhãn thanh tịnh, bước vào dòng Thánh; bấy giờ còn lại tập khí sinh tử phải trừ, bao gồm bảy kiết sử: dục, sân, hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cử và vô minh. Nạn sét đánh là biểu tượng của vô minh (hay si). Vô minh ở đây là nội dung của sự việc tâm thức bị rơi vào chấp trước quả đắc (gọi là mạn), lúng túng không thấy lối ra (gọi là trạo cử) mà tự mình không biết (gọi là vô minh). Sự chấp trước này thì rất tế nhị nhưng rất quyết định trong việc làm tắc nghẽn trí tuệ giải thoát sau cùng, tựa như sấm sét nhanh chóng kết liễu sinh mệnh con người. Ðể vượt qua, hành giả cần hành định sâu và thiền định sâu và thiền quán mạnh về Vô ngã để cũng nhanh chóng như tiếng sét cắt đứt ngay sinh mệnh của chấp trước vô minh.

Nạn “âm hỏa” là biểu tượng cho lửa sân, kiết sử, hữu ái và hữu ái); lửa này cũng có khả năng thiêu cháy trí tuệ toàn giác làm héo úa thân huệ mạng.

Nạn “bi phong” là biểu tượng của tâm lay động chao đảo của hành giả do còn chấp pháp, do còn non định lực giải thoát trước bi nguyện độ sinh vô lượng. Ðịnh và tuệ Vô ngã còn hạn lượng của hành giả sẽ không thể đứng vững được trước bi nguyện độ sinh vô hạn lượng. Bi nguyện vô hạn lượng làm choáng ngợp hành giả, khiến hành giả không thể hiện được Bồ Tát hạnh để chứng đắc trí tuệ toàn giác. Chính ba tai nạn này sẽ tái hiện nhiều lần dưới nhiều thể trạng khác nhau đối với hành giả mà các hồi sau chúng ta sẽ có dịp tiếp tục bàn sau.

- Ðể giúp đệ tử Tôn Ngộ Không có điều kiện thoát khỏi ba tai nạn trên, Tôn giả Tu Bồ Ðề đã chỉ dạy sâu thêm công phu tu tập để phát triển mạnh thiền quá Vô ngã, củng cố thêm nhiều cho trí tuệ giải thoát, bằng pháp môn “địa sát” gọi là 72 pháp biến hóa thần thông (thất thập nhị huyền công) và “cân đẩu vân” hầu có đủ mọi cách làm bật lên gốc rễ của vô minh và quyến thuộc vô minh.

Chuẩn bị hành trang giải thoát cho Tôn Ngộ Không kỹ càng như thế quả Ngô Thừa Ân đã nắm vững lộ trình tâm thức giải thoát của Phật giáo, ít nhất là về mặt giáo lý.

Tại đây, Tôn Ngộ Không hẳn đã có trí tuệ, đệ nhất ly thủ, đệ nhất giải Không, trở về Hoa Quả sơn, Tôn Ngộ Không đã dễ dàng dẹp Hỗn Thế Ma Vương, loạn của các ngã tưởng, để bình định lại giang sơn trí tuệ của mình tại Thủy Liêm động.

II. Quan niệm về con Người

- Ở mặt giải thoát thì Tôn Ngộ Không là biểu tượng của trí tuệ cần được tu tập để phát triển giải thoát và để chế ngự các cảm thọ khổ đau. Xây dựng một nhân cách giải thoát là xây dựng Giới, Ðịnh, Tuệ và lòng đại bi cho nhân cách xã hội gồm tri, hành và lòng nhân ái thế nào để thành công, lợi lạc cho mình và người.

Tại hồi hai, vai trò lý trí, được biểu trưng bằng nhân vật Tôn Ngộ Không, là vai trò chỉ đạo mọi hành động của con người cũng cần được huấn luyện, giáo dục. Thường thì mẫu người giáo dục của Trung Hoa được đào tạo theo khuôn mẫu đạo Khổng Nho và được thêm vào một ít Lão, Trang. Ngô Thừa Ân đã rất sáng tạo và rất can đảm giới thiệu một khuôn mẫu giáo dục theo giáo lý nhà Phật. Có lẽ sự chọn lựa này đã đến với Ngô Thừa Ân sau khi Ngô Thừa Ân chứng kiến sự đổ vỡ của xã hội phong kiến Trung Hoa với đầy rẫy những bất công áp bức, chủ nghĩa hình thức, kém nhân bản v.v... và vai trò của Nho giáo không đáp ứng nổi nhiều yêu cầu mới của con người và lịch sử - Như về sau Kim Dung, trong tiểu thuyết kiếm hiệp Tiếu Ngạo Giang Hồ, đã xây dựng mẫu người Lệnh Hồ đại hiệp thay thế quân tử kiếm Nhạc Bất Quần - Tây Du ký ra đời như là tiếng nói rất trí tuệ, hiện thực và nhân bản vọng về từ Tây Trúc. Không phải là chú ý đến sự nghiệp Tây du thỉnh kinh của Ðường Tăng, mà là chú ý đến nhân cách được xây dựng từ giáo lý này: một nhân cách sống vì hạnh phúc an lạc của số đông, sống hiền thiện vì công bằng, bình đẳng, tôn trọng sự thật, trách nhiệm cá nhân và đặc biệt là sống tùy duyên rất là trí tuệ.

- Nhân cách ấy cần được huấn luyện, giáo dục rất thực, mà không phải của từ chương và hình thức - rất vững chắc cả ba mặt hành động của thân, lời và ý, như là Tôn Ngộ Không đã được huấn luyện văn, tư, tu trong bảy năm và khả năng làm chủ chủ tư duy và tâm lý (thiền định) trong ba năm trước khi vào đời để tiếp tục thực hành và học hỏi thực tế của trường hợp.

- Triết lý chỉ đạo cho nhân cách ấy là giáo lý Vô ngã, Vô thường, Khổ, Không của Phật giáo (mà nói tắt là giáo lý Vô ngã). Do thấm nhuần sự thật Vô ngã, người học viên dần dần làm bật lên được gốc rễ chấp ngã, tham lam, sân hận, lừa dối và các sầu bi, khổ, ưu, não; và tại đây, một nhân cách mẫu mực xuất hiện để xây dựng an lạc, hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội.

Triết lý hành động của nhân cách ấy là trí tuệ Vô ngã (chánh kiến và chánh tư duy) phân biệt chánh, tà, hư, thực, tốt, xấu; là lòng vị tha và sức mạnh vô úy. Tất cả ấy là con người, vì con người, cho con người hiện thực, và do con người trách nhiệm. Ðây là mẫu nhân cách trí tuệ, nhân bản và sinh động.

Khi mà cá nhân có tự do tâm lý, làm chủ được tâm lý thì cá nhân sáng suốt hơn và có nhiều sáng tạo hơn. Chính yếu tố tâm lý sáng tạo này sẽ đóng góp lớn cho xã hội.

Chúng ta sẽ tiếp tục bàn đến nhân cách này trong các hồi kế tiếp.

Ngô Thừa Ân quan niệm nhân cách giáo dục ấy tốt hơn nhân cách xây dựng từ đạo Nho nhiều, nhưng đồng thời cũng thấy khó khăn trong việc thực hiện trong xã hội phong kiến Trung Hoa, bởi giáo lý Phật giáo nói lên tính bình đẳng, dân chủ, tự chủ, độc lập sẽ lay đổ ngai vàng và quyền lợi của ngai vàng. Ðể bảo vệ quyền lợi của phong kiến, triều đại vua chúa (Trời) sẽ gieo rắc ngay tai họa chết người mà được gọi là nạn “sét đánh”, nạn “âm hỏa” và nạn “bi phong”. Vì thế Ngô Thừa Ân đã chuẩn bị khá kỹ lưỡng cho Tôn Ngộ Không với một căn bản định, tuệ và “thất thập nhị huyền công” để vận dụng đối phó với các kháng lực đến từ chính quyền phong kiến và từ phía các tà giáo trên đường thực hiện lý tưởng xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, bình đẳng và nhân bản, và xây dựng một nếp tư duy mới về giá trị nhân sinh và xã hội.

- Bước đầu tiên của việc thể hiện lý tưởng mà Tôn Ngộ Không đã được giáo dục là dẹp giặc loạn xâm lược của Hỗn Thế Ma Vương và tiêu diệt toàn bộ thế lực xâm lược này. Hỗn Thế Ma Vương là biểu tượng của dục vọng, ác hại mà Tôn Ngộ Không cần loại bỏ trước khi bắt tay vào việc giáo dục kiến thiết giang sơn Thủy Liêm động.

III. Quan niệm về xã hội.

- Về mặt xã hội, từ đây toàn thể đoàn khỉ đều có họ Tôn của Tôn Ngộ Không và chịu sự lãnh đạo tổ chức của Ngộ Không. tất cả đều bình đẳng về quyền sống trong động Thủy lIêm, núi Hoa Quả tất cả đều đoàn kết thành một khối ở đằng sau Tôn Ngộ Không và cùng có trách nhiệm trong việc xây dựng và bảo vệ xã hội loài khỉ theo hướng phát triển hưng thịnh.

- Tôn Ngộ Không liền tổ chức chặt chẽ an ninh, quốc phòng để bảo vệ thành quả thanh bình của xứ sở. Thành quả xã hội ấy sẽ đến từ nền giáo dục tinh thần trách nhiệm cá nhân, tinh thần độc lập tự cường, tinh thần Vô ngã, vị tha, tinh thần dân chủ và nhân bản. Các tinh thần giáo dục ấy sẽ tạo nên tình đoàn kết keo sơn của xã hội, sẽ tạo nên những công dân tốt, loại trừ được các tệ trạng xã hội như dối trá, cướp bóc, tà hạnh, tham nhũng, áp bức, lười biếng, thủ lợi, sa đọa... Tại đây, xã hội loài khỉ, hiện ra như một xã hội thí điểm mà Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu, và mẫu thí điểm này là dành cho xã hội con Người, đặc biệt là xã hội Trung Hoa với nhiều thành kiến. Hẳn nhiên Ngô Thừa Ân đã dự phòng trước các sức mạnh đề kháng từ bên trong và bên ngoài trong việc xây dựng xã hội mới hợp lý hợp tình hơn. Chúng ta hãy chờ xem trong các hồi tới Ngô Thừa Ân sẽ làm gì tiếp cho xã hội mới này?

Hồi thứ 3

Hồi 3: “Bốn bể nghìn non đềusợ nép

Chín u, mười loại xóa tên rồi”

I. Tư tưởng Phật học

- Sau khi dẹp xong giặc Hỗn Thế Ma Vương, Tôn Ngộ Không tiến hành việc tổ chức xã hội khỉ để giữ yên bờ cõi núi Hoa Quả. Bấy giờ có bốn trưởng lão khỉ hỏi về thần thông của Tôn Ngộ Không, Tôn Ngộ Không bảo:

“Ta từ sau khi đắc đạo, có công luyện tập bảy mươi hai phép địa sát và biến hóa, được phép thần thông cân đẩu vân không gì sánh bằng; ẩn mình, tránh mình, cất mình lên, thu hình lại, lên trời cũng có đường, xuống đất cũng có lối, bước vào mặt trời mặt trăng không có bóng, đi vào vàng đá không vướng mắc, nước không thể làm chìm, lửa không thể đốt cháy, chỗ nào mà chẳng đi được”.

Như đã đề cập ở hồi hai, tại Tà Nguyệt Tam Tinh động, Tôn Ngộ Không đã đắc pháp nhãn thấy rõ sự vật Vô ngã, do vì sự thật của mọi hiện hữu là Vô ngã nên sự kiện một người có thể theo ý muốn hiện ra nhiều ngã tướng khác nhau. Tất cả hiện hữu đều Vô ngã nên đều nhiếp nhau, không ngăn ngại, nên lửa không thể đốt cháy, nước không thể cuốn trôi, gió không lay, đất không cản v.v...

“Lý” của sự thật là như vậy nên “sự” của sự thật cũng như vậy. Ở cảnh giới Tứ sắc định, hành giả có thể có thần thánh không du hành, biến hóa tự tại. Tâm thức có giải thoát Vô ngã cũng thế, tùy duyên mà thị hiện. Ðây là sự thật như thật được ghi chép trong kinh điển Phật giáo.

Về nghĩa bóng, thì với một người ngộ Vô ngã mà không có thần thông biến hóa, tâm thức họ cũng được tự tại trước mọi sắc tướng như Tôn Ngộ Không tự tại ra vào các cảnh giới mà tâm lý không ai trước, không bị vướng mắc - sẽ thấy rõ hơn về sự thật này ở các hồi sau - Nhưng, để tâm thức an ổn có điều kiện đi sâu hơn vào giải thoát, người ngộ Vô ngã cũng cần tránh các sự quấy rối từ bên ngoài, như giang sơn Thủy Liêm động cần được giữ gìn an ninh. Ðây cũng là một sự thật của hành giả đang còn có nhiều việc phải làm trên đường tới giải thoát tối hậu.

- Về sự kiện trong giấc mơ Tôn Ngộ Không xuống âm phủ đại náo và xóa tên sinh tử của bản thân và của loài khỉ, âm ti phải cử sứ thần lên tấu với Ngọc Hoàng xử trị mà Ngọc Hoàng lại hòa giải với Tôn Ngộ Không, là sự kiện hoàn toàn biểu tượng.

Thực sự, mức độ tâm linh giải thoát của Tôn Ngộ Không bấy giờ tự nó đã xóa sạch nhân sinh tử đi vào các cảnh giới súc sinh, địa ngục và ngạ quỷ, theo giáo lý nhà Phật. Giải thoát của Tôn Ngộ Không bấy giờ có phước báo còn lớn hơn cả vua Trời, dù vua Trời có muốn hại cũng không được. Sự kiện giải thoát ấy là một thành quả lớn đáng kể của công phu tu tập làm kinh động các cảnh giới sinh tử đã khiến cho triều thần các cảnh giới ấy ganh ghét, đố kỵ khi mà tâm thức họ đang đầy ắp chấp thủ các tự ngã.

Quả thật Ngô Thừa Ân đã viết đầu hồi ba ngày:

“Bốn bể nghìn non đều sợ nép

Chín u, mười loại xóa tên rồi”

II. Quan niệm về con người

- Cái nhân cách giáo dục mà Ngô Thừa Ân quan niệm, đã được biểu hiện qua Tôn Ngộ Không; sau khi được đào tạo giáo dục từ hệ thống giáo dục Vô ngã của Tôn giả Tu Bồ Ðề thì liền đi vào xã hội để xây dựng xã hội và con người xã hội.

Với trí tuệ Vô ngã, với nhận thức mọi hiện hữu đều Vô ngã nên soi thấy mọi giá trị trong cuộc sống cũng Vô ngã, cũng đều không có một giá trị nhất định (hay chỉ có giá trị tương đối). Các giá trị ước lệ của xã hội về con người và xã hội chẳng những đã không thể đứng vững mà còn gây xáo trộn cho tâm lý con người và gây xáo trộn xã hội. Tất cả các giá trị ước lệ ấy trở thành trói buộc con người và xã hội, kìm hãm khả năng giải phóng con người và xã hội. Chúng cần được nhận thức mới xét lại, thay thế hay đập vỡ, dù giá trị ấy ở mỗi cá nhân hay tập thể. Ðấy là những gì mà Ngô Thừa Ân đã mượn chiếc thiết bổng nặng hơn vạn cân của Tôn Ngộ Không đập nát loạn Hỗn Thế Ma Vương. Cần phải dọn sạch các giá trị “hỗn thế” ấy, con Người rất Người mới có được một không khí trong lành để sống. Từ đây, con người sống với tâm lý tự do hơn, thoải mái hơn, có nhiều điều kiện sáng tạo hơn và làm được nhiều việc lành, lợi ích hơn cho bản thân, gia đình và xã hội. Ðây là ý nghĩa mà Ngô Thừa Ân đã biểu tượng hóa thành các thần thông tự tại đi vào nước, vào lửa, vào đất, vào không gian của Tôn Ngộ Không.

Từ đây, mỗi người chịu trách nhiệm về hành động của chính mình đối với bản thân, gia đình và xã hội, mà không ai khác quyết định hay bắt ép. Giá trị của con người, và hành động của con người là do tự giác, tự nguyện và tự do chọn lựa của họ, mà không liên hệ gì đến việc thưởng phạt tại Âm phủ, Long phủ hay Thiên đình. Ðây là ý nghĩa mà Ngô Thừa Ân đã lồng vào hình ảnh của Ngô Thừa Ân đã lồng vào hình ảnh Tôn Ngộ Không xóa sạch sổ ghi thiện ác, sinh tử của loài khỉ (xứ sở của Tôn Ngộ Không) ở Âm ty.

- Về cá nhân, mỗi người được giáo dục theo tinh thần Vô ngã sẽ luôn luôn giữ hành động của mình được dẫn dắt bởi tâm ngay chính, nhân ái, trí tuệ và không vướng mắc, luôn luôn kiểm soát tâm mình và giữ tâm lý ở ngoài các niệm thị phi, đố kỵ, sầu, bi, khổ, ưu não. Khi tâm lý được huấn luyện đến cấp độ không vướng mắc (hay ít bị vướng mắc) vào các tâm niệm đó thì tâm lý sẽ ở vào trạng thái tự do. Bấy giờ là thời điểm sáng suốt, sáng tạo và hạnh phúc cá nhân. Ở mặt giải thoát tương đối mà nhìn, thì đây là cảnh giới tâm lý tốt đẹp. Cảnh giới tâm lý tốt đẹp này thường xuất hiện trên đôi mắt của Tôn Ngộ Không mà chúng ta sẽ tiếp tục theo dõi.

III. Quan niệm về xã hội

Các nhà lãnh đạo nếu sống thể hiện tinh thần Vô ngã thì sẽ có sức mạnh vô úy, lòng vị tha, khoan dung, thái độ phóng khoáng, không câu nệ cố chấp, có tinh thần trách nhiệm cao... sẽ thu hút được quần chúng đoàn kết sau lưng mình trong mọi công tác giữ nước và dựng nước, như đàn khỉ quây quần chung quanh Tôn Ngộ Không vậy.

- Nếu mọi người dân được giáo dục Vô ngã, chấp nhận sự thật Vô ngã thì sẽ rời xa các thái độ sống chấp thủ, sẽ dễ dàng đoàn kết thành một khối tạo nên sức mạnh lớn lao cho dân tộc.

- Giáo dục Vô ngã sẽ tạo nên một nền văn hóa Vô ngã. Nền văn hóa này sẽ xóa đi các tư duy chấp thủ gây chia rẽ khối đại đoàn kết của dân tộc. Ðây là một mục tiêu lớn và lâu dài của một xã hội. Tinh thần Vô ngã sẽ thống trị các dị biệt, gom tất cả về một mối phục vụ cho cùng một mục tiêu: xứ sở.

- Khi mà đoàn kết dân tộc được thực hiện tốt, và khi mà nhân dân sống với thái độ không cố chấp thì mọi việc nước sẽ được thực hiện dễ dàng, như Tôn Ngộ Không tự tại đi vào nước, vào lửa..., đất nước sẽ hùng cường khiến các nước lân bang không thể dòm ngó, không thể quyết định vận mệnh của dân tộc ấy. Vấn đề xâm lăng, bảo hộ sẽ không có đất đứng; sẽ bị xóa sạch khỏi lịch sử như Tôn Ngộ Không xóa sổ sinh tử ở Âm ty cho loài khỉ ở Thủy Liêm động.

Hồi thứ 4, 5, 6 và 7

Hồi 4: “Quan phong Bật Mã lòng sao xứng

Tên gọi Tề Thiên dạ chẳng yên”

Hồi 5: “Loạn vườn đạo Ðại Thánh trộm thuốc tốt

Về Thiên cung cá thần bắt yêu quái”

Hồi 6: “Quân Âm đến hội hỏi nguyên do

Tiểu thánh ra oai thu Ðại thánh”

Hồi 7: “Ðại Thánh trốn khỏi lò bát quái

Hầu Vương bị giam núi ngũ hành”

Lược truyện hồi 4, 5, 6 và 7

Từ chuyện Tôn Ngộ Không xuống Long Vương lấy thiếc bổng để thêm khí giới giữ bờ cõi Hoa Quả sơn, đại náo Long cung, vua Trời muốn xử hòa với Tôn Ngộ Không đã không thành thật phong chức giữ ngựa Trời, rồi Tề Thiên Ðại Thánh, rồi giữ chức vườn đào. Các chức ấy đều là hư vị đặt ra do sự dối trá (không thật ý của Thiên đình). Hậu quả của sự dối trá ấy dẫn đến cuộc đại náo Thiên đình của Tề Thiên Ðại Thánh khiến Tề Thiên Ðại Thánh bị giam vào núi Ngũ Hành năm trăm năm.

I. Tư tưởng Phật học

- Như đã được đề cập ở phần Tổng luận, các hồi 4, 5, 6 và 7 là các hồi chiến cuộc xẩy ra giữa Tôn Ngộ Không và Thiên đình. Tất cả chỉ là những hình ảnh biểu tượng nói về Phật học và quan niệm về nhân sinh xã hội của tác giả. Không phải mọi hình ảnh đều chuyên chở ý nghĩa về Phật học được hiểu một cách máy móc. Chúng ta cần để ý đến các nét chính nổi bậc nhất của bối cảnh, rồi tìm hiểu các nét chính nổi bậc nhất của bối cảnh, rồi tìm hiểu các nét chính ấy có mang biểu tượng nào của Phật học?

- Ðể phát hiện các biểu tượng ấy, chúng ta cần phân biệt rõ ràng:

* Các cõi Trời được đề cập đến trong Tây Du Ký này đều là các cõi trời Dục giới. Các cõi ấy là các cõi thiện: nhờ phước báo thiện hạnh của tiền kiếp, tùy theo phước báo lớn nhỏ mà được làm Ngọc Hoàng, Thiên tướng, Thiên quan hay Thiên dân. Các phước báo kia đều thuộc hữu lậu, và các vị Trời kia cũng còn đầy ham muốn, bỉ thử, thị, phi tương tự ở cõi Người (chỉ ở cấp độ thanh cao hơn). Các cảnh giới thuộc trời Dục giới vẫn còn nạn chiến tranh với A-tu-la do bởi các cuộc tranh chấp về quyền hạn, hay đố kỵ về hạnh phúc.

* Quả vị giải thoát của Pháp nhã (Dự Lưu, hay Thất Lai, hoặc Tu-đà-hoàn) như ở cấp độ giải thoát của Tôn Ngộ Không là quả vị ở ngoài các tâm đố kỵ hay tranh chấp.

- Mỹ Hầu Vương, tánh vốn phóng khoáng, lại sống nhập thế tự tại, muốn làm chủ mọi hành động của bản thân mà không câu nệ sự tướng - bởi thấy tất cả đều rỗng không tự ngã - nhưng phía chúng sinh ở cõi Trời, Người thì khác, do vậy xẩy ra các xung đột.

- Tác giả đã vận dụng cuộc đại náo Thiên cung và sự chiến thắng Thiên đình của Tôn Ngộ Không để nói lên rằng tâm thức của Tôn Ngộ Không bấy giờ đã vượt ra khỏi chấp thủ lục đạo (Thiên, Nhơn, A-tu-la, Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh). Tên gọi Tề Thiên Ðại Thánh vì thế được khoa trương.

- Với đôi mắt thánh thiện của Ðại Thánh, cõi Trời hiện ra cái bản tướng lẩm cẩm của nó; tất cả chúng Trời đang ngủ yên trong dòng nghiệp của Trời, thiếu nhân duyên để thấy đạo, thấy Vô ngã, Vô thường của cảnh trời. Cuộc đại náo có tác dụng đánh thức các cung viện và Thiên chúng, giúp Thiên chúng mở sáng đôi mắt tuệ. Cuộc đại náo, như đã đề cập ở phần Tổng luận, còn có nghĩa là đại náo trong tâm thức của Ngộ Không và của các hành giả.

- Tôn Ngộ Không là biểu tượng của trí tuệ Vô ngã, là thuộc thế giới của thực tướng vô tướng, nên các ngã tướng lửa, nước, gió, đất, không gian, thức đều không hại được. Vì thế, đao chém không dứt (đứt đầu rồi lại liền), lò bát quái (lò hữu vi) đốt không cháy. Nhưng khi đối diện với Ba La Mật toàn giác của Ðức Phật thì trí tuệ của Tôn Ngộ Không trở thành trí tuệ cỏn con bị thu phục. Tại đây, Ðức Phật dạy cho Tôn Ngộ Không rõ trí tuệ của Tôn Ngộ Không chưa hoàn toàn thoát ly sự trói buộc của Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) qua sự kiện Tôn Ngộ Không không nhảy ra khỏi bàn tay Như Lai, và qua sự kiện bị Ngũ Hành sơn chụp phủ 500 năm, như Tôn Ngộ Không đang vướng mắc vào tánh tháo động của tâm, tuệ, vướng mắc vào ngã mạn, tự kiêu, hiếu thắng và vô minh (bị vướng mắc mà tự mình không biết).

II. Quan niệm về con người

- Mở ra cuộc đại náo thiên cung là tác giả muốn phơi bày một sự thật rằng:

* Cái tổ chức trật tự của Thiên cung là sản phẩm của trí hữu ngã (trí của sinh, diệt, mộng ảo). Trí hữu ngã ban cho các hiện hữu một ngã tướng, ngã tính để dễ suy luận, nói năng, truyền đạt, để phân biệt rõ ràng giữa hiện hữu này và hiện hữu khác; đó là tính thiết lập trật tự cho các hiện hữu; chính ý niệm trật tự đã tạo dra xã hội có vua, tôi, quan, dân..., và chính ý niệm ngã đã đặt để việc làm vua suốt đời và làm vua theo dòng họ - quan dân cũng thế - như ngạn ngữ nhân gian đã nói: “Con vua thì lại làm vua...”. Mọi giá trị đặt ra của xã hội hữu ngã là sản phẩm của tư duy hữu ngã, là những gì mộng ảo, không thật, bởi vì tư duy thì khác với thực tại. Một xã hội mà sống trong thế giới giá trị mộng mị như thế làm sao có thể sống có hồn nhân bản? Chính các giá trị hữu ngã ấy đã tạo ra cuộc “hỗn thế” mà con người cần phải xây dựng, tổ chức lại theo giá trị Vô ngã và nhân bản.

- Chính vì giá trị ước lệ của hữu ngã đang chế ngự cõi Trời và cõi Người - đây quả là thế lực của đại tà - không đặt để con người tài đức thật đúng vị trí xã hội của nó mà sinh ra đại loạn. Ðể thức tỉnh vua Trời”, hay “Như Lai bảo Ngọc Hoàng nhường ngôi cho lão Tôn thì loạn đại náo sẽ yên”.

Như thế, mở ra cuộc đại náo Thiên cung làm kinh động cả Trời, Người, là Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu một giá trị nhận thức mới: giá trị của Vô ngã, muốn giáo dục con người nhận thức rõ giá trị này. khi mọi người đều nhận thức ấy và sẽ tạo nên một xã hội vắng bóng hết thảy các bất công, áp bức, tham quyền cố vị, tham nhũng, khủng bố, sa đọa... Ở đó, con người sẽ sống đúng giá trị của con người, không còn đánh mất mình nữa (không còn hiện tượng tha hóa).

Như thế, mở ra cuộc đại náo Thiên cung làm kinh động cả Trời, Người, là Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu một giá trị nhận thức mới: giá trị của Vô ngã, muốn giáo dục con người nhận thức rõ giá trị này. khi mọi người đều nhận thức như vậy thì sẽ hành động xây dựng bản thân, gia đình và xã hội theo nhận thức ấy và sẽ tạo nên một xã hội vắng bóng hết thảy các bất công, áp bức, tham quyền cố vị, tham nhũng, khủng bố, sa đọa... Ở đó, con người sẽ sống đúng giá trị của con người, không còn đánh mất mình nữa (không còn hiện tượng tha hóa).

III. Quan niệm về xã hội

- Mở ra cuộc “đại náo” là tác giả đã quá rõ ràng muốn nói rằng: Cơ chế tổ chức xã hội phong kiến là không hợp lý, đã lỗi thời, cần tổ chức một cơ chế xã hội mới thể hiện dân chủ, công bằng và nhân bản.

- Tác giả cũng ý thức rõ rằng cuộc cải cách xã hội ấy khó thực hiện, bởi nó xáo trộn xã hội cũ, điều mà thói quen của cuộc sống khó hưởng ứng, và bởi vì đụng chạm quá mạnh đến giai cấp lãnh đạo và quyền lợi của họ và của quần chúng “ăn theo”. Vì ý thức như vậy nên tác giả đã để Tôn giả Tu Bồ Ðề báo trước cho Tôn Ngộ Không cẩn thận đề phòng ba tai nạn lớn mà Trời sẽ giáng xuống, và đã để Tôn Ngộ Không làm cuộc “đánh thức” mà không phải cách mạng. Tác giả muốn làm một cuộc thay đổi về văn hóa và giáo dục trước, thực hiện ôn hòa hơn. Nói rõ là tác giả sau khi lường trước tính sau thì chỉ muốn có một cải tổ với quy mô khá lớn để giáo dục cho quần chúng giác ngộ dần và cấp lãnh đạo ý thức được về những đổi thay cần thiết: một xã hội mới tổ chức dưới một giá trị mới và trật tự mới (nếu cần nói như thế), chứ không phải là vô trật tự. Những lý do vì sao sẽ được nói rõ vào các hồi tiếp, chúng ta sẽ tìm hiểu.

Hồi thứ 8

I. Tư tưởng Phật học

- Sau khi hàng phục Tôn Ngộ Không và giữ Tôn Ngộ Không tại Ngũ Hành Sơn (có chú ếm và có thần giữ an toàn cho Tôn Ngộ Không), Ðức Phật trở về Lôi Âm tự. Vừa đặt chân về Lôi Âm tự, Ðức Phật liền dạy:

“Ta đem: Cặp mắt nhìn xa,

Nhìn khắp Tam giới

Cỗi rễ tính xưa,

Thấy đều tịch diệt

Hình thể hư không

Chẳng còn gì hết

Hàng phục khỉ già

Không mấy ai biết

Sống chết rành rành

Ðấy là pháp tướng”.

Thế rồi, Ðức Phật liền truyền mở hội Vu Lan ở xứ Phật và tính việc truyền bá ba Tạng kinh Phật đến Nam Thiệm Bộ Châu (từ Tây Trúc đến Ðông Ðộ - Trung Hoa).

- Như đã bàn ở phần Tổng luận, Tôn Ngộ Không có tuệ Vô ngã nhưng vì Giới và Ðịnh chưa tu tập vững nên còn bị trói buộc bởi Năm uẩn (hình ảnh Ngũ Hành sơn chụp phủ lên người 500 năm). Còn bị trói buộc bởi Năm uẩn là còn bị trói buộc bởi các pháp hữu vi, chưa thật sự đi ra khỏi sinh tử, luân hồi. Sự kiện Tôn Ngộ Không không thể nhảy ra khỏi bàn tay của Ðức Phật là bài học Ðức Phật dạy tiếp cho Tôn Ngộ Không rằng cần nhiếp tâm tu mạnh hơn nữa, cần hành trì Giới uẩn, Ðịnh uẩn và Tuệ uẩn sâu xa hơn nữa. Ðây là công phu mới tiếp tục công phu mà Tôn giả Tu Bồ Ðề đã dạy tại núi Linh Ðài Phương Thốn ở động Tà Nguyệt Tam Tinh. Công phu này sẽ bắt đầu tu tập từ khi Ðường Tăng lên đường tỉnh kinh, điều mà Ðức Phật đang sắp đặt tại hội Vu Lan bồn tại Lôi Âm tự.

- Tại Thiên cung thì thường có hội Bàn Ðào để hưởng lạc và để tăng tuổi thọ cho một số cấp lãnh đạo cao tại đó. Sau vụ “đại náo” thì Ngọc Hoàng bày hội “Yên Trời”. Tại Phật xứ thì tương phản, bày hội “Vu Lan”, còn được gọi là hội “Hiếu Hạnh”, để báo đáp ân phụ mẫu, sư trưởng. Cuộc thỉnh kinh về Ðông độ mà Ðức Phật sẽ sắp đặt được mở đầu bằng hội “Hiếu Hạnh” này.

- Ðức Phật hẳn đã dự tính phái đoàn đi Tây Trúc thỉnh kinh từ khi có vụ đại náo Thiên cung và từ khi hàng phục Tôn Ngộ Không. Phật sự thỉnh kinh chính là con đường công phu giải thoát đi đến trí tuệ Ba La Mật của Tôn Ngộ Không mà Ðức Phật bày vẽ; giáo dục, dẫn dắt Tôn Ngộ Không vượt qua ba tai nạn khốc liệt (sét đánh, âm hỏa và bi phong) mà Tôn giả Tu Bồ Ðề đã báo trước.

- Ðức Phật đã chuẩn bị sẵn năm bửu bối để Bồ Tát Quán Thế Âm trao cho Ðường Tăng sau này: một áo cà sa, một tích trượng và ba chiếc vòng (trong đó có một vòng để khống chế tính cứng đầu, loạn động của Tôn Ngộ Không). Cà sa và tích trượng là hành trang giải thoát của một tu sĩ Phật giáo (chỉ thiếu bình bát). Y cà sa là biểu tượng cho phạm hạnh nên có thể giúp hành giả thoát khỏi luân hồi; tích trượng thường được người xưa dùng để chế ngự thú dữ, rắn rít và các kẻ cướp đường; ở đây tích trượng của Phật tự nó khắc chế các ác vật, ác thú.

Bồ Tát Quán Thế Âm là vị Bồ Tát đã đắc trí tuệ Ba La Mật và có đại bi nguyện độ sinh (đệ tử của Bồ Tát là Huệ Ngạn đã là ở bên bờ của trí tuệ giải thoát rồi) được Ðức Phật giao phó sứ mệnh theo dõi phái đoàn thỉnh kinh. Ðây là biểu tượng của đích trí tuệ mà các hành giả nhắm đến.

- Bốn đệ tử mà Bồ Tát Quán Thế Âm thu nạp để phò Ðường Tăng thỉnh kinh là: Tôn Ngộ Không, Tiểu Long Mã, Sa Ngộ Tịnh, và Trư Ngộ Năng (xem Tổng luận)

II. Quan niệm về con Người

Ðức Phật biết rõ tâm tư của Tôn Ngộ Không, Ngài đến Thiên cung hàng phục Tôn Ngộ Không theo lời thỉnh cầu của Ngọc Hoàng, nhưng thực sự là đến cứu Tôn Ngộ Không và giữ yên Tôn Ngộ Không tại một chỗ bình yên như là tạm thời an trí để chờ đến thời điểm tốt hầu tiếp tục hành Phật sự. Hẳn chúng ta còn nhớ lại Tôn giả Tu Bồ Ðề, vị đại đệ tử của Ðức Phật, đã giáo dục Tôn Ngộ Không thành người có trí tuệ chân chính để phục vụ đạo và đời và đã cho hạ sơn trở về Nam Thiệm Bộ Châu. Ðây không phải là việc làm tình cờ, mà đã có chủ ý của Phật. Phương Chi, núi nơi trú xứ của Tôn giả Tu Bồ Ðề có tên gọi là Linh Ðài Phương Thốn (có nghĩa là một tấc đất của Linh Sơn, Lôi Âm tự), phải chăng đây là phân viện giáo dục các Bồ Tát để độ sinh? Ðây là phân viện truyền trao lý tưởng giáo dục độ sinh?

- Giai đoạn đại náo Thiên cung của Tôn Ngộ Không chỉ là giai đoạn đầu của việc truyền bá con đường văn hóa giáo dục Vô ngã (hay Từ bi và trí tuệ Vô ngã), chỉ để gây một tiếng vang đánh thức cuộc đời. Bấy giờ chưa phải là thời điểm cho Tôn Ngộ Không thay thế Ngọc Hoàng. Dù Tôn Ngộ Không không dễ gì truyền bá được liền, và xã hội Thiên cung không hẳn sẽ được yên ổn hơn, mà có thể sẽ có chiến tranh kéo dài để tranh lại ngai vàng đã mất khi Thiên chúng chưa nhận ra lý tưởng cải thiện xã hội tốt đẹp của Tôn Ngộ Không.

Lại nữa, khi thu phục Tôn Ngộ Không tại Ngũ Hành Sơn, Bồ Tát Quán Thế Âm đã dạy: “Nói ra một điều thiện thời ngoài nghìn dặm sẽ ứng theo; nói ra một điều bất thiện thì ngoài nghìn dặm sẽ chống lại”. Ðiều này Bồ Tát cố ý nhắc nhở cho Tôn Ngộ Không biết rằng Tôn Ngộ Không đã có lý tưởng tốt đẹp lo gì thiên hạ không nghe theo. Tôn Ngộ Không cần phải biết trầm tỉnh ẩn nhẫn mà hành động. Phải tri thời và phải tri pháp. Người xưa đã nói: trồng cây thì cần 10 năm; trồng người thì phải 100 năm, Tôn Ngộ Không làm văn hóa còn phải cần một khoảng thời gian để kết nạp những người cùng chí hướng xiển dương con đường văn hóa giáo dục mới, thời gian để đối phó với các kháng lực đầy nguy hiểm. Tưởng chúng ta cần biết rằng sau lưng Tôn Ngộ Không chỉ có đám khỉ nhỏ chưa đủ sức để bảo vệ Hoa Quả sơn, sau đó nếu có lực lượng quần chúng hậu thuẫn nhiều thêm thì lực lượng này không thể một lòng một dạ và có quyết tâm như Tôn Ngộ Không, mà: hoặc là bất nhất, dễ bỏ cuộc như Trư Bát Giới; hoặc là tình cảm mềm lòng như Ðường Tăng; hoặc trung thành và có quyết tâm nhưng thiếu dũng lược như Sa Ngộ Tịnh, thì rất khó mà cải tổ nhanh chóng được xã hội trước kháng lực có mặt khắp trong ngõ ngách xã hội như con “bạch tuộc”.

- Vấn đề con người luôn luôn liên hệ chặt chẽ với vấn đề trí tuệ (trình độ văn hóa), với vấn đề chánh kiến (các quan điểm chủ trương), vấn đề tâm lý tình cảm, và vấn đề giá trị của con người và xã hội sẽ mở ra một hướng văn hóa, giáo dục mới. Chấp nhận con đường mới ấy không phải chỉ có sự chấp nhận của tư duy mà đủ, mà cần có ý chí, tình cảm và tâm lý chấp nhận nữa. Con đường văn hóa giáo dục này vì thế đòi hỏi cần có thời gian lâu dài để chuẩn bị con người. Tại đây chưa nói đến cơ chế tổ chức xã hội cũ, guồng máy Nhà nước phong kiến cũ rất cũ kỹ và rất cồng kềnh. Con đường văn hóa giáo dục ấy cũng cần có thời gian để cuộc đời trắc nghiệm giá trị. Ðó là các lý do mà Ðức Phật đã chuyển Tôn Ngộ Không qua một hướng hành động khác có tính khoa học hơn và thuyết phục hơn. Thời điểm Tôn Ngộ Không an nghỉ ở Ngũ Hành Sơn là mốc điểm thời gian chuyển hướng, mà không phải là đầu hàng. Ðó là thời gian cần thiết để Tôn Ngộ Không kiểm điểm công tác và định hướng công tác.

III. Quan niệm về xã hội.

- Xã hội và con người cá thể quyện chặt vào nhau như một thực thể. Hai hiện hữu ấy có tác động ảnh hưởng qua lại: khi xã hội văn hóa thay đổi thì cá thể thay đổi theo; ngược lại, khi nhận thức, tư duy của con người thay đổi thì xã hội cũng dần dần thay đổi thời gian. Cả hai đều có tính chất Vô ngã hay bất định, có thể được thay đổi tùy theo các điều kiện sống, môi trường sống. Ý thức như vậy, tác giả Ngô Thừa Ân đã chọn lựa thay đổi nhận thức con người thì bị ràng buộc chặt chẽ với tổ chức của xã hội, nhất là xã hội ấy là một xã hội phong kiến lâu đời. Các giá trị phong kiến đã ăn sâu vào tiềm thức con người và cơ cấu xã hội. Bất cứ một thay đổi nào về giá trị thuộc xã hội phong kiến đều vấp phải một kháng lực có quyền uy rất lớn của vua, tôi, triều thần và quần chúng dưới trướng triều đình. Ðối mặt với sức mạnh này, tất cả sức mạnh này, tất cả sức mạnh của các cá nhân và của các nhóm quần chúng nhỏ đều phải tan vỡ.

- Lại nữa, xã hội phong kiến đã nuôi dưỡng các lực lượng tà phái rất mạnh, tồn tại dựa vào các khuyết điểm của phong kiến; các lực lượng này cũng không muốn thay đổi xã hội phong kiến; bởi vì sự thay đổi ấy đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của các thế lực ấy. Các lực lượng này trở thành vật cản đáng kể dưới bước đi của Tôn Ngộ Không.

Tôn Ngộ Không và nhóm chính phải của Tôn Ngộ Không, phải thường xuyên lưỡng đầu thọ địch. Ðấy là chưa nói đến việc có những sức cản nằm trong nhóm quần chúng của Tôn Ngộ Không như vừa đề cập ở mục II, hồi 8 này.

Thực hiện con đường lý tưởng về văn hóa, giáo dục Vô ngã, vì thế Tôn Ngộ Không cần, rất cần, đến sự soi sáng của trí tuệ toàn giác và lòng đại bi bủa ra của trí tuệ toàn giác (biểu tượng bằng sự dẫn dắt của Ðức Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm). Nhìn lại lịch sử Việt Nam dưới thời Lý, Trần, chúng ta có thể có một khái niệm về sự chuẩn bị cho công việc thực hiện lý tưởng trên. Vạn Hạnh thiền sư, Khánh Vân thiền sư, và cả Khuông Việt, Pháp Thuận thiền sư đã dốc bao nhiêu tâm lực để tìm ra Lý Công Uẩn và mở dần con đường cho Lý Công Uẩn lên ngôi báu.

Nhân tâm cũng là một yếu tố ảnh hưởng mạnh đến việc thay đổi chế độ xã hội, có thể tạo điều kiện thuận lợi, mà cũng có thể bất thuận lợi. Vì thế con đường sống vị tha, đầy tình người và trí tuệ, cần được mở đầu bằng hiếu đạo, điều mà Ðức Phật đã quan tâm mở ra hội “Vu Lan Bồn” khi chuẩn bị lập thành phái đoàn Tây du.

Chúng ta sẽ dần dần thấy rõ những gì mà Tôn Ngộ Không cần phải vượt qua vào các hồi kế tiếp.

Hồi thứ 9, 10, 11 và 12

Hồi 9: “Trần Quang Nhị nhậm chức gặp nạn,

Sư Giang Lưu trả thù báo ơn”

Hồi 10: “Lão Long Vương vụng tính phạm pháp thiên đình.

Ngụy thừa tướng gửi thư nhờ âm phủ”

Hồi 11: “Qua địa phủ Tái Tôn về dương

Dâng quả bí Lưu Toàn được vợ”

Hồi 12: “Vua Ðường lòng thành kính mở đại hội

Quan Âm hiển Thánh hóa Kim thuyền”

I. Tư tưởng Phật học

- Về con đường đến trí tuệ Ba La Mật, theo Phật giáo phát triển (Ðại thừa), hành giả sau khi ngộ pháp tánh (còn gọi là minh tâm, kiến tánh) cần phát tâm cầu Phật quả và hành sâu giải thoát (Giới, Ðịnh, Tuệ) và tâm đại bi cứu độ chúng sinh thì công đức giải thoát mới sớm thành tựu viên mãn.

Bốn hồi này là phần Bồ Tát Quán Thế Âm sắp đặt cho nhân vật Ðường Huyền Trang xuất hiện với lòng đại bi phát đại tâm đi Tây Trúc thỉnh kinh để cứu độ Nam Thiệm Bộ Châu. Ðây là nhân vật biểu hiện tâm nguyện Bồ Tát cầu giải thoát Vô thượng Bồ đề. Việc thỉnh được Tam Tạng kinh từ Lôi Âm tự về đến Tràng An (Trung Hoa) là biêu tượng cho mục tiêu đắc trí tuệ giải thoát Ba La Mật vậy. Về nhân vật Ðường Tăng đã được đề cập trong phần Tổng luận, ở đây chỉ bàn thêm một ít điểm.

- Ðường Tăng, nhân vật được Bồ Tát Quán Thế Âm chọn (Tây Du Ký) ủy thác trách nhiệm thỉnh kinh là tiêu biểu cho quyết tâm giải thoát và độ sinh của mỗi hành giả. Ðường Tăng tự thân thấy rõ cảnh đời vô thường, khổ đau và ác trược (chứng kiến các oan khổ đến với tự thân, gia đình và xã hội) nên phát khởi đại bi tâm độ sinh. Ðây là điểm giáo lý rất truyền thống của Phật giáo. Chỉ có những tâm thức nào thấy rõ ba pháp ấn, hay bốn pháp ấn là thấy đạo; chỉ những ai thấy đạo mới phát tâm cầu đạo. Sự kiện phát khởi đại bi tâm chỉ thực sự xẩy đến với điều kiện tâm thức như thế, nghĩa là đại bi tâm phát khởi từ trí tuệ giải thoát. Không có sự kiện phát khởi đại bi tâm ngoài trí tuệ. Vì thế hình ảnh Ðường Tăng gắn liền với Tôn Ngộ Không trên suốt cuộc hành trình Tây du. Lúc nào hai hình ảnh ấy, hai tâm thức ấy tách rời khỏi nhau thì tà pháp xã hội (ma nạn đến)... Ðây là đạo.

- Qua việc giới thiệu thân thế Ðường Tăng, bốn hồi truyện này (hồi 9-12) còn giới thiệu một số điểm khác về giáo lý Phật giáo như:

a/ Trạng nguyên Quang Nhị đã phóng sinh con cá vốn được mua để dâng mẹ, và được mẹ khen ngợi. Tại đây tác giả giới thiệu các giá trị tu tập giải thoát: hiếu hạnh là tốt, như tu tập bố thí thì tốt hơn, phước đức nhiều hơn. Phóng sinh cũng thế. Tương tự, công đức trì giới sẽ nhiều hơn nữa; hành thiền định công đức sẽ hơn trì giới; tu tập trí tuệ là tốt hơn cả.

b/ Tác giả nhân đây giới thiệu giáo lý nhân quả Phật giáo rất phân minh: Quang Nhị phóng sinh cá nên về sau (vốn là con cá được phóng sinh) Long Vương cứu Quang Nhị khỏi chết sau khi bị Lưu Hồng ám hại để đoạt vợ và chức Tri phủ.

c/ Việc Ðường Thế Dân du Ðịa phủ chứng kiến sự thật nhân quả: ác nhân thì ác báo, thiện nhân thì thiện báo. Tác giả đã tóm tắt khái quát rằng: “Người làm thiện thì sinh Tiên; người tận trung thì sinh và đường quý; người hiếu hạnh thì sinh vào đường phúc; người công bằng thì sinh vào kiếp Người; người tích đức thì sinh vào đường giàu có; người độc ác thì sinh vào đường quỷ”. Giáo lý này hướng dẫn người đời sống ngay thẳng, công bằng và thiện lương đem lại an vui cho bản thân, gia đình và xã hội.

- Chiếc áo Cà sa Phật Tổ ban cho Ðường Tăng (Bồ Tát Quán Thế Âm trao) là biểu tượng lý tưởng giải thoát khổ cho tự thân và giúp cho mọi chúng sinh thoát khỏi hết thảy các khổ ách trong sinh tử. Lý tưởng này là sự nghiệp cao đẹp nên được dệt bằng tơ quý (tiên tơ), bởi bàn tay quý (tiên nga dệt), và được trang trí bằng các hạt trân châu: hạt ngọc “ma ni” là biểu tượng cho hạnh sống thanh bạch, trong sáng, không tỳ vết; hạt “tị trần châu” là biểu tượng cho sống xa lìa hết thảy các trần cấu (các cấu uế của tâm); hạt “định phong châu” là biểu tượng cho hạnh sống nhiếp tịnh tâm thức thoát ly khỏi các ảnh hưởng khen, chê, thị phi, được, mất, danh vọng, lợi dưỡng (bát phong); hạt “dạ minh châu” là biểu tượng cho trí tuệ. Chiếc áo mà Bồ Tát Quán Thế Âm tặng không cho Ðường Tăng là biểu tượng cho công phu hành giải thoát được chứa đựng trong Tam Tạng kinh điển Phật giáo.

II. Quan niệm về con người

- Cho đến hồi thứ 21 này, Ngô Thừa Ân đã phác họa đủ đề cương của một nội dung giáo dục con người tốt phục vụ cho xã hội của nền văn hóa giáo dục Vô ngã. Ðề cương ấy bao gồm nhiều điểm:

1- Giáo dục con người sống phải có mục tiêu, lý tưởng hướng thượng. Lý tưởng đó phục vụ cho an lạc, hạnh phúc của bản thân, tập thể, xã hội, và được biểu tượng qua nhân vật Ðường Tăng.

2- Giáo dục con người có khả năng nhận thức, phân biệt rõ phải, trái, thiện, ác, tốt, xấu, đúng, sai, hư, thật (được biểu trưng qua nhân vật Tôn Ngộ Không).

3- Giáo dục con người biết hướng thiện, sống đạo đức, biết khép mình vào khuôn phép, kỷ luật tự giác (được biểu tượng qua Trư Bát Giới).

4- Gióa dục tâm lý con người, giáo dục ý chí và quyết tâm theo đuổi con đường lý tưởng của mình (biểu tượng qua nhân vật Sa Ngộ Tịnh).

5- Giáo dục đầy tình người (nhân hiếu, trung, tình, nghĩa), biểu tượng qua nhân vật Tiểu Long Mã.

6- Giáo dục con người thấy rõ tính độc đoán, uy quyền, hưởng thụ, bất công (tệ trạng tại Thiên cung) của những người có quyền thế, thấy rõ sự thật khổ đâu ở Âm phủ và cuộc “hỗn thế” ở trần gian để xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, an lạc và hạnh phúc.

- Xây dựng một nhân cách toàn diện qua các mặt:

1. Lý trí và hành động (Tôn Ngộ Không).

2. Về tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ (vai trò Ðường Tăng).

3. Về thể lực, bản năng, dục vọng (vai trò Bát Giới).

4. Ý chí kiên định, tâm tư ổn định (vai trò Sa Ngộ Tịnh).

5. Về tương giao xã hội (vai trò Tiểu Long Mã).

Ðó là nội dung giáo dục về trí dục, đức dục, tâm lý và tình cảm, lao động (hành động), và giáo dục một khả năng thực hiện sự hòa điệu các mối tương giao của cuộc sống (Phái đoàn...).

- Nền giáo dục con người toàn diện ấy được xây dựng trên cơ sở sự thật Vô ngã tính của vạn hữu, và trên căn bản niềm tin rằng tâm thức có khả năng chuyển hóa không cùng.

III. Quan niệm về xã hội

- Tác giả lần lượt nêu lên những lý do của một xã hội cần được thay đổi. Sự kiện Trần Quang Nhị, rể của quan thừa tướng Ngụy Trưng đi nhậm chức bị kẻ ác giết chết, chiếm vợ và chiếm cả chức vị Tri phủ kéo dài mười tám năm mà triều đình cũng không hay, chứng tỏ xã hội Trung Hoa bấy giờ tổ chức không hợp lý, không thể bảo đảm an ninh xã hội cho dân chúng, đưa xã hội vào cảnh hỗn loạn, nhân dân không có quyền làm chủ xã hội và cuộc sống.

- Sự kiện Long Vương không tôn trọng mệnh lệnh của Thiên đình, tự do hành xử theo tư ý là sự kiện không thượng tôn pháp luật.

- Sự kiện Lý thị vợ Lưu Toàn, phải tự vẫn khi làm việc thiện là hậu quả của các quan niệm đạo đức luân lý lỗi thời của xã hội Trung Hoa.

- Sự kiện Ðức Phật ủy thác Bồ Tát Quán Thế Âm phật sự thỉnh Tam tạng kinh Phật đến Ðông Ðộ để cứu vớt quần chúng nói lên quá rõ ràng nhân tâm ở đây đã hoạn nạn, đạo đức đã suy đồi.

- Tại giới quan lại, chính trường thì vì danh lợi đã đẩy đưa một số người có tài giúp nước như Lý Ðịnh, Trương Tiêu đến chỗ chán nản rút lui về sống an phận bằng nghề đốn củi, bắt cá, tiêu dao ở vùng non xanh nước biếc.

- Trước cảnh một xã hội, dù không có chiến tranh, đạo đức đi dần vào băng hoại, Ngô Thừa Ân muốn đánh thức nhân dân tỉnh dậy để cùng nhau sửa soạn cho một xã hội dân chủ, công bằng và nhân ái. Xã hội mới sẽ bắt đầu từ ngày Ðường Tăng nhận tấm áo cà sa và chiếc tích trượng từ tay Bồ Tát Quán Thế Âm để Tây du. Cần có một cơn gió lớn đưa hương Vô ngã, trí tuệ và từ bi từ Tây Trúc về xã hội Trung Hoa đương thời.

Ðây là hoài bão của Ngô Thừa Ân về việc xây dựng một xã hội con người rất người và tốt đẹp qua tiểu thuyết Tây Du Ký.

- Công cuộc cải tổ văn hóa, giáo dục mà Tôn Ngộ Không khởi xướng cần được tiến hành nhiều bước hợp lý. Bước đầu tiên là giáo dục, tuyên truyền ý thức nơi quần chúng nhân đân về những hư hỏng của xã hội cũ, và chứng tỏ các ưu thế của nền văn hóa mới. Cánh đổi mới cần có một lực lượng hậu thuẩn mạnh mẽ để có thể đứng vững trước nhiều sức mạnh phản kháng đến từ nhiều phía, đại để có ba sức mạnh phản kháng ch

Hết Chương 4
Thông tin sách