Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nên văn hoá của ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật. Ở một số dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là một trường phái triết học, một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội hoạ... phát triển rất cao ảnh hưởng phổ biến và lâu dài đến toàn bộ văn hoá thành đặc sắc văn hoá của dân tộc đó.
Ở ta thần thoại không phong phú - hay là có nhưng một thời gian nào đó đã mất hứng thú lưu truyền? Tôn giáo hay triết học cũng đều không phát triển. Người Việt Nam không có tâm lý kiền thành, cuồng tín tôn giáo, mà cũng không say mê tranh biện triết học. Các tôn giáo đều có mặt, nhưng thường là biến thành một lối thờ cúng, ít ai quan tâm đến giáo lý. Không có một ngành khoa học, kỹ thuật, giả khoa học nào phát triển đến thành có truyền thống. Âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc đều không phát triển tuyện kĩ. Trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể, cũng có dịp làm dăm ba câu thơ. Nhưng số nhà thơ để lại nhiều tác phẩm thì lại không có. Xã hội có trọng văn chương, nhưng cũng chưa bao giờ tôn ai là thi bá, và bản thân các nhà thơ cũng không ai nghĩ cuộc đời, sự nghiệp của mình là ở thi ca. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, một ngành văn hoá nào đó trở thành đài danh dự, thu hút, quy tụ cả nền văn hoá.
Người Việt Nam có thể coi là ít tinh thần tôn giáo. Họ coi trọng hiện thế trần tục hơn thế giới bên kia. Không phải người Việt Nam không mê tín, họ tin có linh hồn, có ma quỷ, Thần Phật. Nhiều người thực hành cầu cúng. Nhưng về tương lai, họ lo cho con cháu hơn là cho linh hồn của mình. Tuy là coi trọng hiện thế nhưng cũng không bám lấy hiện thế, không quá sợ hãi cái chết (sống gửi thác về).
Trong cuộc sống, ý thức về cá nhân và sở hữu không phát triển cao. Của cải vẫn được quan niệm là của chung, giàu sang chỉ là tạm thời, tham lam giành giật cho nhiều cũng không giữ mãi mà hưởng được. Người ta mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn no đủ, sống thanh nhàn, thong thả, có đông con nhiều cháu, ước mong về hạnh phúc nói chung là thiết thực, yêu phận thủ thương không mong gì cao xa, khác thường hơn người. Con người được ưa chuộng là con người hiền lành, tình nghĩa. Không chuộng trí mà cũng không chuộng dũng.
Dân tộc chống ngoại xâm liên tục nhưng không thượng võ. Đâu đâu cũng có đền thờ những người có công đức - chủ yếu là có công chống ngoại xâm - nhưng không một anh hùng xuất chúng, một võ sỹ cao cường nào được lưu danh. Trong tâm trí nhân dân thường có Thần và Bụt mà không có Tiên Thần uy linh bảo quốc hộ dân và Bụt hay cứu giúp mọi người; còn Tiên nhiều phép lạ. ngao du ngoài thế giới thì xa lạ.
Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết thủ thể, giữ mình, gỡ tình thế khó khăn. Đối với cái dị kỉ, cái mới, không dễ hoà hợp nhưng cũng không cự tuyệt đến cùng, chấp nhận cái gì vừa phải, hợp với mình nhưng cũng chần chừ, dè dặt, giữ mình.
Hãy tự xét mình
Mấy năm gần đây người ta hay nhắc đến cuốn sách "Người Trung Quốc xấu xí" của Bá Dương (bản dịch Nguyễn Hồi Thủ), nói việc người láng giềng phương Bắc tự soi gương để nhận diện "cái xấu xí" của mình, "tự sỉ" mong sửa chữa để vươn lên. Bá Dương cũng nêu tấm gương của những người ở Mỹ và Nhật đi trước ông, viết sách tự phê phán "cái xấu xí" của mình.
Ở nước ta, trước ông Bá Dương 60 năm, trước cả cụ Lỗ Tấn, đã có ông Nguyễn Văn Vĩnh từng làm việc đó, trong chuyên mục "Xét tật mình" (Đông Dương Tạp chí), theo tinh thần của Emile Zola: "Nói hết, để biết hết, để chữa hết".
Chúng tôi lại nhớ đến tác phẩm nổi tiếng "Trai nước Nam làm gì" của nhà văn hoá nổi tiếng Hoàng Đạo Thuý (NXB Thời Đại-1943, NXB Lao Động tái bản 1995). (Còn trước cả ông, Đào Duy Anh đã dành một số dòng trong "Việt Nam Văn hoá Sử cương" (1938) để nhận xét về cái tật của người Việt). Trong tác phẩm này, sau khi nhắc đến những tấm gương của tổ tiên như Triệu Vua Bà, Lê Phán Quan, Lê Thái Tổ, Vua tôi nhà Trần, Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Võ Tánh, Lê Trực, Roãn Chi, Phạm Tử Nghi, Lê Như Học, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Nguyễn Công Trứ..., Hoàng Đạo Thuý viết:
"Xem qua từ nay về trước ta có thể tự hào là người Nam, những tình huống lúc này ta nên tự ngẫm nghĩ mà tự sỉ "Biết xấu hổ đã là gần bậc mạnh".
"Mình ta
Ta hãy xét mình ta.
Biết mình, biết người mới làm được việc.
Mình có cái hay gì?
Trí tuệ thì sáng nhanh.
Học tài lắm, sáng dạ ham học, trọng học thức.
Khéo tay chân.
Bắt chước khéo.
Nhớ lâu.
Lễ phép.
Trọng đạo đức.
Giữ được liêm sỉ ở khu vực mình.
Khí dân mạnh.
Yêu gia đình.
Quấn quýt làng mạc.
Dám làm.
Hay nhớ ơn.
Biết thương người.
Ưa hoà bình.
Trên chiến trường có can đảm, kỷ luật.
Cả giống nòi một tiếng nói (một ý chí - HT).
Đàn bà đảm đang, tiết nghĩa, cần kiệm.
Bền chí.
"Nhưng,
Cũng nhiều thói xấu lắm:
Trốn tránh trách nhiệm.
Hay quên nước (quên việc chung - HT).
Ra ngoài khu vực mình thì hay quên liêm sỉ.
Khoe khoang.
Dối trá quỷ quyệt.
Cờ bạc.
Không đúng giờ, đúng phân tấc.
Không rõ ràng.
Đến đâu hay đó, xong thì thôi.
Làm việc thì ham mê, ít vì chí muốn.
Bướng mà không quả quyết.
Không lương tâm.
Hay ghen ghét, không đồng lòng.
Rượu.
Thuốc phiện.
Không giữ mình.
Bài bác chế nhạo.
Xa hoa.
Thanh sắc.
Tham.
"Phần hỏng cơ hồ lấn phần được. Xem kỹ hai tấm sổ trên này, thì đức - công có nhiều, đức - tư có ít, khi thường thì tình thường thắng, khi biến thì những tính mạnh mẽ di truyền vẫn phát ra được. Cái cốt vẫn có, nếu chịu chữa chạy bỏ những cái ham muốn một lúc thì có thể mong mỏi (trông mong - HT) được".
Đó là những nhận xét vào thời điểm 1941-1943, nhưng nhiều điểm đến bây giờ vẫn còn ý nghĩa.
Ô, ta tự đóng cửa ngắm mình !
"Việt Nam không biết tự quảng bá, không biết tự dán nhãn hiệu cho mình" - Đại sứ Canada tại Việt Nam Richard Lecoq nói. Từ trước đến nay, chúng ta luôn tự khen Việt Nam rừng vàng biển bạc, tự khen... chính chúng ta thân thiện. Nhưng tại sao khách du lịch vẫn ùn ùn đổ về Thái Lan, Malaysia, Indonesia... mà không hào hứng ghé thăm quốc gia Việt Nam nằm cận kề ngay đó - nơi vẫn được người Việt tự hào là "hòn ngọc Viễn Đông"?