Tiểu sử, Hồi ký
Tác giả: Lê Văn Kỳ

Truyền Thuyết Thiên Hộ Dương & Đốc Binh Kiều

Chương 9: RẮN THẦN TRỢ LỰC THIÊN HỘ DƯƠNG

Tổng hành dinh của nghĩa quân Đồng Tháp dưới quyền chỉ huy của Thiên hộ Võ Duy Dương đặt tại Gò Tháp, từ ngoài vào chỉ có ba con đường mòn: một từ Gò Bắc Chiên (Mộc Hoá) đi xuống, một từ Cái Nứa (Cái Bè) đi tới và một từ rạch Cần Lố đi vô.

Tại vàm Cần Lố, có một cái doi nằm chắn ngang hai ngã nước sông Cửu Long; một đổ vô sông Con chảy về Cao Lãnh, một chạy vô Rạch Miễu. Nơi đây nghĩa quân Đồng Tháp, xây một cái đồn khá kiên cố gọi là đồn Doi, án ngữ giặc Pháp tiến quân từ mặt sông Tiền.

Địa thế đồn này rất hiểm: Cây cối sầm uất với nhiều cây me cổ thụ (vì thế doi nầy còn gọi là Doi Me) ba mặt là sông nước. Tại đây bố trí một khẩu đại bác mà dân chúng thường gọi là “ông Cà Lăm”. Nhờ thế, mà sau ba năm tử thủ, hai bộ tướng của Thiên hộ Dương là Huỳnh Lục, Huỳnh Thất đã cầm được quân giặc và bảo đảm con đường áp tải quan trọng nhất trong ba con đường vào tổng hành dinh mà tục gọi là đường “gạo” từ vàm Cần Lố đến Gò Tháp.

Việc áp tải có khi sử dụng bằng ghe từ rạch Trà Cú Thượng đến rạch Trà Cú Hạ, qua kinh Phước, tức vô vàm Xoài Hột, đêm nào cũng có đoàn ghe áp tải về Tổng hành dinh. Từ các sông rạch nầy đêm đêm vang lên câu hát, tiếng hò đậm tình yêu nước:

Non nước tan tành ngủ mãi sao?

Vội vã dân làng thà dẹp cuốc

Trong lòng đã rộn ánh binh đao.

Hoặc là:

Đã nghe sắc lửa âm thầm dậy

Tiếng gọi từ xa thúc giục hoài

Há chịu làm thân trâu ngựa mãi

Chim lồng sao hót tiếng bi ai?

Bằng đường bộ thì dùng xe trâu đi trên ba con đường mòn nói trên. Đồng Tháp Mười hồi đó toàn là rừng đế, tràm, sậy, cỏ, năn, lác… ngoài mấy cái nhà làm trạm nghỉ chân của các đoàn áp tải, không có một bóng nhà của dân chúng, tất cả đều tập trung trong Gò Tháp, chung quanh Tổng hành dinh của Thiên hộ Dương.

Thường thường hàng tuần, có ba chuyến vận tải về bằng ba ngã, nhưng phần lớn lương thực, súng ống, đạn dược từ đồn Doi tiếp tế nhiều hơn.

Mỗi lần đoàn áp tải đi thì gia đình nghĩa quân tháp tùng theo để mua sắm.

Từ đồn Doi vô đến Tổng hành dinh, theo đường mòn đến một giồng gọi là Giồng Cát, còn gọi là Động Cát, nơi đó có một trạm dừng chân cho đoàn áp tải nghỉ ngơi và cũng làm trạm gác. Một ngày kia, dân chúng ở vùng ngoài vô cất vài cái nhà bên cạnh trạm để ở. Trong đó có hai nhà sống sung túc có vẻ khác thường.

Thình lình, một đêm nọ, hai gia đình ấy, cùng một nghĩa quân của trạm với số người trong đoàn áp tải, sau bữa cơm chiều, ngủ qua một đêm tới sáng đều chết hết. Mãi khi xác gần sình, mới có người báo cho Thiên Hộ hay. Ông liền phái ông Thủ Chiếu là lương y về thuốc rắn đến điều tra.

Khám nghiệm các tử thi, ông chẳng tìm được nguyên do nào cả. Ông chỉ ước đoán họ chết vì thuốc độc. Bí mật của vụ án chưa được khám phá, thì có tin mật báo từ đồn Doi cho Thiên Hộ biết rằng: đoàn áp tải đã nhiều lần trao tin tức cho người mang đến cho tay sai của Pháp ở Cao Lãnh là Phạm Văn Khanh về tình hình của nghĩa quân. Ông hay được thì bọn đó đã chết rồi. Cùng lúc đó cũng có tin cho hay: Hai gia đình cất nhà gần trạm gác ở Động Cát là người của bọn Pháp tổ chức để nắm tình hình của nghĩa quân.

Thiên hộ Dương đích thân đến Động Cát để quan sát và đã tìm ra được một cái hang rắn, miệng lớn bằng cái lu. Ông bèn ra lệnh cho ông hộ vệ Tân, cũng là thầy rắn đại tài, bắt đàn rắn ấy.

Ông tới xem qua hang rắn, trình rằng dưới hang có con rắn chúa sáu khoan, trước kia lớn lắm, nay còn bằng cây đủa ăn, dài trên một thước tây, ban đêm chỉ ló ra ngoài năm khoan để hứng hơi sương, chớ không bao giờ bò ra ngoài. Rắn không cắn ai, nhưng ai quyết hại nó, thì nó cắn, khi bị nó cắn thì không có thuốc gì cứu được.

Hang rắn được Thiên hộ để yên.

Sau đó ít lâu, vào một buổi chiều, đồn Doi bị giặc Pháp tấn công, quân ta chống trả quyết liệt, nhưng cuối cùng vì quân giặc qua mạnh, quân ta phải rút lui về Động Cát, rồi về Gò Tháp.

Quân Pháp đuổi đến Động Cát thì trời đã tối, bèn hạ trại nghỉ ngơi, định sáng sẽ tiến vào. Không ngờ đến đó quân Pháp chết hơn chục mạng. Gặp phải sự chết chóc lạ thường mà chúng không hiểu lý do nên chúng đành rút trở ra, không dám tiến quân vô Gò Tháp. Trong lúc đó dân chúng có tin đồn rằng Thiên hộ Dương dùng đạo quân rắn thần để đẩy lùi quân giặc ra khỏi Động Cát. Bọn Pháp nghe vậy, lại càng hoang mang lo sợ, nên bỏ luôn đồn Doi Me rút về Cao Lãnh.

Quân ta trở lại đây xây dựng đồn Doi lại như cũ.

Ít lâu sau, chúng lại tấn công đồn nầy nữa, ta rút lui, chúng đuổi theo và cũng đến Động Cát thì dừng chân lại để nghỉ đêm. Đêm ấy trong đám quân giặc, nhiều tên đang ngủ bổng la lên rồi chết, chúng không dám ngủ phải thức canh gác suốt đêm. Đến sáng chúng phát giác ra được cái hang rắn. Tên chỉ huy ra lệnh đổ dầu đốt hang.

Trong lúc khói lửa mịt mù, bỗng có tiếng ào ào như giông gió nổi lên, từ phía rừng một con rắn hổ mây bề tròn bằng miệng thúng tiến tới như vũ bão, lăn xả vào lửa há họng nhe răng, đập đuôi làm dữ.

Quân giặc hoảng hồn, bỏ chạy tán loạn tên chỉ huy không can đảm gì hơn, vắt giò lên cổ mà chạy, càn bừa trong rừng lau sậy.

Trong lúc chúng tranh nhau chạy chết, Thiên hộ Dương ra lệnh ông Huấn Hiệu mang quân đến tấn công bất ngờ. Quân giặc không còn lòng dạ nào chiến đấu, lớp bị giết, lớp bị thương, lớp bị bắt… Nghĩa quân toàn thắng, thu được nhiều chiến lợi phẩm và cũng giết được tên chỉ huy.

Bọn còn sống sót, càn rừng lướt bụi, chạy về đến đồn Doi, bị dân chúng nổi dậy bắt đem nộp cho ông Huấn Hiệu.

Sau trận đó thế lực nghĩa quân Đồng Tháp mạnh hẳn lên và trở lại chiếm đồn Doi như cũ.

Thế là “đạo binh rắn” đã giúp Thiên hộ Dương ba lần đánh lui được giặc Pháp. Nhưng biết đâu, đó chẳng phải là mưu lược của vị tướng lãnh kháng chiến tài ba, để tăng uy tín và thế lực cho nghĩa quân chiến đấu vì độc lập dân tộc.

Hết Chương 9: RẮN THẦN TRỢ LỰC THIÊN HỘ DƯƠNG
Thông tin sách