Tiểu sử, Hồi ký
Tác giả: Nguyên Hùng

Nam Bộ - Nghững Nhân Vật Một Thời Vang Bóng

Chương 43: CHƯƠNG VIII: CÁC THUYỀN TRƯỞNG DỌC NGANG VỊNH THÁI LAN - THUYỀN TRƯỞNG TƯ HÓA XỨNG DANH SÓI BIỂN

Thuyền trưởng Nguyễn Văn Hóa, người công giáo Tân Đinh, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, đậu thủ khoa, được đồng nghiệp Pháp suy tôn "loup de mer” (Sói biển).

Ông xứng đáng với danh xưng đó, từ Cà Mau qua Xiêm như "đi chợ” chở súng đạn máy móc về Nam Bộ đánh Tây suốt chín năm kháng chiến.

Sự cố Sông Lô 7. 1949 đã khiến nghiệp của ông “khựng” lại suốt nhiều năm, nhưng ông Tư vẫn một lòng theo nghề nghiệp và theo cách mạng cho tới tận ngày nay - năm 2003.

Thuyền trưởng Nguyễn Văn Hóa thường được bạn bè ngành hàng hải gọi là Tư Hóa. Tư Hóa sinh năm 1915 tại Tân Định - Sài Gòn, gia đình đạo Thiên chúa. Ông tốt nghiệp hàng hải, Tây gọi là Capitaine de Grand Cabotage năm 1939 lúc 24 tuổi. Thuyền trưởng trong chế độ Pháp là vua trên tàu, nhất là tàu viễn dương thì cuộc sống thật là đế vương. Nhưng Tư Hóa bỏ hết tất cả để theo kháng chiến. Trong những năm đầu đánh Tây, ngành hàng hải là một bà con xa lạ, tuy đầy nhiệt tình nhưng chưa có đất dụng võ, cho đến khi ngành hàng hải Nam Bộ được thành lập. Nhiệm vụ của cơ quan này là mua vũ khí trên đất Xiêm (Thái Lan) đưa về nước đánh Tây. Ban đầu đi đường biển, về sau khi ta giúp nước bạn có lực lượng vũ trang mới mở đường bộ. Từ đó, vai trò của các thuyền trưởng được đào tạo căn bản như anh Tư Hóa mới nổi bật lên. Cuộc đời của anh gắn với chiếc tàu Sông Lô từng làm chấn động dư luận Đông Dương. Xin giới thiệu về số phận con tàu bất hạnh này cùng với số phận cũng bất hạnh của thuyền trưởng của nó.

Phó phòng hàng hải kiêm trưởng ban ở Thái Lan, Năm Đông, hoạt động rất tích cực trong giới Việt kiều ở Bangkok, số vũ khí mua được ngày càng nhiều, việc mua sắm tàu thuyền ngày càng tăng gia. Nhiều chuyến thuyền 10 tấn hoặc 15 tấn từ Xiêm về Rạch Giá, Cà Mau chở súng đạn cho Khu 9 êm xuôi. Đồng chí Thanh Sơn lúc đó vừa là "ông nội" (thanh tra chính trị miền Tây) vừa là "ông ngoại" (phụ trách chiến trường nước bạn) chỉ thị cho Năm Đông mua tàu lớn để gia tăng tốc độ tiếp tế vũ khí cho cả Nam Bộ. Do óc làm ăn lớn đó mà tàu Sông Lô ra đời. Năm Đông nhờ một Việt kiều tên Nguyễn Văn Bang quê Khu 4 từng hoạt động cách mạng ở Lào trước khi qua Thái. Đồng chí Bang giới thiệu một Hoa kiều tên Nai Sai (Nai tiếng Thái có nghĩa là ông) chủ chiếc tàu Samut Songram trọng tải 80 tấn với hai máy. Tư Hóa và Trần Hiếu Liêm (Liêm lùn) đến xem tàu về mặt kỹ thuật và thấy được. Ta mua tàu, tân trang và đổi lên là Sông Lô. Để giữ bí mật, vẫn để Nai San đứng tên làm chủ và mướn thủy thủ Thái . Đây là sự non kém về cảnh giác của ta khi dùng thủy thủ Thái trên tàu Sông Lô vì bí mật thất thoát từ đó. Thêm một sự cố không hay là có người thì thầm về việc mua tàu trả tiền hoa hồng cho các tay dẫn mối. Vì những lời ra tiếng vào này mà giới hàng hải Thái Lan biết chuyện "Yuồng mua tàu Xiêm đưa về nước" (Yuồng là người Việt). Chiếc Sông Lô được giao cho Tư Hóa. Bốn chục năm sau, anh Tư Hóa tâm tình với tác giả: "Lúc đó mình dại quá. Tàu Sông Lô đã bị bể rồi, nếu đã lỡ mua thì nên chở hàng trong nước Thái một thời gian rồi bán, mua chiếc khác. Anh em mình chủ quan quá! Lính kín Sài Gòn qua Bangkok theo dõi các hoạt động của Việt Minh rất nhiều mà mình đi đứng, ăn nói không chút giữ gìn. Thêm một lý do để chuyến đi bị lộ nữa là cái đài VTĐ giao cho anh Kim, mỗi ngày cứ đúng 12 giờ là phát tín hiệu với Trung ương.

Tháng 7.1949, tàu Sông Lô chạy chuyến đầu tiên chở hàng cho Khu 9 và hàng cho Trung ương. Ngoài thủy thủ đoàn có Capitaine Trọng quá giang đi Trung ương. Ban chỉ huy có thuyền trưởng Nguyễn Văn Hóa, thuyền phó Phan Thanh Nhã, Đặng Văn Qua, chính trị viên, máy trưởng Tư Ghế (Võ Thống Nhất).

Tới Klong Yai, thị trấn biên giới ta trả tiền và cám ơn số thủy thủ Thái, chiếc Sông Lô tiếp tục hướng về Cà Mau. Tới Dây Chão, ta đưa lên bờ hàng của Nam Bộ rồi trực chỉ ra Bắc. Một hôm, tới Tourane vào 17 giờ, bỗng máy bay Pháp ào qua rồi quần lại chụp ảnh. Trên tàu có trung liên FM, anh em định bắn nhưng Hóa không cho. Đêm đó, tàu tới Hải Nam. Trên đường băng qua vịnh Bắc Bộ, tàu bị các chiến hạm Pháp bao vây. Không chạy thoát được, ban chỉ huy quyết định đốt tàu. Hóa cho đổ các thùng phuy xăng, ra lệnh cho Tư Ghế: "Quẹt lửa đốt đi. Lửa cháy tới ai, người ấy nhảy xuống biển". Tư Ghế quẹt diêm hai sao (loại hộp quẹt sản xuất tại miền Bắc). Tức thì một tiếng "Brùm" kinh hồn, lửa bốc cháy một lúc cả con tàu, mạnh ai nấy nhảy. Đây cũng là một non kém của Tư Hóa. Anh chưa biết khi bật lửa đốt tàu thì cả tàu đã tẩm xăng cùng cháy một lúc, chứ không cháy nơi bật lửa trước rồi mới lan các nơi khác. Tư Ghế phỏng nặng và mất tích. Các tàu chiến Pháp bao chung quanh chứng kiến giờ phút cuối cùng con mồi của chúng. Chiếc Sông Lô chạy như cục lửa trên biển trước khi chìm. Anh em trên tàu có 13 người bị cháy, trong đó có hai anh Quá và Thức nặng nhất. Các anh được tàu Pháp vớt đưa về Hải Phòng, số bị phỏng được đưa vô bệnh viện, số lành mạnh đưa về Sài Gòn điều tra. Tổng số anh em trên tàu là 22 người, Tư Ghế mất tích còn 21 người. 8 người phỏng nặng nằm ở bệnh viện Hải Phòng, còn 13 người được đưa về Sài Gòn. Tư Hóa ngay từ đầu khai: thuyền trưởng chết với con tàu, còn mình là "passager" (người quá giang). Tại Hải Phòng, anh vẫn giữ lời khai đó. Bất ngờ có sĩ quan Phòng Nhì Pháp là Faravel từ Sài Gòn ra điều tra vụ tàu Sông Lô. Faravel từng là thuyền trưởng, bạn của Tư Hóa trước kia. Hai người gặp nhau tại Hongkong và quen nhau. Tư Hóa đi tàu hàng hải còn Faravel thì chỉ huy chiến hạm. Gặp Tư Hóa tại Hải Phòng, Faravel hỏi: “Mày ở đây à?". Tư Hóa bị phỏng ở lưng và tay, thấy Faravel đã nhận ra mình đành thú nhận là thuyền trưởng Sông Lô. Nhờ biết Faravel nên Tư Hóa đỡ bị đòn khi Phòng Nhì điều tra. Chừng bệnh tình bớt nguy, 8 anh em được đưa vô Sài Gòn để Phòng Nhì làm hồ sơ chung cho 21 người trong nội vụ Sông Lô. Báo chí Sài Gòn làm rùm beng vụ chiến hạm Pháp vây và bắn chìm tàu Sông Lô trọng tải 80 tấn trên vịnh Bắc Việt. Đây là một vấn đề thời sự nổi bật trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1949.

Nửa năm sau, đầu năm 1950, để quảng cáo cho Bảo Đại, Tây thả thủy thủ đoàn tàu Sông Lô. Trừ một mình đại úy Trọng bệnh nặng cần điều trị tại nhà, 20 anh em Sông Lô đều chạy vô khu tiếp tục kháng chiến.

Thuyền trưởng Tư Hóa kể cho tôi nghe số phận của anh gắn chặt với chiếc Sông Lô. Anh chép miệng tâm sự :

- Chiếc Sông Lô đã nằm yên dưới đáy biển còn thuyền trưởng của nó thì vẫn còn chịu nhiều sóng gió. Anh biết không, khi tôi được Tây phóng thích, lập tức tôi nhảy vô khu để gánh bao nhiêu bực bội. Người ta nhìn chúng tôi với cặp mắt nghi ngờ, bây giờ mình gọi là cảnh giác. Tôi phải làm không biết bao nhiêu tờ kiểm điểm, trong đó phải trả lời những câu hỏi này: Tại sao đốt tàu? Tại sao địch thả?

Tôi bảo anh em để một mình tôi chịu hết, bởi tôi là thuyền trưởng. Tôi viết nhiều lần và lần nào cũng vậy, tôi nhân danh thuyền trưởng xin chịu hết trách nhiệm. Lẽ ra thì tôi phải thanh minh cho mình, vì có nhiều nguyên nhân để chiếc Sông Lô bị lộ. Xin tóm lược riêng cho nhà báo muốn tìm hiểu sự thật các điểm dưới đây:

- Việc mua tàu Samut Songram đã lộ ngay từ đầu vì vụ xầm xì về các món tiền hoa hồng.

- Việc dùng thủy thủ Thái Lan trên tàu Sông Lô cho tới trạm Klong Vai.

- Việc dùng VTĐ liên lạc với trung ương đúng 12 giờ mỗi ngày.

- Việc dùng tàu lớn trong khi chúng ta còn trong giai đoạn đánh du kích. Những chiếc tàu nhỏ như Độc Lập của Bông Văn Dĩa rất thuận lợi cho việc vô ra các xẻo, khi máy bay lên, tàu nhỏ dễ nghi trang cất giấu. Đây là khuyết điểm căn bản mà các đồng chí lãnh đạo phải dũng cảm nhận thay vì đổ lỗi cho cấp dưới.

- Việc không tin thuyền trưởng chưa phải đảng viên. Hàng đêm chi bộ trên tàu đều họp, nhưng trớ trêu thay thuyền trưởng là đầu não của con tàu lại không được dự.

Những khuyết điểm này đến địch cũng biết. Faravel đã cười ngạo nghễ nói với tôi : "Vous êtes tous comme des enfants. Nous savons d'avance tous vos déplacements" (Các anh như con nít. Chúng tôi biết trước sự di chuyển của các anh). Chúng còn biết cặn kẽ ngày tàu Sông Lô rời Dây Chão để ra Bắc. Sông Lô rời Dây Chão ngày 13 tháng 8 năm 1949.

Ông Tư Hóa ở lầu 1 chung cư trên đường Trần Huy Liệu, quận Phú Nhuận. Với tuổi 73 (năm 1988) ông hãy còn tráng kiện, người cao ráo, phong cách chững chạc của một con sói biển. Ông nhấc bổng chiếc xe đạp của tôi bước một mạch lên phòng ông, cười nói: "Đem lên đây chắc ăn. Mình tha hồ nói chuyện". Với cái tuổi thất thập cổ lai hy, ông Tư vẫn còn làm hoa tiêu cho các tàu từ thành phố Hồ Chí Minh xuống miền Tây hay qua Nam Vang. Tôi nhìn tủ sách thuyền trưởng của anh. Sách đủ thứ tiếng. Ông Tư cười nói:

- Tôi biết sáu sinh ngữ. Đó là do nghề nghiệp bắt buộc.

Tôi nhìn bức tượng Đức Mẹ Maria, ông Tư tự giới thiệu:

- Gia đình tôi là đạo dòng, quê ở Tân Định - Im lặng khá lâu, ông nói tiếp: - Như tôi đã nói lần trước, các thuyền trưởng chúng tôi đi kháng chiến gặp nhiều trở ngại. Trước nhất là cái nghề của chúng tôi hết sức xa lạ với những người lãnh đạo. Những hiểu biết của mình trở thành xa xỉ, chưa cần thiết trong những ngày đầu kháng chiến, như vốn sinh ngữ cũng như nghề hàng hải. Tôi lại là người theo đạo Chúa. Với thành phần lý lịch như vậy lại gặp chuyện không may tàu chìm, bị bắt rồi được thả, lại nhảy vô khu. Tập kết ra Bắc, giới thuyền trưởng chúng tôi đóng góp hết mình cho việc mở cảng Hải Phòng. Còn nhớ lúc đầu Bác Hồ hỏi ông Nguyễn Văn Trân (chớ lầm với ông Bảy Trân nguyên Chủ tịch Chợ Lớn): "Các chú có làm nổi không? Không nổi thì ta nhờ chuyên viên bạn giúp". Chúng tôi tin tưởng đủ sức, không phải nhờ người ngoài. Thế là trên 19 hải lý từ Hải Phòng vô Hà Nội, các thuyền trưởng Nam Bộ tập kết đã làm hoa tiêu cho các tàu viễn dương Âu, Á đem hàng chiến lược giúp đỡ Việt Nam chặn bước xâm lăng của đế quốc Mỹ.

Sự đóng góp âm thầm nhưng vô cùng quan trọng của đội ngũ "đạp đầu sóng dữ" miền Nam cần được sử xanh ghi vào những trang trịnh trọng.

Hết Chương 43: CHƯƠNG VIII: CÁC THUYỀN TRƯỞNG DỌC NGANG VỊNH THÁI LAN - THUYỀN TRƯỞNG TƯ HÓA XỨNG DANH SÓI BIỂN
Thông tin sách