Một tờ báo kể rằng có một Việt kiều khá thành đạt ở nước ngoài, trở về nước để tìm kiếm cơ hội đầu tư, chỉ nhận được sự đón tiếp lạnh nhạt lẫn thái độ ngờ vực của người trong nước. Anh trở ra nước ngoài, thành lập một Công ty, giữ chức Chủ tịch hội đồng quản trị và thuê một người nước Sở tại làm giám đốc, rồi cùng với người này trở lại Việt Nam. Lần này, đoàn đại biểu của Công ty được đón tiếp rất trọng thị.
Nếu đúng là có một vụ phân biệt đối xử như mô tả trong bài báo, thì tôi không hề ngạc nhiên. Tôi đã chứng kiến việc đó ở nhiều nơi: trên máy bay, trong nhà hàng, khách sạn, tại các khu du lịch... Nói chung, trong nhiều trường họp mà một người Việt và một người nước ngoài cùng thực hiện một giao dịch, thì người nước ngoài thường được phía đối tác Việt dành cho sự chăm sóc tận tình, chu đáo hơn. Thái độ coi thường của người Việt đối với người Việt là một trong những nguyên nhân chính khiến cho người Việt, khi giao tiếp với nhau trong điều kiện không quen biết trước, thường không có thái độ chinh phục, chan hoà, cởi mở, mà chỉ có thái độ phòng ngự, đối phó, dè chừng.
Những cú va đập: hậu quả của sự nông cạn.
Trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày, người trở về cố chú ý thể hiện các quy tắc, lề thói của cuộc sống văn minh trước mặt người trong nước, từ cách đi đứng, ăn mặc, nói chuyện... Mỗi khi thấy điều gì không hài lòng, người trở về phê phán bằng cách tiến hành so sánh giữa cuộc sống ở nước ngoài và cuộc sống ở trong nước, tất nhiên, trong sự so sánh ấy, cuộc sống trong nước giữ vai trò mặt phản diện. Với thái độ ấy, người trở vè dễ bị coi là kẻ lai căng, hợm hĩnh.
Trong công việc, người trở về nước mong muốn thay đổi nhũng cái đang có trong nước bằng cách giới thiệu và áp dụng những điều mình biết được, học được ở nước ngoài, đề xây đựng cái mới. Người trở về sẽ bị coi là kẻ cấp tiến và vô ơn một khi tỏ thái độ coi thường những cái đang có và thể hiện nỗi khao khát đổi mới một cách quá mức cần thiết.