Niềm vui lớn nhất trong đời thuyền trưởng Huỳnh Kim Ngạnh - quê Cao Lãnh (Đồng Tháp) là hai chuyến ra Côn Đảo trong vòng một tháng rước 900 tù chính trị về đất liền tham gia kháng chiến. Đây là cuộc chạy đua nước rút với Hải quân Pháp, vì chuyến tàu Phú Quốc đầu tiên về tới Đại Ngãi (Sóc Trăng) vào ngày 23. 9. 1945 - ngày Tây đánh chiếm Sài Gòn.
Chuyến ra đảo lần hai liền hôm đó trải qua những ngày đêm căng thẳng khó tả.
Xin giới thiệu thuyền trưởng Bảy Ngạnh với chiếc tàu Phú Quốc của anh. Trong tập thể thuyền trưởng đã tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trên dưới đôi ba chục người, tại sao lại chọn anh Bảy Ngạnh? Không phải vì tài nghệ anh ăn trùm các đồng nghiệp mà chọn anh là vì kỷ niệm sâu sắc đời hàng hải của anh. Chuyến đi biển mà anh kể lại đây tuy đã 50 năm hơn rồi nhưng vẫn còn nóng bỏng một thời: chuyến ra Côn Đảo rước anh em chính trị phạm về đất liền tháng 9.1945.
Huỳnh Kim Ngạnh sinh năm 1910 tại làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là Đồng Tháp). Anh Bảy rất hãnh diện về quê hương Cao Lãnh của anh. Địa danh này đã đi vào ca dao nổi tiếng: "Gà nào ngon bằng gà Cao Lãnh, gái nào bảnh bằng gái Nha Mân". Nếu là dân ghiền thuốc rê thì bạn có thể sửa câu đầu thành. "Thuốc nào ngon bằng thuốc Cao Lãnh". Nhưng với đa số dân Cao Lãnh thì người ta thích đá gà hơn. Gà Cao Lãnh chết tại trường gà chứ không hề chạy rót. Dân Cao Lãnh cũng vậy: làm cách mạng thà chết trong tù hơn là đầu thú trong những năm thoái trào. Vì vậy mà Cao Lãnh từ năm 1930 đã là cái nôi cách mạng. Không phải ngẫu nhiên mà cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc chọn ấp Miễu Trời Sanh trong làng Hòa An làm nơi cư ngụ trong bước đường bôn ba hoạt động cách mạng.
Anh Bảy Ngạnh tốt nghiệp trường máy "École des Mécaniciens" (Nay là Trường Kỹ thuật Cao Thắng) khóa Patron des Chaloupes đào tạo các thuyền trưởng tàu chạy trên sông. Không hài lòng với kiếp cá sông, anh tình nguyện đi marine (lính hải quân) ba năm để đủ điều kiện học khóa "cabotage" đào tạo thuyền trưởng tàu biển. Ra trường, anh được tùng sự tại Sở Hàng hải tên là "Service de la Flotille et du Matériel" trực thuộc Thống đốc Nam Kỳ. Trụ sở đóng ở mé sông Sài Gòn.
Đảo chính Pháp, Nhật sung công chiếc Phú Quốc. Thất nghiệp, Bảy Ngạnh tới ghi tên tham gia Cộng hòa Vệ binh cũng gọi là Đệ nhất sư đoàn. Nhưng chưa kịp đánh đấm, anh lại được tin Lâm ủy Hành chính Nam Bộ ra lệnh cho Liên đoàn Thủy thủ chuẩn bị tàu De Lanessan đi ra Côn Đảo rước anh em chính trị phạm. Liên đoàn Thủy thủ là nơi tập hợp tất cả thuyền trưởng và thủy thủ sau ngày ta cướp chính quyền, ngày 25.8.1945. Linh hồn của Liên đoàn này là thuyền trưởng Tư Hóa. Tư Hóa tốt nghiệp khóa 1931, là khóa thứ hai, nổi tiếng nhờ đậu thủ khoa và có đức độ gương mẫu.
Được tin này, tất cả anh em hăng hái phục hồi chiếc tàu De Lanessan. Đây là tàu nghiên cứu về biển của Viện Hải học (Instutut Océanographique) ở Nha Trang. Khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9.3.1945, chúng sung công chiếc tàu này. Chạy được mấy tháng thì tàu hư, chúng đem bỏ tại một bến gần sở Ba Son, trước Một Hình (tượng đài tên hải tặc Rigault de Genouilly (ra cướp Nam Kỳ giữa thế kỷ 19). Trong số anh em thợ máy ráp lại o bế chiếc tàu có anh xếp máy Hoành là tay được Tư Hóa tín nhiệm hơn hết. Ông Chu Văn Hoành là thân phụ của nhà trí thức lớn Chu Phạm Ngọc Sơn. Máy móc đã sửa xong, anh em đốt lửa "lancer” cho chiếc tàu De Lanessan chạy thử. Tàu chạy ngon nhưng có một việc bất ngờ đã xảy ra làm anh em cụt hứng. Bọn Nhật thấy tàu chạy được kéo ào xuống, đuổi thợ lên. Thế là công cốc. Buồn không tả xiết, lúc đó là đầu tháng 9.1945. Có mới nới cũ, bọn Nhật có chiếc De Lanessan, bỏ chiếc Phú Quốc mà chúng vừa chạy vừa phá đã hỏng máy. Bảy Ngạnh cùng anh em trong Liên đoàn thủy thủ lại ào ra sửa. Ráo riết một tuần, tàu chạy ngon lành. Hay tin này Trần Văn Giàu ký lệnh cho Bảy Ngạnh đưa tàu Phú Quốc chở hàng tiếp tế ra Côn Đảo gồm gạo, nước mắm và thuốc men, đồng thời rước chính trị phạm ngoài đó về tham gia chính quyền cách mạng.
Bảy Ngạnh nhớ rõ ngày lịch sử đó : ngày 12.9.1945. Trong nắng thu, lá cờ hồng thập tự được kéo lên đỉnh cột cờ. Chọn cờ chữ thập đỏ để bọn Nhật không chặn bắt lại. Từ Sài Gòn trước khi ra biển. Trên tàu có 12 thủy thủ. Xếp máy là Ba Vui (Hồ Văn Vui) là dân Sa Đéc. Tàu ra đi từ sáng sớm. Không may ra giữa biển thì gặp sóng to gió lớn, tàu lắc lư như say rượu. Tất cả bàn ghế đồ đạc lăn cù lăn chiên. Nguy hiểm nhất là các thùng phuy xăng, chúng tự do lăn cho tới đụng chướng ngại thì tự dừng lại. Không ai dám mạo hiểm đón đường chúng. Đại diện chính quyền cách mạng đi trên tàu là Tường Dân Bảo và một chị phụ nữ. Cả hai nằm liệt trong ca bin, mỗi người thủ hai cái sô, một để đi tiêu và một để mửa. Anh Bảo là Việt Nam Quốc Dân đảng ra đảo năm 1930 , đến năm 1935 bị cắt cổ về tội phản Đảng Quốc dân cũng như anh Trần Huy Liệu. Còn Nguyễn Phương Thảo (tức Nguyễn Bình) thì bị đâm hư một mắt cũng về tội chuyển hướng bỏ Quốc Dân đảng hướng về phía cộng sản. Nhờ thuyền trưởng và thủy thủ đoàn dày dạn sóng gió, tàu Phú Quốc chạy giác nương theo sóng mà lần hồi tới đảo vào 9 giờ đêm. Tàu dừng lại Cỏ Ống chớ không vô bến vì lý do kỹ thuật. Trên đảo có đài vô tuyến, ác thay đài nghe được mà phát không được, không điếc mà câm. Thấy tàu lạ, anh em trên đảo sợ là tàu Tây, nổi trống mõ inh ỏi. Ta cho ca-nô của đảo ra tàu chào mừng phái đoàn Sài Gòn và cho biết trên đảo chuẩn bị làm mít ninh trọng thể. Nhưng sứ giả của phái đoàn còn xật xừ say sóng nằm liệt nên phải hoãn mít tinh đến chiều. Thuyền trưởng Bảy Ngạnh tất nhiên được mời ngồi hàng ghế danh dự. Vui mừng làm sao khi anh gặp lại bạn đồng hương Cao Lãnh là đồng chí Phạm Hữu Lầu. Cả hai nhào tới ôm nhau. Người quen thân thứ hai của anh là thuyền trưởng Hùng đã lái canô ra tàu hồi sáng.
Bảy Ngạnh tưởng sẽ đưa anh em chính trị phạm về đất liền ngay, nhưng không phải vậy. Anh và thủy thủ đoàn phải nằm lại đảo một tuần vì lý do chờ lọc danh sách những người được ưu tiên đi chuyến đầu. Chính trị phạm về trước, thường phạm sẽ làm danh sách sau. Trong khi chờ đợi có tin hai ba chục ghe cửa từ Vàm Láng, Bình Đại... bị bão trôi giạt tới các hòn trong quần đảo Côn Lôn. Đích thân anh Phạm Hùng theo tàu Phú Quốc tới các hòn này kéo các ghe cửa về đảo lớn. Nhiều ghe bị bão đánh gãy cột buồm, gãy bánh lái. Xưởng trên đảo gọi là Bản chế phải làm việc ngày đêm để sửa chữa cho các ghe này để có thể đưa anh em tù về đất liền cùng một ngày với tàu Phú Quốc. Trong những ngày này, Bảy Ngạnh để ý một người chỉ huy đội bảo vệ trên đảo. Các anh em tập đi một hai một, quay phải quay trái. Hỏi mới biết đó là anh Phan Trọng Tuệ.
Anh cũng biết một nhân vật khác nữa, đó là Còm-mi Trà (Lê Văn Trà), người được giao nhiệm vụ trông coi đảo sau khi anh em chính tri phạm về đất liền. Còm-mi Trà là bạn học của Năm Sang, anh ruột của Bảy Ngạnh.
Bản danh sách đã làm xong. Trên đường về có hai nhân vật được anh Bảy Ngạnh chú ý, người thứ nhất là ông Tôn Đức Thắng. Chính cụ Tôn o bế chiếc ca-nô trên đảo và lái nó về đất liền. Anh Bảy Ngạnh có nhiệm vụ bảo vệ chiếc ca-nô của Bác Tôn. Anh cho ca-nô chạy trước và dùng vô tuyến điều chỉnh hướng đi, trên tàu Phú Quốc có la bàn. Nhân vật thứ hai là nhà sư Thiện Chiếu. Nhà sư quá suy yếu, anh em phải khiêng xuống tàu. Về kỹ thuật, khi đi tàu có chở hàng nên mớm nước vừa phải, bận về không có hàng hóa, phải nhờ anh em thường phạm khiêng đá xuống tàu. Trong công việc này có một anh trốn dưới hầm tàu để được về cùng chuyến với anh em chính trị. Nhiệm vụ thuyền trưởng bắt buộc anh Bảy mời kẻ trốn đi lậu lên bờ. Chuyện chỉ có vậy mà anh áy náy khá lâu.
Bận về trời yên biển lặng. Tàu về tới Đại Ngãi. Tại đây, có xe đến đón để đưa tất cả về Sóc Trăng làm lễ đón tiếp chính trị phạm tại trường Taberd. Ngày ấy, thuyền trưởng Bảy Ngạnh không thể quên được. Trong lúc làm lễ có tin Tây đánh chiếm Sài Gòn. Như vậy là ngày 23 tháng 9. Chưa kịp nghỉ ngơi thăm vợ con, anh Bảy lại được lệnh ra đảo lần thứ hai rước tù chuyến nữa. Phải chạy đua nước rút với Tây. Đại diện chính quyền cách mạng là anh Văn Cừ, chủ hiệu mộc ở Cần Thơ lấy tên là Ameublement Văn Cừ. Anh Văn Cừ hoạt động cách mạng bị địch bắt đưa lên căng Tà Lài, sau đó chuyển qua Bà Rá. Ngày Nhật đảo chính, anh Văn Cừ cùng với vác bạn tù đốt trại về quê hoạt động.
Chuyến đi này thủy thủ đoàn có phần hồi hộp vì Tây đã khai hấn. Có thể chúng cho tàu ra đảo chụp tù chính trị còn kẹt lại. Chuyến thứ hai may mắn không gặp bão. Nhưng lại gặp rắc rối: thường phạm đòi trở về đất liền đánh Tây. Nhưng chuyện lên danh sách lại là việc của kẻ khác, còn Bảy Ngạnh chỉ lo đưa tàu và người đi tới nơi về tới chốn. Ra đảo lần thứ hai này, anh Bảy còn biết thêm một nhân vật tên Sơn Vương, người tù ở đảo nhiều năm nhất.
Chuyến này tàu Phú Quốc về thẳng Cần Thơ. Hai chuyến đi Côn Đảo đã hoàn thành tốt đẹp. Nhưng còn số phận của chiếc Phú Quốc? Tây đã chiếm miền Tây . Hải quân của chúng ngày đêm tuần tiễu sông rạch Hậu Giang. Làm sao giữ con tàu mà chính quyền cách mạng đã giao cho thuyền trưởng Bảy Ngạnh. Tàu Phú Quốc đang ở trên sông Cần Thơ. Muốn chạy xuống Chắc Băng ẩn trong rừng U Minh phải theo Ô Môn. Cầu Ô Môn thấp, chòi lái chiếc Phú Quốc cao nên không qua lọt. Phải phá cầu. Chạy về tới Cái Tàu, nhắm không trốn thoát, phải hy sinh chiếc tàu. Bảy Ngạnh cho thủy thủ bơm nước vô nhưng lâu quá, ra lệnh đục tàu. Nước tràn vào ngập tàu, chiếc Phú Quốc chìm nhưng còn ló mũi như tiếc nuối thời oanh liệt hai lần vượt biển rước những đứa con cưng của Tổ quốc.