Tiểu sử, Hồi ký
Tác giả: Nguyên Hùng

Nam Bộ - Nghững Nhân Vật Một Thời Vang Bóng

Chương 9: NGUYỄN VĂN TRÂN NGUỜI CẢM HÓA GIANG HỒ BÌNH XUYÊN

Ông Nguyễn Văn Trân sinh năm 1908 tại Bình Đăng, sang Pháp học năm 1923 lúc 15 tuổi. Ông chuyển sang học nghề khi lên Paris và được Đảng cộng sản Pháp giới thiệu sang Nga học trường Staline(1927-1930).

Về nước ông hoạt động bí mật và bị lộ năm 1933. Ông bị quản thúc tại gia nhưng vẫn tiếp tục hoạt động như đi bán dầu cù là với chí sĩ Nguyễn An Ninh. Ông phụ trách nhóm giang hồ Bình Xuyên của thầy nghề võ Nguyễn Văn Mạnh (Tám Mạnh) đưa nhóm này tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa và Nam Bộ kháng chiến.

Cậu học sinh Nguyễn Văn Trân mơ sang Pháp học, cậu xin mẹ tiền. Mẹ không có đủ, phải xin bà con mỗi người một ít. Tổng cộng được 118 đồng. Trân đưa cho ông Vân, thủy thủ tàu Porthos một trăm, còn lại sắm bộ đồ tây trắng. Trân xuống tàu Porthos vào tháng 7.1923, lúc 15 tuổi.

Trân sang Pháp đúng mùa hè nhưng thấy lạnh, phải hỏi mượn chăn bác Vân quấn cho ấm. Điều lạ lung là đầu tiên, Trân thấy trên nước Pháp, dân nghèo cùng cực, phải moi thùng rác kiếm bánh mì hoặc vớt bánh mì trôi trên sông, vắt nước rồi chia nhau ăn. Thì ra dân Tây ở nước họ cũng nghèo khổ như dân mình.

Ông Vân giới thiệu Trân với nhóm Việt kiều ở Marsreille. Họ đưa Trân về Aix-en-provence, giới thiệu học trường trung học Mignet. Nội trú ba tháng là 1.500 quan (một đồng Đông Dương ăn 27 quan).

Tại đây, Trân quen với anh Nguyễn Văn Tạo; anh Phấn, cháu ông Võ Công Tồn ở Gò Đen; anh Trần Văn Hiển, con ông hương trưởng Hoài. Năm thứ ba. Trân xin học nghề.

Anh bắt đầu đọc báo Humanité và nghe diễn thuyết về chính trị, gia nhập Hội Cứu tế đỏ.

Lần đầu tiên Trân tham gia cuộc biểu tình chống Đốc phủ Vịnh lại Marseille. Vịnh là tay thân Pháp, sang Tây ký kết cho Pháp gia hạn quyền cai trị ở Việt Nam. Cuộc biểu tình này do Hiệp Hội bồi tàu tổ chức. Khi Vịnh tới bến tàu, nhạc Tây trỗi lên inh ỏi. Vịnh mặc áo dài, khăn be, ngực đầy mề đai đỏ rực. Một người Pháp chạy tới thoi vàomặt Vịnh.Dân chúng la ó vang rần. Lập tức người Pháp này bị bắt. Báo chí loan tin ngay. Đảng Cộng sản Pháp từ Paris xuống với các luật sư lấy tư liệu để biện bộ cho người này. Ba tháng sau, tòa đem ra xử. Luật sư cãi cho anh trắn gán. Dân chúng vỗ tay hoan hô vang dội pháp đình.

Năm 1925,Trân tham gia thanh niên cộng sản Pháp bán báo Humanité, báo Paria. Những người lãnh đạo nhóm sinh viên Việt Nam có các ông Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, trạng sư Trịnh Đình Thảo, Võ Văn Lúa giành chức Chủ hội Học sinh Việt Nam với ông Trịnh Đình Thảo, bị đả đảo dữ dội. (Sau này giáo sư Lúa theo Tây, làm thông dịch cho phái đoàn Pháp tại Hội nghị Đà Lạt năm 1946). Năm 1927, kinh tế khủng hoảng lúa rẻ như bèo, gia đình gửi thư qua cho biết không có tiền cho Trân đóng học phí. Trân không về nước như gia đình gợi ý mà tiếp tục học ở Pháp, vừa học vừa kiếm việc làm. Trân lên Paris học vô tuyến điện và học vẽ. Đêm đi rải truyền đơn Đảng Cộng sản Pháp. Có lần phân phát truyền đơn vào giờ tan sở, các công nhân ra về, Trân bị cảnh sát bắt nhốt mấy tiếng đồng hồ.

Do hoạt động tích cực, Trân được kết nạp vô Đảng Cộng sản Pháp và thời gian sau, được giới thiệu sang Nga học trường Đại học Staline. Chuyến đi bí mật có nhiều tình tiết ly kỳ gấp trăm lần chuyến đi chui từ Sài Gòn qua Marseille mấy năm trước.

Trước tiên, anh Hoàng đưa Trân tới sứ quán Liên Xô làm hộ chiếu.

Giấy đề tên Trung Hoa ở Vân Nam. Trân phải học thuộc tên suốt thời gian sang Nga. Đúng vào lúc đó, ông Nguyễn An Ninh sang Pháp lần thứ hai, ghé báo Việt Nam Hồn Phục Quốc của Nguyễn Thế Truyền. Biết Trân sang Nga mà ít tiền, ông Ninh cho thêm 500 quan.

Hai anh Hoàng và Hiển đưa Trân tới ga. Ngồi trên tàu, Trân đóng vai công tử Vân Nam học vẽ, nay về quê. Tới bữa, có người mang cơm tới, Trân cứ việc ăn, hỏi trả tiền thì người đó cười, khoát tay. Tới Berlin, đã có người đón tại sở phiên dịch kế nhà ga. Ở Berlin vài ngày, Trân được đưa sang Ba Lan. Tại thủ đô Varsovie, Trân gặp phái đoàn Đảng Cộng sản Pháp qua Nga dự lễ Cách Mạng Tháng Mười , họ được lệnh cho Trân nhập đoàn dự lễ trước khi vô trường học.

Phái đoàn Pháp, trong đó có Trân, được Nga đón tiếp long trọng. Một kỷ.niệm khó quên là trong dịp này, Trân được Ban tổ chức yêu cầu phát biểu vắn tắt về Việt Nam với Cách Mạng Tháng Mười. Hàng ngàn người dán mắt vào Trân đang ngồi trên bàn chủ tịch đoàn. Cố trấn tĩnh, Trân nói mấy câu tiếng Việt để được dịch ra tiếng Nga: "Tôi là người Việt Nam, là dân mất nước, bị áp bức bóc lột. Chúng tôi được Đảng Cộng sản Pháp cử đến dự lễ kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười năm thứ mười. Tôi thấy vinh dự cho người Cộng sản chúng tôi. Chúng tôi rất hoan nghênh Cách Mạng Tháng Mười. Nhờ Lénine mở đường cho chúng tôi học tập để sau này giải phóng dân tộc chúng tôi". Hội trường hoan hô khoảng 15 phút. Còn Trân thì quá xúc động đến "hết hồn, hết vía".

Ngày hôm sau, Trần Phú tới chào Trân và yêu cầu Trân viết tiểu sử, quá trình hoạt động, tại sao qua học với mục đích gì .

Tuần sau, Trần Phú dẫn Trân tới Quốc tế Cộng sản nhận giấy giới thiệu về trường.

Cùng khóa với Bảy Trân có các học viên Nguyễn Thế Rục, Ngô Đức Trì, Bùi Công Trừng, Trần Phú, Bùi Lâm, Nguyễn Khánh Toàn, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Ngọc Danh, Dương Bạch Mai, Trần Đình Long, Bùi Ái.

Trong số này, Lê Hồng Phong là Đại úy phi công Liên Xô, Trần Phú là phiên dịch tiếng Nga.

Khi Trần Phú và Ngô Đức Trì về nước, sau ba năm. Trân làm tổ trưởng thay Trần Phú. Tiếng Nga của Trân cũng khá nhờ quyết tâm học với cô vợ Nga. Trân được mời đi nói chuyện với công nhân Nga và dịch các tài liệu.

Mùa hè năm 1930, Trân được Quốc tế Cộng sản phân công trở về công tác. Đi bí mật, ông về càng bí mật hơn. Trân được cấp một vali hai đáy có nhiệm vụ đưa về nước hóa chất in tài liệu và 3 ngàn đồng Đông Dương dùng làm quỹ hoạt động cho Đảng. Khi đi, nếu lính lục xét phải mau đập vô lọ hóa chất, không để rơi vào tay địch, đồ đạc trong vali là tài liệu tối mật. không được mở ra xem dọc đường.

Cùng về nước một lượt với Trân là Bùi Công Trừng. Cả hai cùng đi một chuyến tàu nhưng làm như người lạ. Tới Leningrad, một người đón hai anh. Xem ra thì người này cùng đi một toa với anh nhưng giữ bí mật. Ở khách sạn sang, ăn ngày ba bốn lần, dư tiền, hai anh em Trân, Trừng đi viếng các danh lam thắng cảnh. Vài tuần sau, có xe tới đón, đưa xuống tàu biển chạy qua Hambourg (Đức) với sự hướng dẫn của một phụ nữ. Chị này thân mật khuyên Trân ăn nhiều để có sức khỏe đi đường. Bến tàu Hambourg của Đức lớn hơn Marseille nhiều. Tới Hambourg, thuyền trưởng tàu Liên Xô bắt tay Trân và Trừng nói: "Nhiệm vụ tôi đã hoàn thành. Chúc các đồng chí tiếp tục cuộc hành trình bình an vô sự”. Tại bến cảng, một xe chở hai đồng chí Việt Nam tới khách sạn. Một người Đức nói tiếng Pháp tiếp hai anh và giao vé xe đi từ Hambourg đến Berlin. Tại Berlin cũng có người đón, đưa về nhà, căn dặn không được đi dạo phố, phải nói tiếng Pháp, không được nói tiếng Việt hay Nga. Vài tuần sau, có liên lạc đưa qua Bruxelles, Bỉ. Xe lửa chạy cả ngày đêm. Dân Bỉ nói tiếng Pháp nên hai anh thấy dễ chịu. Hai anh ngụ tại nhà một bác sĩ Bỉ có nhiệm vụ đưa khách qua biên giới Pháp. Trên đường đi, bác sĩ bố trí vợ con ngồi bao bọc hai anh, đề phòng lính cảnh sát chặn xe xét hỏi. Gần tới trạm gác biên giới, bác sĩ dừng xe cho hai anh xuống đi bộ qua biên giới, đi thật tự nhiên. Còn ông ta thì móc thuốc mời lính trong chòi canh hút.

Qua khỏi ranh giới, hai anh được một xe chờ sẵn. Xe phóng nhanh tới một nhà trong đồng, vào nhà thì thấy bữa ăn đã dọn sẵn. ăn xong, mỗi người được tặng hai bộ quần áo. Chủ nhà nói: "Các anh hoạt động bí mật. Còn một trạm này nữa là tới nơi an toàn. Chặng này hơi khó. Vậy hai anh chịu khó ngồi xe chở heo. Nếu cảnh sát chặn xe hỏi giấy tờ thì hai anh cứ đập cho heo kêu lên inh ỏi. Bọn lính sẽ bực mà cho xe chúng ta đi cho xong việc, Đúng như lời dặn, khi xe bị lính thổi còi chặn xét, hai anh đạp mấy con heo khiến chúng la hét om sòm. Bọn lính xem xét qua loa, trả lại giấy tờ xe, khoát tay cho xe chạy. Không bao lâu, xe chở heo tới một nhà quen. Chủ xe cười bảo hai anh vô nhà tắm gội, thay đồ để đi tiếp tới ga xe lửa về Paris. Tắm xà phòng thơm, mặc bộ đồ mới, Trân thấy mình đẹp trai và dễ chịu. Một chiếc xe sang đưa hai anh tới anh ga, có sẵn hai vé hạng nhất. Đi suốt đêm thì tới Paris, ăn mặc sang trọng, ngồi toa hạng nhất, hai anh là dân Paris nên rất tự tin. Không một lính cảnh sát nào hỏi giấy hai người. Lên taxi tới hiệu cà phê sang gần nhất, Trân dùng điện thoại liên lạc với văn phòng Đảng Cộng sản. Mười phút sau, có người tới đưa về văn phòng. Tại đây, có chỉ thị cho hai anh: "Đến quán Biancourt, có phòng ngủ gần đó, ăn ngủ trong phòng, không nên đi chơi và giao thiệp với người Việt đề phòng lính kín. Giấy tờ các anh gửi trước khi qua Nga, chúng tôi giữ kỹ. Khi nào các anh về nước, sẽ giao lại cho các anh".

Vé tàu đã được mua trước, Trân và Trừng xuống Marseille. Trước khi rời Paris, Trân nhận lại đồ đạc của mình. Anh châm lửa đốt tất cả hình ảnh chụp ở Paris, vì thấy đưa chúng về nước không có lợi.

Tới Marseille thì Trân và Trừng làm mặt lạ, như là không hề quen biết nhau. Mỗi người được bố trí khác nơi.

Trân được bố trí dưới hầm tàu, chung quanh chất đầy rương và vali, ngồi dậy thì đầu đụng trần, phía bên có cửa kính tròn. Ăn cơm xong, anh mở cửa ném tất cả xuống biển; đi tiêu cũng cho vào giấy, vứt xuống biển. Bồi tàu là người Hoa nói tiếng Việt rất rành. Anh ta đưa Trân lên boong tàu để thở và đi tắm vào ban đêm. Phải chịu đựng cảnh bị cầm tù trong phòng cầm cố mấy tuần, thật vất vả. Khi tàu tới Khánh Hội, Trân nôn nóng muốn xuống ngay bến. Nhưng thuyền trưởng thận trọng bảo: "Chớ nôn nóng. Chờ mọi người lên hết rồi, đầu hôm tôi sẽ hộ tống anh bạn trẻ lên bến". Cùng lúc đó, anh bồi bảo Trân : "Đồ của anh cứ để trên tàu. Tàu đi qua Nhật rồi quay trở lại, chừng đó anh cho người tới lấy thì tiện hơn lấy ngay đêm nay. Anh nên xuống mình không, chỉ đem theo những thứ thật cần thiết".

Đúng 9 giờ đêm, thuyền trưởng ăn mặc chỉnh tề, đeo lon trung tá hàng hải, cặp tay Trân lên bến cảng Nhà Rồng. Hai người vừa đi vừa nói chuyện thân mật trước mắt đám lính kín ngồi lố nhố ở các quán cà phê trước bến cảng. Đưa Trân tới cầu Quay (nay là Bến Nghé), thuyền trưởng dừng lại, bắt tay Trân, cười nói: "Tôi đã làm xong nhiệm vụ với đồng chí. Xin chúc đồng chí hoạt động được nhiều kết quả".

Trân sang Pháp năm 1923 , đến 1930 về nước. Tám năm ròng xa gia đình, xa quê hương, nay trở về Trân nghe lòng lâng lâng xúc động. Sài Gòn trở nên lạ lẫm, nhà cửa mọc lên như nấm, lại có xe điện chạy giữa thành phố nối liền Sài Gòn-Chợ Lớn. Trân gọi xe kéo đến bến xe Chợ Lớn ở đường Tổng đốc Phương (Châu Văn Liêm). Mười giờ đêm, bến xe sáng trưng, rất đông người. Trân bao một chiếc, bảo tài xế đi Gò Công, nhưng tới Phú Lạc thì xuống. Tài xế cự nự nhưng Trân cười , đưa đủ số tiền bao xe đi Gò Công. Tài xế cám ơn rối rít, quay xe trở về Chợ Lớn. Đó là cách giữ bí mật đánh lạc hướng bọn lính kín và điểm chỉ ở bến xe.

Dù ban đêm, Trân vẫn cố quan sát tình hình. Lúc xe qua cầu Mới (nay là cầu Nhị Thiên Đường), lính chặn xe lại xét , tài xế trình giấy tờ. Lính ngó Trân lom lom. Trân hơi chột dạ nhưng làm tỉnh móc túi lấy bao thuốc thơm Lạc Đà mời : "Đêm lạnh, thầy đội hút một điếu cho ấm". Anh bật đốt thuốc cho tên lính. Thấy khách sang trọng lại lịch sự, tên lính khoát tay cho xe qua. Trân suy nghĩ: Các tin tức cho biết Pháp đang khủng bố các cuộc đấu tranh giành quyền dân sinh, dân chủ. Việc canh gác ở các ngã tư rất nghiêm ngặt. Mình cần thận trọng. Nghĩ lại mới thấy công tác bảo vệ cán bộ của Quốc tế Cộng sản từ Pháp sang Nga thật là chu đáo. Đó là bài học vỡ lòng, công tác bí mật mà Trân học được trong chuyến sang Nga và trở về nước.

Trân chờ tài xế quay về nơi đi bộ vài trăm thước, gọi một người đang cất vó tôm lại hỏi nhà người dì, bất ngờ người đó là Ba Cường, con của dì. Trân nhờ Ba Cường đưa về nhà dì. Dì không nhận ra cháu. Trân ôm dì nói: "Con là Trân đây mà". Dì đẩy Trân ra nhìn một lúc rồi kêu lên: "Té ra mầy còn sống. Ở nhà, ai cũng tưởng mày chết, vì năm, bảy năm qua không có thư từ gì. Tội nghiệp má mày, ngày nào cũng cúng cơm mầy".

Trân giao các món quốc cấm nhờ Ba Cường cất giấu và mượn chiếc áo thầy tu của Ba Cường mặc vô, bảo: "Có ai hỏi tôi thì anh nói có ông lễ sanh từ Tây Ninh xuống". Sau khi bố trí cho mình một vỏ bọc tương đối an toàn, Trân mới nhờ Ba Cường mời mẹ anh tới gặp anh. Cẩn thận như vậy vì nhiều lý do. Mẹ anh già yếu, dễ xúc động. Anh cũng ngại về nhà mẹ vì có thể gây sự chú ý của những kẻ tò mò, Trân vô cùng chua xót khi thấy mẹ bệnh hoạn, ốm o. Bà bị đau bao tử, bán hết đồ đạc chữa trị mà không hết. Bà cũng không nhận ra Trân... Thế mới biết, trong tám năm ở Pháp, Trân từ cậu bé quê mùa đã lớn lên thành một thanh niên to cao, đến mẹ mà cũng không nhận ra. Trân cho mẹ 100 đồng để lo thuốc thang trị bệnh. Bà mẹ cứ nhìn Trân lạ lẫm: "Màầ làm gì mà bây giờ sang trọng, giàu có như vậy?". Trân chỉ cười chứ không dám nói thật mình đã là cán bộ cộng sản chuyên nghiệp, được đào tạo tận bên Nga về.

Xong chuyện tình cảm, thấm thoát đã tới ngày tàu Porthos từ Nhật cập bến Nhà Rồng. Trân nhờ Tư Ó là em Ba Cường tới bến tàu nhận vali của anh. Sau đó, nhờ Tư Ó tới nơi Bùi Lâm ở để giao các món hàng quốc cấm. Việc liên lạc gặp trục trặc, Trân không thể ở lỳ Phú Lạc được nên nhờ Ba Cường đưa lên Tòa thánh Tây Ninh giới thiệu để học đạo và làm công quả.

Việc chọn Tòa thánh Tây Ninh làm nơi trú ẩn của Bảy Trân rất có ý nghĩa. Trước nhất, đạo Cao Đài đang bành trướng mạnh khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Đạo còn vươn tới Campuchia và Trung Kỳ nữa. Đó là nơi Trân vừa ẩn náu vừa tìm hiểu đạo Cao Đài. Khi Ba Cường giới thiệu Bảy Trân với Giáo tông Lê Văn Trung, Trân trình bày rằng mình là sinh viên từ Pháp về, nghe nói đạo Cao Đài là đạo mới có sức bành trướng mạnh đến giáo hội Thiên chúa giáo cũng lo ngại, nên anh quyết tâm tới tận nơi để tìm hiểu giáo lý của đạo. Giáo tông thấy Trân đẹp trai, học giỏi, biết đánh máy chữ, liền thâu nhận ngay.

Tòa thánh Tây Ninh có thư viện lớn, Bảy Trân tha hồ nghiên cứu. Nhưng anh không thấy giáo lý thích hợp với mình, một người đã tiếp thu chủ nghĩa Marx. Trân cũng nhận thấy một số chức sắc có sinh hoạt không thực hiện đúng với những điều Đấng Chí Tôn răn dạy. Từ đó, anh không nghiên cứu đạo lý nữa mà xoay qua tiếp xúc với mấy chục nhân viên ấn loát Tòa thánh có một nhà in lớn để in kinh kệ, thánh ngôn của Đức Chí Tôn và các vị Tiên Thánh giáng cơ trong các buổi hầu đàn. Phụ trách nhà in là giáo hữu Non, rất mê Bảy Trân kể chuyện bên Tây. Nhờ vậy, Trân lần mò tranh thủ được giáo hữu Non và anh em án công.

Ngày kia, Tư Ó báo tin Bùi Lâm muốn gặp Bảy Trân trên chùa Bà ở núi Bà Đen. Bùi Lâm cùng học một khóa với Bảy Trân ở bên Nga và được Quốc tế Cộng sản giao trách nhiệm quản lý tiền bạc và hóa chất in ấn. Hai người gặp nhau trên núi, Trân hẹn ngày giờ và địa điểm để giao tiền và hóa chất cho Bùi Lâm. Địa điểm là đình Phú Lạc, lúc bấy giờ đã biến thành chùa Cao Đài. Cũng trong dịp này, Bùi Lâm bố trí Bảy Trân công tác tại Xứ ủy Nam Kỳ mà văn phòng đóng tại đường Hamelin (về sau, chế độ cũ đổi tên đường là Hồ Văn Ngà).

Bảy Trân giã từ Thánh thất Tây Ninh để tới đường Hamelin nhận công tác mới: phụ trách Đặc ủy Hậu Giang. Ngày ấy, ba ủy viên thường trực Xứ ủy Nam Kỳ ở đường Hamelin là Ngô Đức Trì, Nguyễn Văn Tây và Nguyễn Văn Kỉnh. Ngô Đức Trì cùng học ở Nga với Bảy Trân.

Đầu năm 1931, Bảy Trân xuống Chợ Mới, Long Xuyên (An Giang) phụ trách đặc ủy Hậu Giang. Chuyện nhớ đời là vừa tới nơi, Trân bị kiết lỵ. Phải mất cả tuần chữa trị, Trân mới đẩy lui được bệnh. Tuy yếu sức, Bảy Trân cũng mở khóa chính trị đào tạo cán bộ cơ sở. Lớp học mở tại Chợ Mới. Số học viên mười mấy anh gồm có Sún, Cựa, Gù, Phẩm... Dạy nửa chừng thì thiếu vải sơn (để kẻ khẩu hiệu), giấy mực để in tài liệu, Trân phải về Phú Lạc xin tiền mua sắm các thứ. Chừng trở xuống Chợ Mới, tới lớp học là nhà anh Sún thì thấy dàn bầu trước cửa bị sập, nhà đóng cửa kín mít. Biết có biến, Bảy Trân đi thẳng tới chùa. Tại đây, một tiểu đồng báo tin dữ: "Ông ơi, thầy tôi bị lính bắt rồi. Lính kín đang nằm trong nhà. Ông đi gấp đi". Bảy Trân giao văn phòng phẩm cho cậu bé, dặn cất kỹ rồi quay trở về chùa Phú Lạc.

Vừa về tới Phú Lạc, Trân được dì Bảy cho xem một bức thư của phụ nữ lạ tới nhờ trao lại cho Xồi. Xồi là bí danh mà ba anh ở văn phòng Xứ ủy Hamelin đặt cho Trân. Bức thư báo tin chẳng lành: "Anh em bị bắt hết rồi. Mầy phải tìm gặp chị Sáu Điếc và Thành ủy ở Bà Chiểu. Ký tên: Tây".

Đã được báo trước Bảy Trân đề cao cảnh giác. Xế chiều ngày kia, Trân nghe tiếng xe hơi đậu ngoài bờ đường làng. Trân nhanh chân chạy ra đồng, cặp mé dừa nước băng qua đập, tìm xe chạy qua Cần Giuộc. Sau đó nghe tin, biết một liên lạc của Tỉnh ủy Chợ Lớn là Lưu Đinh Tứ bị bắt, dẫn lính tới bắt Bảy Trân. Trân tìm anh thợ mộc Năm Tuấn nhờ đưa tới chị Sáu Điếc như anh Tây dặn trong thư. Năm Tuấn chủ quan, không đưa Trân đi gặp ngay giáo Long (Hồ Văn Long)- Bí thư Tỉnh ủy Long An, đợi sáng sẽ đi. Nào ngờ nửa đêm, lính kín ập vào nhà, Trân bỏ chạy, bị bắn nơi chân. Không chạy thoát, anh lủi xuống bùn nhưng cũng bị bắt lôi lên xối nước rửa mặt để xem có phải giáo Long không. Xong, chúng kéo lên đưa về bót Pôlô. Bọn đồ tể ra tay tra khảo, Bảy Trân khai đến Năm Tuấn đặt đóng ghe chài. Năm Tuấn cũng bị đánh rất đau. Không chịu nổi đòn tra, Tuấn chịu đưa đi bắt giáo Long. Anh đưa đi lòng vòng từ Chợ Trạm tới Chợ Đào hết cả đêm để tranh thủ thời gian cho giáo Long trốn. Chừng biết mình bị lừa, bọn lính đánh Tuấn chết đi sống lại.

Riêng về Bảy Trân thì cứ khai mình là người Tàu theo giấy thuế thân giả. Ba anh thường trực văn phòng Xứ ủy Hamelin đặt tên anh là Xồi. Còn anh em Đặc ủy Hậu Giang gọi anh là Thành.

Có một nhân vật mà Bảy Trân nhớ mãi trong bót Pôlô. Anh này là người miền Trung, tên Tư Chí. Ở bót Pôlô, Tư Chí có nhiệm vụ đưa cơm cho tù. Đối với tù, anh rất tử tế, đôi khi lén mua bánh mì cho tù nhân khi không có thầy chú. Dễ sợ nhất là hai tên đao phủ Ngọc và Sung... Trân bị hai tên này đánh chảy máu mắt và trật bả vai.

Tư Chí thầm bảo Trân: "Chớ khai thêm. Nó sẽ thả anh trong nay mai". Nhưng sau đó, xếp Campana đá Trân một cái, nói: "Tao biết mầy là ai rồi". Anh ta ra lệnh cho Ngọc và Sung đánh tới tấp. “Mầy khai láo. Cho mầy chết!". Bảy Trân bất tỉnh nhưng khi tỉnh lại vẫn không khai. Chừng đó chúng mới đưa tập ảnh anh em chụp ở Nga. Đủ cả. “Mầy đây nè, tên Nga đàng hoàng, Pirgomy. Còn đây là Ngô Đức Trì... tên Nga là Lemeh, phải không?”.

Đúng là anh em cùng khóa với Trân. Nhà trường đã giữ các tấm ảnh lại không cho ai mang về nước. Tại sao địch có cả xấp thế này? Chắc là có giòi trong xương rồi.

Dù vậy, Trân cũng không nhận người trong ảnh là mình: “Người giống người thiếu gì? Ai khai tôi, xin cho tôi đối chất".

Xếp Campana liền đẩy Ngô Đức Trì vô phòng điều tra. Trì sượng sùng nói. "Tao bị đánh chết đi sống lại, không chịu nổi nên khai hết. Tao xin lỗi mầy”.

Chừng đó, Trân mới bật tiếng Tây nói với Campana:

- Đúng, người trong ảnh là tôi. Tôi học ở Pháp rồi qua Nga. Từ ngày về nước, đau lên đau xuống, không làm gì được. Những người nông dân mà tôi ở nhờ không biết lôi làm chính trị.

Xếp Campana truy tới cùng. Trân lựa lời khai sao cho hợp tình hợp lý. Ở bót Pôlô 6 tháng, Trân được giải qua Khám Lớn Sài Gòn vào đầu năm 1932. Trân bị giam ở Khám 2. Vào đây thì gặp Ung Văn Khiêm và nhiều đồng chí khác. Thấy Trân nói tiếng Tây khá, anh em bầu Trân làm đại diện tranh đấu xin muối ăn, xin xà bông tắm, không ăn cá nhớt, khô mục. Nói chung là đòi cải thiện đời sống trong tù. Tây không nhượng bộ, anh em bãi thực. Trân bị bắt đưa ra khám anh Ninh. Anh Nguyễn An Ninh đậu cử nhân Luật bên Pháp,đang học thêm để lấy bằng tiến sĩ về nước làm báo. Tờ La Cloche fêlée (Tiếng Chuông Rè) của anh có mụn đích nâng cao dân trí, đồng thời tranh đấu cải thiện dân sinh dân chủ, tố cáo hành vi ngu dân, xây nhà tù nhiều hơn trường học. Thực dân tìm cách bóp chết tờ báo. Ông Ninh xoay qua lập hội kín. Anh Ninh bị giam riêng một khám, vì sợ nhốt chung, nhiều nguời sẽ được anh tuyên truyền giáo dụclàm quốc sự.Trân gặp anh Ninh như cá gặp nước. Hai anh đã quen nhau ở Pháp,còn nhớ anh Ninh đã tặng Trân 500 quan lúc Trân sang Nga. Ở khám chung với Ninh một tháng Trân tiếp tục tranh đấu, Tây nhốt cát-sô hai tháng. Ăn cơm lạt một tháng đầu,sau đó về khám chung với anh Ninh cho tới ngày ra tòa.

Lần lượt những anh học chung khóa với Trân đều bị bắt, giải vô khám Sài Gòn. Trước khi ra tòa, anh em được biện lý gọi lên lấy lời khai thêm. Bảy Trân cứ giữ lời khai cũ, trước sau như một. Biện lý quen thói chửi Cộng sản giết người cướp của, xúc lúa bắt heo. Bảy Trân cười nói: "Chuyện đó tôi không hề thấy. Tôi qua Pháp từ 14 tuổi, học văn hóa Pháp, sống trong nhà người Pháp,có mẹ đỡ đầu là nguời Pháp, theo cộng sản nhờ đọc báo Humanité của người Pháp. Tôi yêu nước Pháp như quê hương thứ hai của mình. Tôi kính trọng nhân dân tôi. Tôi chỉ chống những nguời bóc lột,hà hiếp nhân dân tôi".

Biện lý gục gặc rồi hỏi tiếp:

- Nếu thả ra, anh có tiếp tục làm Cộng sản nữa không?

- Câu hỏi của ông khó trả lời. Nếu tôi nói không thì ông cũng không tin. Đã là con người, ai cũng muốn tự do, không ai muốn tù tội. Tôi có làm Cộng sản nữa hay không là do hòan cảnh thúc bách của con người. Còn đàn áp thì còn đấu tranh. Đó là chân lý. Vì vậy mà câu hỏi của ông khó trả lời.

Về Khám Lớn, Trân kể lại cuộc đấu lý với biện lý, các anh em nhận định: "Tòa sẽ không buộc tội Trân nặng vì chỉ có một mình Ngô Đức Trì khai cho Trân mà thôi.Trả lời khôn khéo như vậy, chắc là sẽ ra truớc tụi tao. Nhớ ra rồi thì liên lạc hoạt động lại. Nên tiếp xúc với Tư Chí, vì nó là nguời tốt dù là nhân viên bót Pôlô”.

Một sáng đẹp trời, Trân được đưa qua Catinat làm giấy tờ quản thúc tại gia.Vậy là Trân được thả sau 9 tháng 9 ngày. Pháp bắt buộc Trân về ngụ tại Đa Phước, nơi nhà mẹ ruột, mỗi tuần phải trình diện Đốc phủ quận trưởng Chợ Lớn,mỗi tháng trình diện Tham biện chủ tỉnh, ra khỏi xã phải xin phép. Mấy tháng đầu,Trân tới trình diện quận và tỉnh, nhưng về sau thì lờ luôn. Khi nào bị hạch hỏi thì khai bệnh hoặc không tiền đi xe, không quần áo đàng hoàng để đi hầu quan lớn.

Nhiều đảng viền tới tìm Trân để nhờ chỉ dạy hoạt động, Trân khuyên họ phải hết sức thận trọng, khi thật cần mới đến vì anh đang bị làng lính dòm ngó.

Thời gian sau, anh đi bán dầu cù là với ông Nguyễn An Ninh. Đó là cách tuyên truyền trực tiếp với dân quê, vì tới chợ nào, ông Ninh cũng nói chuyện tình hình thế giới và trong nước cho dân nghe trước khi mời họ mua cù là. Cách nói chuyện của ông Ninh rất vui và hấpdẫn, ai cũng muốn nghe. Một Ông tiến sĩ luật về nước mà không làm quan tòa hay trạng sư, lại đi làm báo, bán báo, bây giờ lại đạp xe đi bán dầu cù là khắp làng quê, xóm vắng là một hiện tượng lạ lung, ai cũng có cảm tình và ráp nhau mua cù là ủng hộ.

Khi có anh Trân cùng đạp xe bán cù là thì ông Ninh rất vui vì có bạn đồng hành, lại là đồng tâm, đồng chí. Có bạn tâm đồng, đường dài hóa ngắn. Hai anh đi xe đạp từ Long Thành, Bà Rịa rồi Long Hải, có tiền thì ăn quán sang, ngủ nhà ngủ, không tiền thì ăn cơm trong chợ, ngủ trong chùa. Cuộc sống cơ cực nhưng vui vì lúc còn là sinh viên bên Pháp, hai người đã từng đi cắm trại hè khắp vùng quê. Trong những đêm không ngủ, ông Ninh tâm tình với ông Trân : "Xu thế của xã hội ngày càng tiến lên, tinh thần quốc gia nhỏ bé sẽ nhường bướ trước tinh thần quốc tế bao la. Tao sẽ giao cho mầy các đảng viên thanh niên cao vọng của tao để mầy chuyển họ sang lý tuởng cộng sản".

Nghe ông Ninh tâm tình như vậy, Trân khuyên ông gia nhập Đảng Cộng sản. Ông Ninh nói: "Để tao ở ngoài có lợi hơn cho phong trào. Với tư cách nhà trí thức yêu nước, tiếng nói của tao có tác dụng lớn hơn".

Bảy Trân đi bán dầu cù là với ông Ninh từ năm 1933 tới năm 1936. Trong khi đi bán cù là, Trân vẫn tiếp tục đào tạo cán bộ cho Xứ ủy. Ngoài ra, Trân còn giúp đỡ tiền bạc cho anh Nguyễn Văn Tạo khi anh này về nước chưa tạo được chân đứng vững vàng.

Có anh thanh niên Nguyễn Văn Trấn, quê Chợ Đệm làm báo Dân Chúng cũng tìm tới anh Bảy Trân để được bồi dưỡng về chính trị. Trân giới thiệu anh bạn trẻ Trấn với anh Tạo để dìu dắt trở thành nhà báo tài năng.

Trong nhiều năm, Bảy Trân là sợi dây liên lạc giữa trung ương, Xứ ủy với hai anh Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai. Chỉ chuyển chỉ thị miệng chứ không văn bản. Vậy là Trân làm môi giới giữa công khai và bí mật.

Có tờ báo duy nhất ở Sài Gòn ra mà không xin phép. Đó là tờ báo của Đảng, tờ Dân Chúng. Những người chủ trương báo này căn cứ theo đạo luật Pháp do quốc hội thông qua cho phép ra báo không cần xin phép. Còn ở Đông Dương, Toàn quyền ra sắc luật buộc báo ở thuộc địa phải xin phép. Theo luật pháp của Pháp thời ấy thì một sắc luật không có quyền lấn lướt một đạo luật do cơ quan lập pháp cao nhất nước soạn thảo. Vậy là tờ Dân Chúng xuất bản không xin phép.

Nhưng vấn đề chính của anh em là tiền. Mỗi kỳ ra báo phải mất ba chục đồng. Đảng nghèo không có quỹ ra báo. Đảng giao cho Trân vận động tiền. Trân biết một số Mạnh thường quân như ông Hội đồng Tồn (Võ Công Tồn) ở Gò Đen, chị Ba Bầu ở Phú Nhuận. Nhờ hai Mạnh thường quân nói trên mà hai tờ Dân Chúng và La Lutte làm nhiệm vụ phổ biến đường lối Đảng tới quần chúng.

Mỗi khi Trân tới tòa soạn, anh em vỗ tay hoan hô: "Kalinin lên kìa!" (Kalinin có nghĩa là nông dân). Tạo thân mật nhào tới móc túi Trân, chỉ chừa đủ tiền đi xe về nhà. Tác phong bình dân của Trân giống hệt nông dân nên đặt biệt danh Kalinin rất đúng.

Ngày nọ, Trân cùng Mười Vân tới nhà anh Nguyễn Văn Nguyễn. Mười Vân làm bồi cho Tây xếp lính kín bót Pôlô. Lúc đó, anh Nguyễn ở chung nhà với anh Trần Văn Hiển - con ông hương trưởng Hoài ở Chợ Gạo - và anh Đinh Nho Hàng. Nhà này nằm trên đường Frère Louis (Nguyễn Trãi) sau nhà bảo sanh Hồng Phúc. Trân định giới thiệu Nguyễn tới nhóm bồi bếp tiến bộ. Vừa tới nhà, thoáng thấy Đinh Nho Hàng, Mười Vân kéo Trân ra nói nhỏ: "Sao anh dẫn tôi vô nhà lính kín?"

- Ai là lính kín? - Trân hỏi.

- Ông đó là lính kín. Mỗi tuần ông ta tới chủ tôi hai lần. Trước khi gặp ông chủ tôi ở trên lầu , ông ta phải nhờ tôi đưa lên.

Bảy Trân giật mình. Ông không biết nhiều về Đinh Nho Hàng vì nguyên tắc bí mật. Chỉ biết Hàng làm việc với Nguyễn Văn Nguyễn. Bảy Trân lại đâm ra nghi Mười Vân vì anh ta là bồi lính kín. Có thể anh ta gây nghi ngờ giữa anh em mình. Thế nên Bảy Trân không nói gì.

Anh nghĩ ra một kế:

- Khi nào ông đó tới gặp chủ anh, anh nhờ nó làm giúp một cái đơn thưa rằng bạn mượn tiền không trả. Anh đem cái đơn đó cho tôi.

Tuần sau, Mười Vân đưa đơn nhờ Đinh Nho Hàng viết. Bảy Trân so bản thảo, thấy rõ là nét chữ của Đinh Nho Hàng. Anh đưa lá đơn và trình bày rõ ràng cho anh Nguyễn. Anh Nguyễn lấy cái đơn nhưng làm thinh.

Tuần sau, Trân vẫn thấy Đinh Nho Hàng tại nhà Nguyễn. Hỏi ra thì Nguyễn nói:

- Nó là vú sữa của tao. Thằng nào nói Đinh Nho Hàng là lính kín thì chính thằng đó là lính kín.

Trân tức trào máu , nhờ hai anh Mai, Tạo thuyết phục Nguyễn, nhưng hai anh này xem thường chuyện cảnh giác. Trân biết sớm muộn gì Đinh Nho Hàng sẽ hại bộ ba Mai-Tạo-Nguyễn nên anh sớm ly khai để tránh hậu họa.

Về sau, khi Mặt trận Bình dân thất bại, thực dân thẳng tay khủng bố. Bộ ba Mai-Tạo-Nguyễn bị bắt đầy Côn Đảo. Chừng đó Nguyễn mới biết Đinh Nho Hàng là lính kín. Than ôi, khi biết thì đã muộn rồi!

Thành tích lớn của Bảy Trân là nắm được giới giang hồ Bình Xuyên tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Vào tháng 8.1940, Bảy Trân được giao phụ trách ngoại ô Sài Gòn-Chợ Lớn, từ đường Trần Xuân Soạn, dưới dạ cầu Tân Thuận, chạy dài tới đường Phạm Thế Hiển, tới Cầu Sập đổ vô đường số 5 từ Xóm Củi đi Cần Giuộc. Đúng ngày Nam Kỳ khởi nghĩa, Bảy Trân phải đưa dân chúng võ trang cướp chính quyền trong vùng phụ trách. Không có vũ khí trong tay, Bảy Trân nhớ tới giới giang hồ. Có thể kéo nhóm này theo cách mạng. Đây là một ý nghĩ mới lạ, vì kết nạp đảng, không ai nhắm vào giới đầu trộm đuôi cướp. Nhưng tình thế cấp bách, Bảy Trân đánh liều làm thử xem sao. Ông nhờ Tư Ó đưa vô Hố Bần tiếp xúc với ông thầy nghề võ Tám Mạnh để thăm dò. Khi thấy ông Tám Mạnh là người yêu nước, dạy võ để bảo tồn vốn võ cổ truyền của dân tộc, Bảy Trân đề nghị anh em giang hồ tạm ngưng đi hát để tập dượt võ nghệ, chờ ngày đánh làng lính Tây tà cướp chính quyền giành độc lập. Tám Mạnh nghe được, ra lệnh cho lâu la tướng tá dưới quyền chuẩn bị tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa. Do các nơi nổi lên loạc choạc, Bảy Trân cho lực lượng giang hồ Bình Xuyên rút êm chờ thời cơ thuận lợi hơn. Sau này, Bình Xuyên tham gia cướp chính quyền ngày 25 .8.1945 và lập nên 7 chi đội trong Liên khu Bình Xuyên, đánh Tây rất hăng hái.

Bảy Trân làm liên lạc giữa Giàu và giới trí thức yêu nước như bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, luật sư Trịnh Đình Thảo, giáo sư Phạm Thiều, các sinh viên Hà Nội xếp bút nghiên về Nam, nhưng công tác chính của Bảy Trân vẫn là nắm lại anh em giang hồ Bình Xuyên đã từng hưởng ứng tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa. Ngày ta cướp chính quyền, 25.8.1945, Bảy Trân làm Chủ tịch quận Cần Giuộc. Sau đó, ông lên làm Chủ tịch tỉnh Chợ Lớn, ông giải quyết nhiều vấn đề quan trọng một cách nhẹ nhàng, êm đẹp. Bộ đội Bình Xuyên của cố Hoạnh hay sung công ghe heo, ghe cá với lý do nuôi quân. Ông xuất công quỹ đền bù thỏa đáng cho các chủ ghe ra về mà không oán hận cách mạng.

*

Xin kết thúc bài viết cụ Trân với chuyện kể dưới đây của kỹ sư Nguyễn Hồng Đăng, con cụ Bảy Trân:

Sau giải phóng năm 1975 , tôi đang làm việc trong ủy ban quân quản Tây Ninh, một đoàn ba xe du lịch tới xin gặp. Trưởng đoàn là chức sắc Cao Đài Tây Ninh. "Mời ông kỹ sư Nguyễn Hồng Đăng tới Tòa thánh có chút việc". Tôi ngạc nhiên vì không hề có liên hệ với Cao Đài. Dù vậy, tôi vẫn lái xe Jeep đến Tòa thánh xem việc thế nào. Ngài Chưởng quản lưỡng đài địa chờ tôi trong văn phòng. Sau tuần trà, ngài vô đề:

- Xin ông kỹ sư cho tôi hỏi thăm cụ Chủ tịch Bảy Trân. Cụ có được khỏe không?

Tôi giật mình. "Vị chức sắc cao cấp này biết ông già mình? Biết trong trường hợp nào?". Tôi dè dặt trả lời:

- Thưa ngài, cha tôi tập kết ra Bắc năm 1954 , nay đã về Nam. Cha tôi vẫn mạnh khỏe. Ngài biết ông thân tôi trong trường hợp nào?

- Chuyện này xưa lắm rồi. Đó là năm 1948. Câu chuyện như sau:

Năm đó, do người Pháp gây chia rẽ, Việt Minh và Cao Đài thù hận nhau. Quân đội Cao Đài theo Pháp tới bố ráp trong khu, còn bộ đội Việt Minh thì tảo thanh Cao Đài. Ngoài kia tôi kẹt trong vòng vây với dân làng theo đạo. Nghe nói tới tối thì sẽ bị thủ tiêu tập thể. Có người gợi ý nên cho một em bé lén trốn ra ngoài, chạy tìm ông Chủ tịch tỉnh Chợ Lớn thì may ra sống được. Tôi tán thành ý kiến này. Trời xế chiều, ông Bảy Chủ tịch tới nơi. Ông hỏi anh lính gác: "Tại sao bắt những người này?”. Lính đáp: "Họ là Cao Đài phản động, là tay sai của quân Pháp". Ông Chủ tịch nạt : "Nói bậy, mấy người này là dân trong vùng của mình. Họ đâu phải tay sai của địch. Cao Đài phản động là những người lãnh súng của Tây, ăn lương Tây bắn phá làng xóm chúng ta. Thả những người này ngay cho tôi!". Anh lính lắc đầu: "Tôi được lệnh bắt chứ không được lệnh thả". Ông Bảy hỏi gằn: "Lệnh của ai?". Lính đáp gọn: "Của Khu". Ông Bảy trợn mắt : “Lệnh của Khu sao tôi không biết? Nhân danh Chủ tịch tỉnh, tôi ra lệnh cho anh phải thả những người này ra”.

Anh lính vẫn lắc đầu:

- Tôi đã nói rồi. Tôi chỉ được lệnh bắt giữ chứ không được lệnh thả.

Ông Chủ tịch bước tới đứng trước mặt anh lính:

- Anh bắn tôi trước đi thì mới có thể giết họ.

Hai tay ông giật nút áo để lòi cái ngực lép đang thở hổn hển vì tức giận.

Anh lính hạ súng xuống rồi lặng lẽ bỏ đi vô nhà. Ông Chủ tịch hất hàm lệnh cho đám đạo hữu đang bị gom ở giữa sân. Tức thì mạnh ai nấy chạy. Nhờ vậy mà tôi sống tới ngày nay.

Nghe vậy, tôi rất xúc động và hãnh diện có một người cha như vậy.

Ông Chưởng quán uống ngụm trà, nói tiếp:

- Sau đó lãnh đạo Nam Bộ có sửa sai. Nhưng tôi luôn nhớ ân nhân của mình. Cho nên đêm nào, tôi cũng thắp nhang cầu nguyện cho ông Bảy Chủ tịch được an khang trường thọ.

Trên đường về cơ quan, tôi cười một mình khi nghĩ tới một chức sắc Cao Đài ngày đêm cầu nguyện cho một cán bộ cộng sản. Đó là chuyện hy hữu mà có thật.

Hết Chương 9: NGUYỄN VĂN TRÂN NGUỜI CẢM HÓA GIANG HỒ BÌNH XUYÊN
Thông tin sách