Gần đây, chứng kiến những bước tiến mạnh mẽ của Trung Hoa trên trường quốc tế, lại thấy dư luận hâm nóng một cuốn sách được xuất bản cách đây hai thập kỷ. Đó là cuốn Người Trung Hoa xấu xí của Bá Dương.
Dường như có sự liên tưởng giữa sự dũng cảm nhận ra những yếu kém sẽ mang lại sức vươn lên mạnh mẽ cho một dân tộc. Trước cuốn sách của Trung Hoa, thì nước Pháp, nước Mỹ, nước Nhật Bản đều từng có những cuốn sách tương tự, nhận mình là xấu xí... Còn người Việt, một "Người Việt xấu xí"- tại sao chúng ta không bàn đến? Chúng tôi mời nhà sử học Dương Trung Quốc, nhà phê bình Vương Trí Nhàn và tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng cùng bàn về vấn đề này.
Phóng viên: Vì sao chúng ta đã có một "Người Việt cao quý" mà mãi gần đây mới đề cập đến khía cạnh ngược lại?
- Ông Dương Trung Quốc: Một công bố gần đây của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn lục tìm trong sách báo cũ cho thấy, người Việt Nam ta đâu phải không biết tự phán. Ngay trong thời cận đại cũng từng có hai nhà chính trị, cũng đáng là hai nhân vật lịch sử quan trọng đã tự tay viết sách tự phê bình đường lối chính trị của mình. Tác giả Tự phán là nhà ái quốc nổi tiếng Phan Bội Châu, còn Tự chỉ trích là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương Nguyễn Văn Cừ...
Nhưng tự phán và tự trào tính cách của dân tộc thì phải nói đến một nhân vật nổi danh trên trường văn học và báo chí là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) ở đầu thế kỷ 20 mà năm nay chúng ta sẽ kỷ niệm 70 năm ngày mất của ông. Như vậy là việc dám nhìn vào gương để tự soi mình, vạch ra những thói hư tật xấu để phê phán và khắc phục đâu phải là chưa từng có ở ta. Tự phê phán đã từng được coi là một vũ khí để tu thân... Vấn đề hình như ở chỗ khác!
Khác ở chỗ nào, thưa nhà sử học Dương Trung Quốc?
- Tôi nhớ đến một cách quảng cáo của một bà chủ cửa hàng tiên phong trong việc mở mỹ viện tại Hà Nội: "Không có người đàn bà xấu, chỉ có người đàn bà chưa biết cách làm đẹp". Một con người đã vậy, với một dân tộc có vậy không?
Khi nói về biểu tượng "con cá gỗ" gắn với một xứ sở nổi tiếng nghèo nhưng cũng nổi tiếng có học ở miền Trung, cái biểu tượng ấy có thể gắn với tính bủn xỉn, keo kiệt ở người này nhưng lại là tính hiếu học, ý chí phấn đấu vượt khó ở người khác...
Vì vậy khi nói về một sự khác biệt trong tính cách của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, ta có thể nói về một số tính trội hay những tiềm năng mang các khuynh hướng khác nhau chứ không nên hiểu như những hằng số phản ánh một tính cách tuyệt đối, bất di bất dịch.
Trong sách du ký Hành trình Xứ Đàng Trong năm 1621 của cố đạo Alexandre de Rhodes có thuật lại trải nghiệm của một thương nhân Bồ Đào Nha. Ông ta đến Đàng Trong (vùng Hội An) và được nhiều người nước ngoài khác cảnh báo về một thói xấu của người bản địa là hay xin xỏ. Rằng người Đàng Trong rất chuộng của lạ, thấy ai có cái gì cũng ngỏ lời "Xin một cái", do vậy ai có gì thì chớ để lộ ra kẻo họ lại xin. Sự việc diễn ra đúng như vậy. Nhưng một lần, ông thương gia này quyết định thử xem có đúng hoàn toàn như vậy không, bèn đến một gia đình thuyền chài nghèo và để tay lên cái rổ đầy cá rồi nói bằng tiếng bản địa "Xin một cái!". Điều bất ngờ là người thuyền chài chẳng nói chẳng rằng đưa luôn cả cái rổ cá cho người ngỏ lời xin mặc dùcó thể đó là cả bữa ăn của gia đình mình. Thế là ông thương gia người Bồ lại phát hiện một tính cách đối lập với những thiên kiến về người Đàng Trong...
Còn hiện nay thì sao?
- Ông Vương Trí Nhàn: Về chuyện ngại ngùng thì không phải nói nhiều. Sự thực là khi bắt tay vào công việc tìm hiểu người Việt xấu xí, bọn tôi nhìn chung quanh đã thấy nản lòng. Có người bảo thiếu gì việc cần làm sao lại đi vào bới lông tìm vết thế này. Có cả những người rất tốt cũng nói rằng không nên làm. Nói chung mọi người nhìn mình hình như không được thiện cảm lắm. Đôi lúc chúng tôi cảm thấy hình như mình có lỗi.
Tuy nhiên, gần đây tình hình có khá hơn, dân tình thông cảm hơn và đề tài càng ngày càng được mọi người cho là cần thiết. Tôi nghĩ đây là mình làm một việc không người này làm thì người khác phải làm.
Tại sao lại nảy sinh cái tâm lý ngại ngùng này và nó bắt rễ sâu vào lòng người như vậy?
- Ông Vương Trí Nhàn: Có thể có nhiều lý do. Trước tiên phải thông cảm với nhau, đây kể ra cũng là một nét tâm lý thông thường của con người. Nhà văn Triệu Bôn có lần kể với tôi: Nguyễn Minh Châu viết một truyện hơi yếu, Triệu Bôn viết bài chê và nhận ra ngay là ông Châu giận, không muốn nhìn mặt người phê mình nữa. Tới buổi hai người gặp nhau trong nhà tắm (trước năm 1975, tòa soạn Văn Nghệ Quân Đội chỉ có một căn phòng tắm chung, đặt bên cạnh cái bể to). Triệu Bôn bảo: "Chẳng nhẽ tôi nói thế không đúng sao?". Nguyễn Minh Châu mới thủng thẳng trả lời: "Đúng, nhưng người bị đòn đau bỏ mẹ, ai mà chịu nổi!".
Đấy, với một cá nhân là thế, với cả xã hội lại càng như thế. Tản Đà từng đúc kết: "Dân hăm lăm triệu ai người lớn - Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con".
- Ông Dương Trung Quốc: Từ những câu chuyện về bà chủ thẩm mỹ viện và thương nhân Bồ Đào Nha, suy cho rộng ra thì phải trở về cái nguyên lý "nhân chi sơ, tính bản thiện". Những cái xấu,những cái đi ngược lại với thiện tính của con người không thuộc về tính cách của một dân tộc mà chủ yếu chỉ là biểu hiện của những con người trong những hoàn cảnh cụ thể đã để mất cái thiện căn của mình. Biết nhận thức cái xấu, biết tự phê phán là thái độ khôn ngoan không chỉ với một cá nhân, một cộng đồng hay một dân tộc. Và đó cũng là ý niệm cốt lõi của hai chữ "giáo dục" như bài thơ Nửa đêm (Dạ bán) của Cụ Hồ:
"Ngủ thời ai cũng hiền lương
Tỉnh ra mới rạch hai phương dữ lành
Dữ lành bá tánh trời sanh
Thường do giáo dục mà thành thói quen"
(Bản dịch của Quách Tấn)
Đâu là thói xấu đáng sợ nhất?
- Ông Vương Trí Nhàn: Xét trong lịch sử, sự ngần ngại nói trên là một tâm lý hình thành từ lâu. Dân gian ai cũng thuộc cái câu: Tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại. Trong thâm tâm ta thừa biết mình không thiếu gì thói xấu. Song ta nhát, không muốn nhìn thẳng vào bản thân. Cái gì bê bối chỉ tính chuyện giấu nhẹm chứ không muốn giải quyết. Bởi bận bịu, mệt mỏi. Bởi quen dễ dãi với mình, không có nhu cầu hướng thượng, không cần đạt tới trình độ hoàn hảo. Sau hết bởi cảm thấy hình như không bao giờ giải quyết nổi. Tức là có phần tự ti nằm rất sâu trong ta mà ta không biết. Tự ti trong lòng, tự tôn ngoài miệng, cả hai đều thâm căn cố đế!
- Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Có ai đó trong số những người ngoại quốc đã từng nhận xét: "Một người Việt thì hơn một người Nhật. Hai người Việt thì khó lòng hơn hai người Nhật. Ba người Việt thì chắc chắn thua ba người Nhật". Đây có lẽ là một lời khen để chê cho dễ. Bởi vì rằng có bao giờ người Việt chúng ta sống riêng rẽ từng người một như Rôbinxơn Cruzô trên hoang đảo đâu. Hơn thế nữa, chúng ta lại rất chuộng tinh thần tập thể. Mà tập thể thì ba người chỉ là con số tối thiểu. Và nghĩa là, chúng ta chẳng có mấy cơ hội để cạnh tranh với người Nhật cả.
Việc một người Việt có hơn một người Nhật hay không là chuyện còn phải bàn. Thế nhưng, việc "tam nhân bất đồng hành" giữa ba người Việt thì không khéo là chuyện có thật. Điều này xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả những đặc tính nằm trong "gien" di truyền văn hóa của người Việt chúng ta.
Tuy nhiên, "tự ti trong lòng, tự tôn ngoài miệng" cũng đã từng phát huy tác dụng trong quá khứ?
- Ông Vương Trí Nhàn: Vả chăng, đối với một dân tộc, khả năng biết nói về mình một cách chính xác phụ thuộc rất nhiều vào khâu tiếp xúc với nước ngoài. Mà ở ta thì lịch sử đối ngoại quá nặng nề. Sống với những người hàng xóm mạnh, việc giữ nước đặt ra cái nhu cầu tâm lý phải khẳng định mình, phải khẳng định cái sự có quyền tồn tại của mình. Nói quá nhiều đến cái dở của mình có khi không còn sức mà đánh giặc.
Ngay cả sau chiến tranh, bước vào làm ăn kinh tế và thực thà muốn làm bạn với mọi nước trên thế giới, như những ngày này, thì cũng không dễ để sòng phẳng ngay được. Ta ở vào thế xuất phát quá kém. Thậm chí có người nghĩ mình không bao giờ đuổi kịp người. Vậy phải động viên nhau, nhấn mạnh cái phần thuận lợi vốn có cùng nhau. Sự lảng tránh khuyết tật giống như một nhu cầu tự vệ.
- Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Trước hết, đó là cái tâm lý "Trúc xinh trúc mọc đầu đình. Em xinh em đứng một mình cũng xinh". Kiểu gì thì kiểu, cứ đứng một mình mới xinh. Như những cây "trúc" riêng rẽ, người Việt chúng ta thật sự có những phẩm chất trí tuệ khá cao siêu. Cứ nhìn vào những giải thưởng quốc tế mà người Việt giành được trong các kỳ thi olympic quốc tế về toán, lý, hóa... thì chúng ta sẽ rõ. Thế nhưng cứ gom những cây "trúc xinh" này lại với nhau thì chúng ta sẽ có cả một khóm trúc mịt mùng, rối rắm: Mọi lý lẽ,mọi cố gắng đều bị vô hiệu hóa trong sự bùng nhùng của các mối quan hệ.
Cha ông ta đã từng dạy "Xấu đều hơn tốt lỏi". Khổ nỗi không hợp tác được với nhau thì "xấu" cũng rất khó mà đều. Thực ra, nói người Việt chúng ta không hợp tác được với nhau là chưa thật hoàn toàn chính xác. Chúng ta đã từng hợp tác được với nhau rất chặt chẽ trong chiến tranh. Càng bom rơi, đạn nổ, người Việt càng cố kết chặt chẽ với nhau hơn. Rất tiếc, sự hợp tác như vậy chưa chuyển giao được cho sự nghiệp xây dựng hòa bình.
Thói xấu đáng sợ nhất vẫn là sợ không dám nhìn thẳng vào những thói xấu có thực của mình. Nó là thói xấu mẹ có khả năng đẻ và nuôi dưỡng mọi thói xấu kinh khủng khác?
- Ông Vương Trí Nhàn: Người Trung Quốc xấu xí được nói nhiều nơi chứ không chỉ trong sách Bá Dương. Có lần qua tiếng Nga tôi thấy nói một nhà xuất bản ở London có chủ trương cả một xê-ri sách người mỗi dân tộc tự viết về thói xấu của mình, riêng hai bản tiếng Anh và tiếng Nga cuốn Những người Nga kỳ cục cùng lúc được phát hành ở London và Moskva. Sách người Anh người Mỹ tự nói về tật xấu của mình càng nhiều. Vậy thì tại sao ta không tìm để dịch?
Nghĩ kỹ thì thấy chính nhu cầu chung sống với mọi người, bạn bè với mọi dân tộc trên thế giới lại đang đòi hỏi chúng ta tỉnh táo nhìn lại mình. Xưa các cụ có thể theo chính sách "nội đế ngoại vương", đưa vua giả đi triều cống. Thời đại hiện nay không thể tính chuyện khôn vặt như trước được nữa. Làm ăn muốn lâu dài phải sòng phẳng. Ngay đối với quá khứ cũng phải sòng phẳng. Do kém nên phải học, không có gì là ngượng nếu ham học hỏi. Chỉ không chịu học không biết học và chưa học đã lên mặt thành thạo mới đáng xấu hổ.
- Ông Dương Trung Quốc: Khi còn bỉnh bút cho tờ báo quốc ngữ ra đời sớm nhất ở Bắc Kỳ Đăng cổ tùng báo, Nguyễn Văn Vĩnh dưới bút danh giả nữ là Đào Thị Loan, ông đã viết những bài phê phán về tục đốt vàng mã, thói hư danh, nạn cờ bạc... Đến khi trở thành chủ bút tờ Đông Dương Tạp chí trong 2 năm 1913 và 1914, ông mở một chuyên mục lấy tên là "Xét tật mình" lấy cảm hứng từ một câu của văn hào Pháp Emile Zola: "Nói hết, để biết hết, để chữa hết" (Tout dire pour tout connaitre, pour tout guérir) và giải thích thêm rằng: "Các nết xấu, các hủ tục của người Việt Nam ta, cần nói hết ra, đừng có giấu giếm, ai cũng biết thì mới sửa được. Luân lý là phải dạy người ta biết gốc rễ điều ác để tự nguyện tránh, mầm mống điều thiện để tự giác làm điều thiện".
Người Việt có "văn hoá đọc" ?
Unesco lấy ngày 23/4 hàng năm làm ngày sách và bản quyền thế giới để khuyến khích sự đọc sách. Nhìn lại tình hình sách in quá khiêm tốn của chúng ta hiện nay, người thì cho là lỗi của xã hội thờ ơ với sách, người thì gán tội cho người viết không thể sáng tạo ra những đứa con tinh thần xinh đẹp để người đọc phải đổ xô đi tìm, người thì đổ lỗi cho sự bành trướng của báo trí, truyền hình, Internet...
Dù Nho giáo không con nữa nhưng "ảnh hưởng của Nho giáo ở phương diện tư duy, ở phương pháp tư tưởng thì còn lâu mới gột hết được, không chỉ bởi Nho giáo không được cùng sinh với chế độ phong kiến nên không cùng chết với nó mà kiểu tư duy Nho giáo đã đi vào vô thức" người Việt.
Quả thật với dân số hơn 80 triệu đã được xoá nạn mù chữ, đang tiến tới phổ cập PTTH mà mỗi đầu sách chỉ in từ 1.000 - 1.500 cuốn mà bán lẹt đẹt mãi không hết thì chúng ta phải đặt câu hỏi. Nhưng nói rằng tại sách không hay nên bán không chạy thì e rằng không thoả đáng, vì thực tế trong những năm qua có những cuốn sách viết tương đối được, hay những truyện dịch từng nổi tiếng ở nước ngoài mà bán vẫn ì xèo thì đâu phải tại tác giả hay tại sách, nói rằng do truyền hình, Intemet... thì tại sao các nước phát triển những thứ đó họ có trước ta tới ¼ thế kỷ mà số lượng sách trung bình xuất bản vẫn hàng vạn.
Theo tôi để trả lời một cách thấu đáo thì có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ quá khứ, từ lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc.
1. Người Việt trải qua hơn ngàn năm sống dưới chế độ quân chủ, nơi mà tất cả quyền lực đều tập trung vào tay nhà vua, nhà vua chỉ trao quyền cai trị dân chúng cho một số ít quan lại hay số người thi đậu ít ỏi qua các kỳ thi hương, thi hội, thi đình vốn là những kỳ thi năm thì mười hoạ hay vài ba năm mới diễn ra một lần. Và sự đọc sách thánh hiền thời đó của tầng lớp học trò, sĩ tử không chú trọng vào việc mở mang trí thức, mà cốt để thi đậu làm quan bởi quan niệm "một người làm quan cả họ được nhờ". Bởi vậy, học trò chỉ học cái thi cử cần. Dạy cũng chỉ dạy cái cần cho thi cử. Người học chỉ đọc những sách tóm tắt gọi là đại cương hoặc tất yếu chứ chưa bao giờ đọc chính văn hoặc toàn văn, học trò học thi theo các "bộ đề" thi (cũng được soạn thành sách) theo nội dung tối thiểu là thi thiên, phú bách, văn sách năm mươi (nghìn bài thơ, trăm bài phú và 50 bài văn sách). Bởi vậy người học trò Nho giáo nhớ nhiều mà nghe ít, không có sáng kiến, không có óc sáng tác (thuật nhi bất tác), họ sống lệ thuộc vào các khuôn mẫu tư tưởng, khuôn mẫu lý tưởng của người xưa. Chính từ "triết lý giáo dục" đó mà dù Nho giáo tồn tại hơn nghìn năm mà lớp lớp các sĩ tử người Việt không thể sản sinh những nhà tư tưởng, những nhà bác học hay các trường phái học thuật - bởi tất cả cái đó cần sự sáng tạo, phá cách, thoát ra khỏi cái khuôn mẫu như cái vòng kim cô chụp lên cái đầu học trò, sĩ tử người Việt. Mặt khác, tầng lớp học trò trong xã hội Việt cổ truyền không nhiều, hơn nữa vài ba năm mới có một kỳ thi và việc thi đậu làm quan là rất khó khăn.
Hàng nghìn sĩ tử lều chõng lên kinh chỉ vài ba người trong số đó chiếm được bảng vàng, nên việc gửi con đến trường, mong có ngày con thi đậu làm quan trong nhiều trường hợp đã trở nên thiếu thực tế giữa lúc nhu cầu ăn mặc thúc bách hàng ngày. Vì thế có một kẻ sĩ đọc sách trong nhà nhiều khi không phải là một vinh dự mà là gánh nặng, họ là kẻ "dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm" hoặc bị mang ra giễu cợt: "nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ".
Có thể nói "triết lý giáo dục" Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn tới "văn hoá đọc" của người Việt ngày nay. Vì nói như Ts. Đỗ Lai Thúy thì dù Nho giáo không còn nữa nhưng "ảnh hưởng của Nho giao ở phương diện tư duy, ở phương pháp tư tưởng thì còn lâu mới gột hết được, không chỉ bởi Nho giáo không cùng sinh với chế độ phong kiến nên không cùng chết với nó, mà kiểu tư duy Nho giáo đã đi vào vô thức, người Việt.
2. Không ai có thể phủ nhận tác động to lớn của nghề in đối với sự phát triển của nhân loại. Ở Trung Quốc vào thời cổ đại, sự xuất hiện của nghề làm giấy, nghề in được coi là bốn phát minh lớn. Ở Châu Âu vào thế kỷ XV, với phát minh ra máy in (1434) và một thứ mực cho phép in cả hai mặt giấy (1441), đặc biệt sự cải tiến của Gutenberg (1400 - 1468) từ con chữ in bằng gỗ sang con chữ in bằng kim loại đã tạo ra một cuộc cách mạng: xuất hiện ngành công nghiệp in. Và không phải ngẫu nhiên khi thế giới tôn vinh, coi Gutenberg là một trong mười nhân vật vĩ đại nhất của nhân loại từ xưa đến nay, còn phát minh của ông cũng là một trong những phát minh vĩ đại nhất trong sự phát triển của nhân loại. Tôi nói dông dài từ Á sang Âu để thấy vai trò và tác động của nghề in ấn tới sự phát triển của xã hội nói chung và sự đọc của con người nói riêng như thế nào. ở Việt Nam, sử chép: vào khoảng thế kỷ I đến thế kỷ III đã khắc in kinh Phật. Như vậy nghề in của ta đã có từ khá sớm.
Trong thời kỳ phong kiến, các cơ sở ấn loát của Nhà nước phong kiến chủ yếu in sách giáo dục (Tứ thư, Ngũ kinh), kinh Phật. Các sách về y học, các khoa học khác không được in nhiều nếu không muốn nói là rất ít Sang thế kỷ XVII, với sự hưng khởi của đô thị Việt Nam, kinh tế hàng hoá manh nha hình thành thì nghề in cũng xuất hiện những cơ sở tư nhân, ban đầu là một số quan lại, trí thức bỏ tiền ra khắc ván in sách như Lê Quý Đôn, Nguyễn Văn Siêu, Bùi Huy Bích, Cao Xuân Dục... song tiêu biểu nhất là phường in Liễu Chàng (Hải Dương có tuổi thọ 211 tuổi (1683 - 1904). Phường in này đã cho khắc in nhiều bộ sách quan trọng và có giá trị: năm 1967 khắc in Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1972 khắc in Truyền kỳ mạn lục, năm 1714 khắc in Nam được thần hiệu của Tuệ Tĩnh... không nghi ngờ gì nữa, chính sự ra đời của nghề khắc mộc bản in sách (tương truyền ông tổ là Lương Như Hộc) và sự phát triển của các cơ sở in tư nhân đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá tri thức và thúc đẩy "văn hóa đọc" của dân tộc. Đến nay tất cả những sách Hán Nôm chúng ta có được đều được in vào giai đoạn này. Tuy nhiên,do việc in ấn phức tạp, hơn nữa triều đình lại phong toả nghiêm ngặt (ví dụ, năm 1718 Trịnh Cương cấm nhân dân chứa các ván in sách và sách in) nên nghề in của nước ta kém phát triển. Do vậy mà lượng sách Hán Nôm được lưu hành chưa đầy 30% mà chủ yếu ở tầng lớp quan lại, học trò, thầy đồ - một bộ phận rất nhỏ trong xã hội Việt truyền thống. Còn 70% số sách còn lại là chép tay của ai người nấy giữ. Số liệu trên không nói ai cũng rõ, tỷ lệ người biết chữ trong xã hội phong kiến rất ít và trong số ít của ít đó ai có điều kiện đọc được 30% số sách lưu hành kia?
Cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp, Ngành in Châu Âu cũng được du nhập vào Việt Nam, khai tử nghề in, nghề làm giấy cổ truyền. Và để cai trị được bền vững, thực dân Pháp ra sức áp dụng chính sách ngu dân. Trường học chỉ dành cho một số nhỏ con cái Pháp kiều và những người trung thành với chế độ. Việt ngữ bị giới hạn, Pháp ngữ được dùng làm ngôn ngữ chính thống trong chương trình giảng dạy. Người đi học thời kỳ này thường nhằm vào mục đích làm việc cho Pháp để vinh thân phì gia.
Đối với người Pháp, chúng ta không thể phủ nhận một phần công lao quan trọng của họ trong việc tạo dựng chữ quốc ngữ, nhưng phải hiểu sự tạo dựng này không phải nhắm vào việc nâng cao dân trí mà với mục đích truyền giáo, thâm độc hơn là nâng cao chữ quốc ngữ để chữ nho mai một dần, giảm bớt sự chống đối của người Việt với chính quyền thực dân. Bởi sách chữ nho dạy con người ta biết trung, hiếu, tiết, nghĩa, trong đó chữ trưng gợi lên lòng yêu nước. Vì lẽ đó năm 1900 thực dân Pháp sửa chương trình thi cử, bên cạnh chữ Pháp, tăng chữ quốc ngữ, bỏ bớt chữ nho khiến nhà thơ Trần Tế Xương phải than trong bài "Than đạo học":
Đạo học ngày nay đã hỏng rồi
Mười người đi học, chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi...
Sản phẩm của chế độ thực dân, phong kiến là đến năm 1945 dân ta hơn 95% mù chữ, vậy văn hoá đọc lấy đất đâu để phát triển.
Sau hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, với suốt đời của một hệ thống ngành xuất bản, nhưng văn hoá đọc của người Việt có thay đổi hay không? Tôi nghĩ câu trả lời không khó. Cứ nhìn vào tầng lớp sinh viên, học sinh hiện nay thì có câu trả lời khá chuẩn xác: Họ đọc không gì ngoài mấy cuốn giáo trình từ những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, rất ít người chịu khó đọc thêm sách tham khảo, mở rộng kiến thức. Họ vẫn chỉ học những gì họ thi và người dạy vẫn dạy những gì có trong giáo trình.
Dông dài, lang thang trong lịch sử tôi chỉ muốn nhìn thấy cái nguyên nhân bắt rễ từ truyền thống hiếu học chứ không hiếu đọc của nhân dân chúng ta, để có một giải pháp mang tính chiều sâu gây dựng nhu cầu đọc, nâng cao dân trí của người Việt.