Mười Thôi không được đào tạo thuyền trưởng nhưng hoạt động kháng chiến của anh phần lớn gắn liền với biển, mà chiến công lớn nhất là vụ cướp tàu Darathip. Sự cố này nhiều tình tiết éo le. Xin cố gắng kể lại những chi tiết lớn sau đây:
Thấy Khu 9 qua Xiêm mua súng đạn đánh Tây xôm quá, Khu trưởng Trần Văn Trà giao cho Mười Thôi nhiệm vụ qua Xiêm sắm vũ khí. Tại sao ông Trà chọn Mười Thôi? Mười Thôi là cán bộ quân sự tỉnh Bến Tre, là trưởng ban tình báo tỉnh, nhưng trước đó đã từng vượt biển từ Quảng Ngãi về Khu 8. Thuyền chìm ngoài khơi Cù Lao Bảy Xạ (Tây gọi là Poulo Ceyn de Mer) Mười Thôi lưng đeo bao bạc 60.000 đồng lặn hụp với sóng gió lội vô tới bờ trao đủ cho Khu. Nhờ thành tích này mà anh được chọn đi Xiêm. Muốn qua Xiêm, phải tìm đồng chí Thanh Sơn, Thanh tra chính trị miền Tây. Thanh Sơn từ Quảng Ngãi về Nam vào tháng 7. 1947. Thôi xuống Cà Mau chờ ba tháng, không gặp Thanh Sơn, vừa trở về thì Thanh Sơn cũng vừa tới . Bấy giờ Thanh Sơn được Trung ương phân công là Ủy viên quân sự Nam Bộ. Thanh Sơn lập Ban Ngoại vụ và Phòng Hàng hải với Võ Đăng Kỳ làm trưởng phòng. Mười Thôi tiếp xúc với Phòng Hàng hải và chuyến đi đầu tiên của anh lên đường vào tháng 12.1947 trên chiếc thuyền buồm 6 tấn có gắn máy. Cùng đi với anh có Cao Phát Thành, quê Trà Vinh. Chuyến đi đó anh nhớ mãi, xuất quân từ cửa Ông Trang vào sáng 30 Tết, có Võ Đăng Kỳ xuống tiễn. Tết đó, anh em vui xuân trên sóng nước. Vừa ra khơi thì máy chết, phải chạy buồm ba ngày ba đêm. Đặc điểm của chuyến đi này là có bốn sinh viên Nam Bộ quá giang để sang Ấn dự Đại hội Thanh niên Thế giới tại Calcutta, đó là anh Huỳnh Kim Trương, Nguyễn Duy Cương, Nguyễn Văn Sinh và Lê Tâm. Bộ chỉ huy chuyến đi gồm có Võ Đăng Ban (em Võ Đăng Kỳ) thuyền trưởng. Mười Thôi chính ủy, Cao Phát Thành hướng dẫn vì đã qua Xiêm hai lần. Qua tới Xiêm, không bao lâu thì được điện thúc về gấp. Lại gặp lúc tàu hư phải sửa nên phải tranh thủ mướn tàu chở vũ khí về nước. Trong lúc này có đồng chí Ba Nhâm đảm trách. Ba Nhâm hướng dẫn Võ Đăng Kỳ mướn chiếc Darathip. Không thể nói thật là mướn tàu chở vũ khí về Việt Nam, ta nói dối là chở cao su ngoài đảo Kokut. Chủ tàu là người Hoa nên tin. Còn thủy thủ thì biết ta nói dối vì đảo Kokut làm gì có cao su. Ý định cướp tàu là sáng kiến của Ba Nhâm vì anh vốn là dân dao búa, tuy đã là đảng viên rồi nhưng cái nết đánh chết không chừa.
Ba Nhâm nói: "Nếu thủy thủ chịu đưa mình về Cà Mau thì tốt, bằng không thì mình cướp tàu. Vậy đó!". Mười Thôi kêu lên: "Sao được anh Ba?". Ba Nhâm lặp lại giọng độc đoán: "Sao lại không được? Chịu thì tốt, không chịu bắn bỏ!". Mười Thôi bác: "Bắn là lộ". Ba Nhâm cắt ngang: "Đây là nghị quyết chi bộ". Mười Thôi đành chịu.
Nơi ta đóng là một bờ biển, cách xóm nhỏ một con rạch. Xóm này có khoảng 20 mái nhà. Có một quán nước, chủ quán là Kim Hon, người Hoa. Nơi đây, quận trưởng hay dẫn lính đi tuần. Việc cướp tàu kể như khó thực hiện. Em gái Kim Hon là cô giáo, có cảm tình với anh em ta, đặc biệt là với Mười Thôi. Mặc dù anh em giả làm ngư dân, cũng cởi trần phơi lưới, nhưng không qua được óc nhận xét của cô giáo. Một hôm, cô tâm tình: "Các ông làm gì tôi biết hết!". Mười Thôi giật mình, nhưng tin tưởng cô giáo là người tốt, biết để bụng chớ không tiết lộ với ai. Ba Nhâm vẫn giữ ý định cướp tàu nếu thủy thủ không chịu đưa tàu về Cà Mau. Thủy thủ đoàn gồm có Má Chín đại diện chủ tàu, một thuyền trưởng già, một máy trưởng, một thợ điện, một thợ máy và bảy thủy thủ, tổng cộng 12 người. Quân số bên ta cũng tương đương. Theo tàu còn có hai Hoa kiều tư sản muốn về Bạc Liêu thăm bà con đồng thời mua lúa gạo bán cho Singapore. Cũng cần giới thiệu các nhân vật trên chiếc Darathip: Mười Thôi, Võ Đăng Ban, Nguyễn Văn Bang (Bang già), Thọ Kiên, Dương VTĐ, Sáu Nắng, Tư Ghế, Nuôi, Ba Đáng, Lô. Điều trớ trêu là người chủ trương cướp tàu thì vào giờ chót lại không có mặt trên tàu. Rời May-luột, tàu ra đảo Kokut kéo theo ghe chứa đầy vũ khí của ta. Theo kế hoạch thì anh em dưới ghe cứ báo cáo ghe vô nước với Võ Đăng Ban và Mười Thôi ở trên tàu. Tới Kokut, Mười Thôi nói với Má Chín: "Ghe vô nước, cho chúng tôi đưa hàng lên tàu!". Trong khi đưa vũ khí lên tàu, Mười Thôi bố trí anh em chiếm toàn bộ phía trước. Thọ Kiên kiếm chỗ gửi ghe. Vừa xong thì gặp bão, dông gió làm trốc neo tàu. Tình thế thật là nguy hiểm vì tàu có thể trôi vô bãi đụng đá bể nát. Nhiều thủy thủ hốt hoảng khóc. Rất may là gặp bãi cát, Việt kiều trên đảo vội tiếp tay thả neo ràng, kê vai vô đít tàu đưa ra an toàn. Tàu đậu xa bãi khoảng 5 km để ngừa thủy thủ lội vô bờ khi ta cướp tàu nếu không thuyết phục được họ. Theo kế hoạch của Ban và Mười Thôi, Bang già lãnh phần thuyết phục Má Chín và thuyền trưởng (Bang già rành tiếng Xiêm). Sau khi nói rõ yêu cầu Bang già hứa thưởng trọng hậu. Má Chín lắc đầu nguầy nguậy:
- Các anh làm ăn lật lọng quát
Mười Thôi nhấn mạnh:
- Bây giờ nói thiệt. Không phải là hàng lậu mà là vũ khí. Chúng tôi mua súng đạn về nước đánh Pháp. Chúng tôi sẽ thưởng các anh 40.000 Bath. Hẹn tới 10 giờ các anh phải nổ máy.
Vừa tuyên bố tối hậu thư, Mười Thôi bố trí đội hình:
- Ta chiếm phía trước, mỗi bên có sáu anh em võ trang. Thôi thủ súng ngắn đứng giữa chỉ huy.
Máy trưởng, một người lực lưỡng nhào tới ôm Mười Thôi:
- Mấy anh định cướp tàu hả?
Mười Thôi chĩa súng:
- Cướp tàu hay không là chủ tàu lo. Anh là công nhân.
Đẩy lui máy trưởng, Mười Thôi hỏi thuyền trưởng:
- Đi hay không cho tôi biết?
- Đi đâu?
- Đi theo tôi. Hạ lệnh nổ máy đi.
Thuyền trưởng khóc:
- Thương giùm tôi! Ba vợ mười mấy đứa con. Đi tàu cả đời chưa hề gặp vụ này!
Trong khi chờ đợi thuyền trưởng và máy trưởng suy nghĩ, Mười Thôi phân công:
- Ban thay thuyền trưởng, Sáu Ngọc thay máy trưởng.
Sáu Ngọc mày mò máy tàu hồi lâu, không điều khiển được vì anh chuyên lái ca-nô, nay gặp phải tàu lớn, không biết đâu mà rờ. Mười Thôi nhờ hai Hoa kiều thuyết phục thợ máy không được, họ thuyết phục thợ điện. Anh này người Indonésia có cảm tình với Việt Nam. Anh này nhỏ to với máy trưởng. Máy trưởng cho biết máy không nổ vì chân vịt bị quấn. Mười Thôi ra lệnh:
- Nhảy xuống chặt dây đỏi đi.(dây buộc thuyền).
Nghe máy trưởng nói, Nuôi, anh thanh niên Quảng Ngãi cởi áo xách dao nhảy xuống biển. Ai nấy đều lo sợ cho anh. Nhưng vài phút sau, anh leo lên tàu và đưa ra một khúc đỏi. Chặt đỏi rồi, máy nổ nhưng tàu không ra khỏi đảo. Xem lại thì hai tay Nắng với Ghế chỉ lái canô chưa biết điều khiển tàu. Mãi đến 11 giờ trưa mới đi được.
Ba giờ chiều hôm sau lại bị bão. Tàu lắc 45 độ. Đài VTĐ ngã lăn hỏng máy không dùng được. Phải chạy rối sóng. Anh em trên tàu đều nôn mửa. Buồn cười là thuyền trưởng Ban là người mửa trước tiên. Mười Thôi lo lắng điểm quân. Chỉ có năm người không nôn mửa. Là tay quân sự, anh biết đây là lúc thuận lợi cho thủy thủ ra tay cướp tàu lại. Kế Nắng cũng mửa. Mười Thôi bảo nhỏ Nuôi:
- Thủ kỹ cây tôm-xong không cho bất cứ tay nào tới gần.
Trên tàu lúc đó ngoài Mười Thôi ra chỉ có hai người không mửa, đó là Nuôi và Ghế.
Đúng như anh nghĩ, máy trưởng lấy cớ đổ nước tới gần Nuôi định cướp súng nhưng Nuôi đã được cảnh giác nên ghìm súng nhìn máy trưởng lom lom. Cứ cắn răng chịu bão đêm. Đó là một đêm dễ sợ nhất vì thủy thủ Thái có thể ra tay bất cứ lúc nào. Sáng hôm sau, thuyền trưởng già nói:
- Đi đâu thì cho tôi biết, chớ chạy vầy đâu được.
Nhìn mặt biển, Mười Thôi mới biết vì sao tay này xuống nước. Lão ta chuyên chạy sát bờ, nhìn núi mà đoán tọa độ. Còn bây giờ trời nước mênh mông, dù có thả cũng không biết đường về. Đêm thứ hai , Ban gọi Thôi lên phòng hoa tiêu, chỉ ánh sáng từ xa hỏi:
- Tàu hàng hay tàu binh?
Theo cách đốt đèn, Mười Thôi biết tàu trước mặt là tàu quân sự. Anh ra lệnh tăng tốc độ. Nhưng Nắng lắc đầu:
- Không được! Tàu mình tốc độ chậm. Không thể vượt qua đầu nó. Nên chạy vòng sau đít nó. Nếu tăng tốc độ, lửa sẽ bừng lên, địch dễ thấy.
Mười Thôi gật:
- Anh nói đúng. Nếu có sự cố mình sẽ ăn thua đủ.
Thuyền trưởng và máy chính thấy tàu nhà binh sợ xanh mặt. Nhưng Mười Thôi trấn an họ:
- Có gì mà sợ. Tụi tôi chấp. Súng ống cả tàu mà sợ nó sao?
Nhưng tàu nhà binh chạy qua không chú ý tới chiếc Darathip. Thế rồi bỗng nhiên, tàu chạy chệch hướng. Mười Thôi chạy lên phòng hoa tiêu thì thấy Ban ngủ gục vì quá mệt. Anh xem hải đồ, chỉnh lại. Tới đây, thợ máy giở trò hù dọa:
- Coi chừng hết dầu.
Nhưng Ban bảo đảm với Thôi là còn 180 phuy dầu.
Đến ngày thứ ba, lúc 13 giờ tàu tới một hòn đảo. Anh em mừng rỡ tưởng Hòn Khoai nhưng không phải. 16 giờ tới Hòn Chuối, Mười Thôi quyết định vô cửa Ông Trang. Không báo trước nên Mười Thôi ra lệnh kéo cờ đỏ sao vàng cho anh em du kích trên bờ biết đây là tàu của mình. Nhưng trời tối treo cờ cũng như không. Tàu lại mắc cạn. Làm sao? Sợ sáng máy bay lên, Mười Thôi và Sáu Ngọc thả canô vô bờ, đụng xóm Gò Công (dân Gò Công tới đây lập nghiệp nên gọi là xóm Gò Công) té ra đây là Bảy Háp chớ không phải Ông Trang. Hai anh đi tìm xã trưởng nhờ cho dân quân giúp chuyển súng đạn lên bờ, sợ máy bay bắn sáng hôm sau. Tới trạm gác, chờ tới nửa đêm không thấy xã trưởng. Hai dân quân lên tàu thấy súng nhiều quá, vui vẻ đưa hai anh qua cửa Ông Trang tìm cách đưa tàu vô, nhưng Ông Trang cũng cạn nước, lại trở về Bảy Háp.
Bốn người đang đi thì bỗng có tiếng hỏi:
- Ai?
Đó là trạm gác đốt đèn leo lét. Hai dân quân vội vàng rút lui. Mười Thôi trình giấy có chữ ký của Phan Trọng Tuệ, chính ủy Khu 9. Anh yên chí lớn với chữ ký của anh Bảy Tuệ với cái mộc đỏ thật to, nhưng trưởng trạm gác lạnh lùng nói:
- Giấy tờ cũng khó tin.
Im lặng một lúc, ông ta hô to:
- Xung phong!
Lập tức bốn dân quân nhào tới, hai người bắt một người trói lại, Mười Thôi kêu lên:
- Tại sao bắt trói?
- Anh đưa súng ra.
- Đây súng tôi đây, lấy súng tôi đi chớ đừng trói. Tôi nói trước là ngày mai, máy bay lên bắn chìm tàu súng đạn thì các anh đứt đầu đó. Tốt hơn là các anh cho tôi gặp chỉ huy của các anh.
Tới đây, một người cao lớn xăm xăm bước vô, mấy anh dân quân đồng thanh kêu:
- Anh Hai!
Chính anh này là xã đội trưởng, chưa nghe báo cáo gì hết, xã đội trưởng nói:
- Không nói chuyện gì hết. Giải về trụ sở.
Hai anh được đưa xuống xuồng. Mười Thôi ngồi mũi, vài phút sau thì xuồng ghe từ trong tuôn ra. Trên tam bản đi đầu có một người bộ vó quen quen, Mười Thôi chưa nhận ra thì người đó kêu to lên:
- Ê mình sao?
Thì ra đó là quân sự Điệp, chủ tịch xã Tân An. Nghe tin có tàu địch, anh dẫn đại đội ra đánh. Bấy giờ giám đốc thủy xưởng Nam Bộ là Thanh Ba chế được Bazoka nên khí thế rất hăng. Chừng đó xã đội trưởng mới biết Mười Thôi là ai. Ông tình nguyện dẫn Mười Thôi về Dây Chão gặp Thanh Sơn. Trên đường đi, anh Hai xã đội trưởng xuống nước:
- Anh thương tôi. Đừng báo cáo với anh Sáu, chắc tôi đứt đầu !
Ngay trong đêm đó, chiếc Darathip được trục vô cửa Bảy Háp và giấu kỹ trong rạch.
Anh Mười Thôi kết thúc câu chuyện đời xưa bằng một nụ cười thật tươi:
- Trong chín năm chống Pháp, tôi làm được nhiều việc nhưng vụ cướp tàu Darathip là kỷ niệm sâu sắc nhất trong đời tôi.