Kỹ sư Trịnh Văn Hà là đại điện tù Côn Đảo. Nhân dịp Cao ủy Bollaecrt về Pháp ghé đảo, chủ ngục ra lệnh tù diễn kịch cho Bollaecrt xem. Thay vì diễn hài kịch "Le Ledicin malgré lui " (Y sĩ bất đắc dĩ ) của Moliere, nhưng anh Thắng lại đọc bài diễn văn tố cáo chế độ thực dân xâm chiếm thuộc địa. Cả sân khấu đều như bị điện giật, nạn nhân trước nhất là chúa đảo đã để bọn tù áo trắng giỡn mặt với vị đại thần số một của Đông Dương.
Chúng tôi ra Côn Đảo ngày 6.8.1947, trong chuyến tù thứ ba; gần 400 anh em tù Khám Lớn xuống tàu. Cũng cần nhắc lại hai chuyến ra trước. Chuyến đầu tiên chở trên 300 tù cập bãi Nhà Thờ vào trưa ngày 27.5.1946. Phần lớn là anh em kháng chiến, trong đó có 56 người mang án tử hình và 22 chiến sĩ Vệ Quốc đoàn thuộc đại đội Ký Con bị bắt trong trận giao tranh tháng 11.1945. Đại đội trưởng Nhâm Ngọc Bình bị kết án tử hình, sau giảm xuống chung thân khổ sai. Dưới thời giám thị trưởng Gimbert, xảy ra vụ Công-plô, Pháp gọi là Affaire de Complot, mà chủ mưu là Gimbert bịa chuyện Giám thị trưởng Toustout thân Việt Minh để loại trừ phe không ăn cánh với chúng. Trong vụ này Gimbert sử dụng những tên tù gian Đoàn Công Thành, Nguyễn Thành Út, Lê Trọng Nghĩa bịa ra vụ "âm mưu cướp đảo” để thực hiện hai mục đích: loại giám thị trưởng và tạo cớ khủng bố tù kháng chiến. Vụ Complot gây tác hại nghiêm trọng đến mức Thủ tướng Nam Kỳ tự trị Nguyễn Văn Thinh phải đích thân ra đảo điều tra. Kết quả là tên Gimbert bị đổi đi. Nạn khủng bố cũng giảm bớt.
Chuyến tù thứ hai ra đảo ngày 2.9.1946. Anh em gọi đây là chuyến tù áo trắng. Đại úy Hornecker (người Pháp gốc Đức) cùng ra đảo trong chuyến tàu đó để nhận chức Giám đốc. Còn chức giám thị trưởng của Gimbert thì được Himaire thay. Hornecker là Đảng viên Đảng Xã hội Pháp nên đối xử với tù khác hơn các giám đốc trước. Ông nghiêm cấm gác-dan đánh đập tù vô cớ. Ông cũng xem lại toàn bộ vụ Complot và gửi báo cáo lên Cao ủy Pháp (tương đương với chức Toàn quyền Đông Dương trước 45). Nhờ vậy, Toustout được miễn tố. Các tù nhân bị Gimbert bắt oan được giải tỏa. 12 anh bị tố là Ban Tham mưu vụ cướp đảo trong đó có các anh Võ Oanh, Tư Ba Đào, Lương Văn Thắng, Nguyễn Văn Đường, Trần Văn Lai, Trần Văn Trung, Trần Văn Sử, Tư Mách, Tư Tỷ. . . được đưa về Khám 2 bổ sung kíp may quần áo tù. Do cách đối xử nhân đạo với anh em tù chính trị nên Hornecker được anh em gọi là "Đại úy Việt Minh".
Xin trở lại chuyến tù thứ ba ra đảo ngày 6.8.1947. Bấy giờ giám đốc đảo là đại úy Brulé thay đại úy Hornecker từ tháng 5.1947 theo lệnh của Cao ủy Bollaert. Anh em gọi tên này là thằng Ba Cháy. Khác với các tay võ biền, Jacques Brulé có bằng cử nhân văn chương và có tham vọng ghi dấu ấn của mình trong thời gian làm chúa đảo. Với số tù nhân mới ra, nhân số tù trên đảo lên tới số ngàn. Cụ thể là 960 người . Nắm cả phần xác lẫn phần hồn cả ngàn sinh mạng, oai lắm chớ. Công việc đầu tiên của Ba Cháy là sửa sang lại các cơ sở trên đảo như nhà giam Sở Muối để thay Sở Rẫy An Hải sắp sập đổ; tăng nhân công Sở Bản chế (Atelier) đóng một sà-lan gỗ trọng tải 40 tấn để chuyển hàng từ tàu lớn vô bờ.
Trận mưa ma-trắc tại Cầu Tàu 914
Trời yên biển lặng suốt ngày 6.8.1947, nhưng khi tàu cặp bến Cầu Tàu 914 thì giông bão nổi lên dữ đội . Cả đại đội thầy chú trực sẵn hai bên đường, thẳng tay nện ma-trắc xuống đầu anh em tù vừa mới tới cái cầu tàu đã được xây lên trên thân xác của 914 người tù xấu số. Không biết tục lệ tiếp đón tù Sài Gòn ra đảo bắt đầu từ đời tên chúa đảo nào, nhưng ý chí bất khuất của những người chiến sĩ sa cơ nhất định phải chống lại, dù phải trả giá nào. Cảnh tượng 400 tù nhân xếp hàng hai, tay mặt người này còng với tay trái người kia, bị đập dùi cui lên đầu lên mặt, máu chảy ròng ròng, thấm ướt cả áo quần, rơi xuống đỏ đường khiến bao nhiêu người sục sôi bầu máu nóng. Bọn gác-dan và lính đang điên cuồng nện dùi cui lên đầu lên cổ đám người chiến bại thì bỗng một tiếng thét vang lên dữ dội làm chúng giật mình dừng tay lại:
- Arrêtez! Pas de barbarie ici! (Ngừng tay lại ! Không được giở trò dã man ở đây !) .
Tiếng thét thật oai. Giọng Tây chính hiệu người Paris. Bọn gác-dan Tây nhìn nhau ngơ ngác. Ai ra lệnh cho chúng dừng tay lại vậy? Ông Tây nào có quyền phá vỡ cái thông lệ "averse de matraques" (mưa dùi cui) để giằn mặt bọn tù Khám Lớn Sài Gòn. Chúng còn đang hoang mang thì một tiếng hô to tiếp theo, lần này bằng tiếng Việt:
- Ngẩng cao đầu mà đi tới, anh em ơi !
Thừa lúc bọn lính ngơ ngác, anh em tù ngẩng cao đầu tiến bước. Khí thế bỗng chốc đột biến. Chừng bọn gác-dan sực tỉnh lại thì bàn tay của chúng cũng đã bớt hăng hái . Và chúng biết trong chuyến tàu này, mấy trăm tù Khám Lớn ra đảo có một người phụ trách. Người đó là trí thức nói tiếng Tây cũng giòn như xừ Capitaine Jacques Brulé thuộc binh chủng Lê dương thiện chiến. Sự kiện đáng chú ý này được báo lên giám đốc Ba Cháy và ngay hôm sau, đại diện được Ba Cháy mời lên văn phòng:
- Anh là kỹ sư nông nghiệp, tên Trịnh Văn Hà, lại còn có tên là Nguyễn Văn Tư, sao nhiều tên vậy?
- Nguyễn Văn Tư là tên cha mẹ đặt. Còn Trịnh Văn Hà là tên kháng chiến.
Ba Cháy gật gù:
- Cán bộ Việt Minh nào cũng có thêm cái tên tự đặt mà tôi gọi là "nom de guene" (tên chiến sĩ ). Anh là kỹ sư canh nông, tất nhiên là anh yêu thiên nhiên cây cỏ, thích trồng trọt. Vậy tôi giao cái vườn rau cải của giám đốc cho anh trông coi. Có được không?
Tư Hà nhìn theo cánh tay của Ba Cháy. Đó là một vuông đất gần như vuông vức bề cạnh 50 thước, đang trồng cải xà lách, cà tô mát và măng tây.
Anh gật đầu:
- Ra đây mà được ông giao việc đúng với ngành nghề thì thật là một may mắn cho tôi.
Ba Cháy nhìn thẳng vào mắt Tư Hà nói:
- Tôi chỉ yêu cầu anh một việc: Chấm dứt ngay cho việc kích động tù nhân chống lại lính gác-dan như hôm qua.
Tư Hà nhìn Ba Cháy, thẳng thắn đáp:
- Ông dùng chữ kích động là không đúng. Tôi chỉ phản ứng theo bản năng tự vệ. Chúng tôi mới tới đảo, chưa vi phạm một nội qui nào mà bị một trận mua matraque tàn bạo như vậy là không thể chấp nhận được. Tôi chỉ la lên : "Hãy dừng tay lại". Chỉ có thế thôi. Với tư cách là "représentant général" (tổng đại diện) tôi phải lo cho anh em cũng như cho bản thân lôi, những người chiến sĩ bưng biền phải được đối xử tử tế. Đại úy là người Pháp mới, biết kính trọng các chiến sĩ bưng biền thời chống quân Đức chiếm đóng trong Đệ nhị thế chiến thì chúng tôi cũng mong đại úy thông hiểu tâm trạng của chúng tôi.
Ba Cháy gật gù một lúc rồi nói:
- Bắt đầu từ hôm nay, anh trông coi cái potager (vườn rau ) của tôi. Tôi có hạt giống melon (dưa hấu Tây), anh trồng thử xem.
Tư Hà bắt đầu tìm hiểu tên chúa đảo Jacques Brulé. Bọn Tây xem Côn Đảo là vùng đất quân sự nên giao cho sĩ quan Hải quân trông coi. Ba Cháy, gọi theo anh em tù: quan ba thì gọi là Ba, quan tư thì gọi là Tư, Brulé là Cháy-là nhà binh, nhưng có khác một chút: anh ta đậu cử nhân văn chương. Điều này rất hiếm. Tư Hà biết sở thích và cũng là sở trường của chúa đảo nên thường đem văn chương ra nói mỗi khi gặp ông ta. Cần tạo tình cảm trước đã rồi tùy nghi mà đưa ra từng vấn đề cải thiện đời sống trong khám giam.
Ba Cháy thường mặc sắc phục đại úy Lục quân, quần short, sơmi kaki vàng, đội calot, vai mang ba lon vàng. Mặt xương cương nghị.
Tư Hà chăm sóc vườn rau của chúa đảo xanh mướt hơn trước. Ba Cháy rất hài lòng về mấy chục cây melon lần đầu tiên được trồng trên đảo. Tư Hà chỉ để mỗi dây một hai trái, do vậy mà trái rất to. Chiều chiều hai vợ chồng chúa đảo thích ra vườn rau ngắm dưa hấu Tây. Có một trái to nhất, có thể cắt cuống đem về nhà ăn, nhưng Marianne-vợ Ba Cháy thích để lại vườn để chiều chiều ra ngắm. Thế rồi, hôm sau trái melon "yêu quí" bỗng nhiên mất tích. Bà vợ chúa đảo cự Tư Hà ác liệt. Nhưng Ba Cháy biết tù nhân không ai dám làm hỗn như vậy. Ông ta điều tra thì té ra mụ đầm vợ thiếu tá hải quân Meynier lén hái trái dưa đẹp nhất vườn. Thiếu tá Maynier chỉ huy trạm liên lạc hải quân của Hạm đội Viễn Đông đặt trên đảo để tăng cường an ninh trên đảo theo yêu cầu của Ba Cháy. Sau đó Marianne xin lỗi Tư Hà và tiếp tục tìm người tù kỹ sư canh nông để nói chuyện tào lao cho qua những ngày sống lưu đày trên hòn đảo ngục tù. Nhờ tình cảm của Marianne mà Tư Hà được Ba Cháy tín nhiệm thêm. Qua những trao đổi có vẻ như bâng quơ Tư Hà được biết quan điểm về tù chính trị của chúa đảo. Ông ta nhận định tù chính trị khó cai quản gấp mấy lần tù thường phạm, khó về mọi phương diện. Trước Brulé, quan ba Việt Minh -tức chúa đảo người Pháp gốc Đức Hornecker đã có những cải tiến chế độ nhà tù dễ thở hơn thời tên ác ôn Gimbert. Brulé cứ tiếp tục hệ thống tổ chức do đại úy Việt Minh để lại. Khẩu hiệu của Ba Cháy là "chuyện ai nấy làm". Thấy Ba Cháy thích văn chương, Tư Hà đề nghị lập ban kịch để giải trí cho anh em trên đảo. Ba Cháy đồng ý ngay với điều kiện là phải diễn kịch Pháp, diễn viên phải nói tiếng Pháp. Tư Hà liền liên hệ với các anh có năng khiếu về kịch như các anh Phan Văn Đại, Lương Văn Thắng, Lưu Văn Lê, Hoàng Hữu Kình chuẩn bị kịch bản và diễn viên. Anh Phan Văn Đại có vở kịch thơ, anh Lương Văn Thắng có vở kịch "Hội sợ vợ", anh Lưu Văn Lê kiếm được vở kịch của Molière tựa là "Le médecin malgrélui" (Thầy thuốc bất đắc dĩ ). Để làm vừa lòng Ba Cháy, ban kịch diễn vở hài kịch "Thầy thuốc bất đắc dĩ", rất được Tây đầm khen tù chính trị Việt Minh diễn kịch thật hay, nói tiếng Tây "giòn rụm". Thừa thắng xông lên, anh em xin được diễn kịch tiếng Việt, tất nhiên nội dung được dịch ra cho Ba Cháy duyệt trước. Vở "Hội sợ vợ" được Ba Cháy thông qua và anh em tập tuồng để chuẩn bị chương trình văn nghệ Xuân Mậu Tý (1948). Giáp Tết năm ấy, có phái đoàn chính phủ Nam Kỳ ra thăm Côn Đảo gồm có Trần Văn Ân, Bộ trưởng thông tin, Nguyễn Khắc Vệ, Bộ trưởng tư pháp và Lê Tấn Nẫm, Thứ trưởng nội vụ. Trong dịp này, Ba Cháy mời khách quí xem tù diễn kịch. Đêm diễn có vở hài kịch "Le bourgeois gentilhome" (Trưởng giả học làm sáng), nhạc cảnh "Công chúa ngủ trong rừng", kịch vui "Hội sợ vợ". . . Khán giả hết lời ca ngợi. Vợ thiếu tá hải quân Meynier nói: "Tôi có cảm tưởng như ngồi trong một rạp hát ở Paris". Gác-dan Loiseau xin xem cho được các bộ quần áo sang trọng của các diễn viên đóng vai trưởng giả. Hắn trố mắt kinh ngạc khi thấy áo lộng lẫy trong đêm diễn bằng bao bố tời nhuộm, râu tóc làm bằng tơ gai, phấn son là thuốc đỏ, ký ninh vàng... Trần Văn Ân buột miệng tuyên bố: "Ở tù như mấy anh có khác nào đi nghỉ mát". Một diễn viên đốp lại: "Vậy thì xin mời ông ra đây nghỉ mát". Chuyện diễn kịch ở đảo đã gây tiếng vang mà suốt đời Cao ủy Bollaert không thể nào quên.
Mùa thu năm 1948, Bollaert mãn nhiệm kỳ Cao ủy. Trên đường về Pháp, hắn ghé Côn Đảo. Nhân dịp này, Ba Cháy lại khoe đội kịch tù chính trị Việt Minh. Hắn ra lệnh cho đội kịch diễn tuồng "Le médecin malgré lui”. Ban kịch hội ý rất lâu về việc có nên làm trò cười cho tên thực dân đáng ghét đó hay không? Tư Hà cương quyết không diễn kịch phục vụ thằng chó chết Bollaert. Anh Lương Văn Thắng thì đề nghị nhân đêm kịch, ta tố cáo tội ác thực dân trên hòn đảo địa ngục trần gian này. Sau cùng đi tới nhất trí: diễn kịch trước, tố cáo sau. Tư Hà lãnh phần soạn diễn văn tố cáo, còn Lương Văn Thắng là người đọc bài diễn văn đó, vì Thắng là người đề xướng tố cáo chế độ Côn Đảo trước mặt Bollaert. Đội kịch cũng nhất trí rút đêm diễn còn lại một màn ngắn gọn, rút bớt số diễn viên để hạn chế tổn thất. Chỉ còn năm diễn viên trong ban kịch tù áo trắng gồm các anh Lương Văn Thắng, Nguyễn Ngọc Lân (thư ký Kho bạc), Trần Duy Giang (thư ký văn phòng giám đốc), Lưu Phè (Sở rẫy) và Quảng (hợp tác xã tiêu thụ). Bollaert xem kịch ngay trên tàu viễn dương chứ không thèm bước xuống hòn đảo ngục tù. Ba Cháy cho cũng đưa đội kịch ra tàu lớn . Trên tàu có các khán giả cao cấp như đô đốc tư lệnh hải quân Pháp tại Viễn Đông Battet và đám phóng viên hãng AFP (Agence Francaise de Presse) các báo Joumal d'Extrême Orient (Viễn Đông nhật báo), Courrier de Saigon (Sài Gòn nhật báo). Vợ chồng trung tá hải quân Meynier và vợ chồng Ba Cháy tất nhiên cũng có mặt trong đêm lịch sử này.
Bất ngờ làm sao, thay vì diễn kịch trước, tố cáo sau thì Lương Văn Thắng tự tiện thay đổi chương trình. Màn vừa kéo lên, thay vì đào kép ra thì anh Thắng dõng dạc bước ra móc túi lấy tờ diễn văn ra đọc. Ba Cháy xanh mặt, nhưng không đối phó kịp. Anh Thắng tố cáo chế độ thực dân được vài câu thì Bollaert xô ghế đứng lên nạt lớn: "Assez! Vous êtes tous des tenoristes, des assassins" (Thôi đi! Mấy người đều là quân khủng bố, quân sát nhân). Đêm kịch kết thúc hoàn toàn bất ngờ cho cả hai phía. Phía Bollaert, Battet các phóng viên bất ngờ đã đành, còn đội kịch cũng bất ngờ. Trong một phút bốc đồng, anh Thắng đã phá hỏng kế hoạch mà Tư Hà bố trí theo nguyên lý "tiên lễ hậu binh", giao hữu trước tạo không khí thân thiện rồi tố cáo sau. Liều thuốc đắng phải bọc đường cho dễ nuốt. Đó là kinh nghiệm quý báu rút ra trong đêm kịch lịch sử có một không hai trên đảo. Ba Cháy giải tán ngay đêm kịch, hết lời xin lỗi thượng cấp bỏ qua cho. Ngay đêm đó ban kịch bị nhốt cát-xô. Ba Cháy điểm mặt Trần Duy Giang là thư ký văn phòng hắn ta: Tu m'as trahi ! (Mày phản tao!). Có một an ủi lớn dành cho năm anh diễn viên: người lính Malgachè (đảo Madagascar) có nhiệm vụ đưa rước đội kịch bằng canô đã nhiệt liệt ca ngợi tinh thần dũng cảm chống thực dân đế quốc của dân tộc Việt Nam mà năm anh là tiêu biểu. Tinh thần đó đã đánh thức ý chí quốc gia dân tộc của người lính coi tù này.
Sau đêm kịch đó, Ba Cháy hiện nguyên hình là một ngụy quân muốn biến nhà tù thành một trung tâm giáo dục để phục hồi nhân phẩm. Không thực hiện được ý đồ đó, hắn ta quay 180 độ, siết chặt lại, cấm tù áo xanh không được ra khỏi trại trong ngày nghỉ, bắt tù áo trắng tối phải vào Bagne I ngủ, lập chế độ cấm cố tại Khám 6. Ba Cháy còn có vài thất bại lớn nữa là trong hai năm làm chúa đảo của hắn xảy nhiều chuyến vượt đảo mà vang dội nhất là vụ 25 tù cướp ghe máy khi ra khơi đánh cá. Cuộc vượt đảo này do anh Nguyễn Văn Chì, chiến sĩ Ban công tác số 4 chỉ huy, có sự nội ứng của hai giám thị Nguyễn Văn Đang và Nguyễn Văn Ngọc. Hai giám thị người Pháp Barère và Mougues bị tù tước súng. Mougues nhảy xuống biển, bị tù bắn chết. Ngày hôm sau thuyền máy cặp biển Mỹ Thanh (Bạc Liêu). Hai thầy chú Đang và Ngọc được giác ngộ tham gia kháng chiến. Gác-dan Barère cũng được tù vượt ngục xin tha tội chết đã tỏ ý ân hận về tội hành hạ tù Côn Đảo những năm trước.
Chúa đảo Tư Hố, lấy độc trị độc
Cuối năm 1948, thiếu tá Henri Lafosse (anh em đặt tên Tư Hố) tới thay Ba Cháy làm giám đốc Côn Đảo. Lúc này đội ngũ tù nhân Côn Đảo đã bầu ban lãnh đạo thống nhất gồm các anh: Nguyễn Đình Thâu (khám tử hình), Trịnh Văn Hà (Sở rẫy giám đốc), Lê Trung Khá (Khám 6), Tư Ba Đào (nguyên là cặp rằn Khám 3 Khám Lớn Sài Gòn được giác ngộ trong cuộc cách mạng Khám đường năm 1946) và Phan Văn Đại (Ban công tác thành).
Ngày 7.11.1948, gác-dan Bénares Sở Củi đánh chết anh Trần Văn Tôn, người đi đầu trong cuộc lãn công, ban chấp hành ra lệnh đấu tranh. Tất cả tù chính tri, kháng chiến hay tù tư pháp tù áo trắng cũng như tù áo xanh đều nhất tề hưởng ứng. Toàn bộ sinh hoạt trên đảo đều tê liệt. Tư Hố lấy làm lo. Hắn phạt giam xà lim bảy người mà hắn cho là cầm dầu. Đó là các anh Tư Hà, Vũ Ngọc Toàn, Hoàng Phúc, Trần Nhật Quang, Lê Tam, Đỗ Văn Đích và Bát. Bảy anh tuyệt thực phản đối. Tới ngày thứ bảy, Tư Hố phải hủy bỏ lệnh giam xà lim.
Sau đó gác-dan Jurvarver bắn chết anh Ba Minh tức Đồng Văn Huy tại Banh I vì anh đòi bỏ còng ròng rã ba năm liền. Tiếp theo tên Novac, chủ Rờ sẹc đánh chết anh Nguyễn Văn Điều bị vu tội vượt ngục. Trước chế độ tàn bạo đó, tù nhân cương quyết vượt đảo. Vụ vượt ngục ở Bảy Cạnh khiến Tư Hố lo sợ. Hải đăng ở hòn Bảy Cạnh đang sửa chữa với số tù lấy từ Sở lưới và Chỉ Tồn. Tháng 5.1949, Tư Hố quyết định đưa một kíp tù sang ở hẳn Bảy Cạnh để giảm thời gian đi về. Kíp thợ này gồm 44 người do anh Đặng Văn Hà tức Hà Lào chỉ huy. Hà Lào là tình báo Khu 6 bị địch bắt ở Nha Trang đưa về Khám Lớn Sài Gòn. sau đó đưa ra đảo. Một sáng giữa tháng 5.1949, Hà Lào và các đồng chí bắt gọn tên gác-dan Charton rồi lên hải đăng bắt gác-dan Brasiller, vợ chồng người gác hải đăng Dupay, đoạt một tiểu liên, một súng trường và một số lựu đạn. Ngay ngày đó họ đóng xong một thuyền dài 6 mét, ngang 2,5 mét. Thuyền được bọc thiếc, ép vải, sơn bên trong. Không may khi hạ thuyền gặp sóng xô vào bờ đá vỡ tan. Anh em vớt lên đóng lại, so với 50 người vượt ngục thì thuyền quá nhỏ, khi được đóng lại. Do bất đồng ý kiến nên tốp đóng thuyền hạ thủy sớm, về đất liền, bỏ lại 19 người đã chủ trương không phá hải đăng, không cướp bóc và đối xử nhân đạo với các gác-dan. Nhờ tư cách đó mà số người này được đám gác-dan nói tốt với Tư Hố. Anh Hà Lào dặn anh em khai giống nhau là chỉ muốn về với gia đình chớ không tán thành phá hải đăng, đánh đập các gác-dan, vì vậy mà những người chỉ huy vượt ngục bỏ chúng tôi lại. Vợ người gác hải đăng Dupay là người Tư Hố đặc biệt ưu ái cũng bảo vệ số anh em bị bỏ lại. Nhờ đó số anh em này được cho nằm dưỡng bệnh tại nhà thương thay vì nhốt cát-sô.
Dưới thời Tư Hố, anh em phát động phong trào trừ gian. Phong trào này do anh Nguyễn Đình Chính tức Chính Heo-trưởng ban công tác I đề ra: "Ban công tác thành có sứ mạng giết giặc trừ gian". Anh em đã diệt tên Nguyễn Văn Tốt, tay sai chủ Sở bản chế Normand và tên điềm chỉ ở Sở lưới Võ Phương Ninh.
Vụ diệt tên mật thám Trần Dư do hai anh Nguyễn Quốc Hương và Nguyễn Trí Tuệ đang còn làm cho bọn tù gian hoang mang thì tên chỉ điểm Sổ ở Sở củi bị Hoàng Kiếm Thanh khử làm chấn động cả đảo. Hoàng Kiếm Thanh là tay anh chị ở Khám Lớn Sài Gòn được anh em tù nhân giáo dục dưới thời tổng đại diện Hoàng Xuân Bình. Tiếp theo là tên chỉ điểm Vàng ở nhà thương cũng bi hai anh Giáp và Sáu Cầy diệt ngày 5.12.1950. Tháng 11.1950, tạp chí "Côn Đảo mới" công bố danh sách Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân gồm các anh Tư Ba Đào, chủ tịch; Trịnh Văn Hà, phó chủ tịch kiêm tổng đại điện; Trương Anh Tuấn, trưởng ban tuyên truyền; Lê Ngọc Hương, trưởng ban huấn học và Nguyễn Tiếp, trưởng ban xã hội.
Tư Hố có sáng kiến lấy độc trị độc lập ra Liên minh dân chủ xã hội, gọi tắt là Liên xã gồm toàn tù gian thuộc các nhóm phản động như Quốc dân đảng, Đại Việt, Cao Đài, Hòa Hảo với những tên cầm dầu Nguyễn Văn Tân, Lê Trung Chánh, Nguyễn Văn Kỷ, Già Huệ, Võ Văn Nguyệt. Được giám thị trưởng Rognon bao che, Liên xã đem dao nhọn vô khám hành hung Ban chấp hành tù nhân khu. Trong hai tháng sử dụng Liên xã, Tư Hố đã đưa 250 tù kháng chiến vào biệt lập. Nhưng anh em tù nhân vẫn g ữ được tinh thần trước bọn Liên xã được Tư Hố đưa lên trị tù kháng chiến theo kiểu cặp rằn trước đây.
Chiến tích âm thầm của Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân dưới thời Tư Hố là gây được phong trào đời sống mới. Báo chí và văn nghệ phát triển mạnh. Báo có các tờ "Côn Đảo mới", tiếng nói của liên đoàn, tờ "Đời sống mới", tờ "Văn nghệ”.. . Các khu có báo "Cởi áo giang hồ" (tù thường phạm), “Bạn tù” (Khám tử hình), tờ "Đoàn kết" (Sở rẫy An Hải), “Tiến lên" (Lò vôi), “Xây dựng" (kíp thợ hồ), "Thắng lợi" (Sở củi), "Tiền phong" (Chỉ tồn) . Hai tờ "Lao động" và "Công nhân" ra hàng tháng.
Về văn nghệ thì các ca vũ khúc nở rộ như Ngày giải phóng, Mộng thoát ly, Tình không biên giới, Mùa gió chướng, Ma Thiên lãnh... Hai anh Châu Nháy ở Nhà bếp và Bình ở nhà đèn làm ra những cây đàn cũng bằng gỗ thùng cầu, dây đàn làm bằng dây điện. Nhạc sĩ Nguyễn Sáng điều khiển dàn nhạc thu hút được chủ Sở Nhà thương Pétronali và bác sĩ Jean Charles.
Với phong trào đời sống mới, anh em cổ võ nếp sống văn minh, vệ sinh, ngăn nắp, không chửi thề. Chuyện vui là giám thị Dominique Mai mở miệng là Đ.m.cũng hưởng ứng. Nhưng quen miệng, anh ta lại Đ.m. Để tỏ ra tiến bộ, anh ta cũng tự vả vào miệng mình và đứng nghiêm như thể lệ đề ra.
Chuyện ít người biết là bác sĩ Jaen Charles là đảng viên xã hội Pháp, mến mộ tổng đại diện Hoàng Xuân Bình ở Khám Lớn Sài Gòn, ra đảo tìm ngay kỹ sư Trịnh Văn Hà mà anh Bình đã giới thiệu. Bác sĩ bảo anh Tư Hà thông báo cho anh em biết, cứ luân phiên khai bệnh để bác sĩ cho nghỉ dưỡng sức. Bác sĩ Charles rất thích đọc báo tù và khi hết nhiệm kỳ ở Côn Đảo ông xin vài tờ mang về Pháp làm kỷ niệm.
Tư Nghêu (Jarty) mất cảnh giác với trại tù binh
Thiếu tá H. Jarty thay thiếu tá Lafosse. Tên này có thói thích ăn nghêu nên anh em gọi nó là Tư Nghêu. Tư Nghêu gây ấn tượng dữ dằn là đánh tù ngay khi tàu rời bến Bạch Đằng. Anh em hát quốc ca chào đất liền để ra đảo. Tư Nghêu thẳng tay đàn áp. Tới Côn Đảo, hắn còn đuổi theo đánh tới Banh 1. Hắn với giám thị trưởng Patxi (thay tên Rongnon) là cặp bài trùng chuyên chỉ huy bọn ác ôn đánh tù Chí Hòa vừa ra đảo. Hắn đánh anh Lý Hải Châu chết giấc khi biết anh Châu lãnh đạo cuộc tuyệt thực 11 ngày tại khám Chí Hòa. Tư Nghêu tiếp tục chủ trương dùng bọn Liên xã đàn áp tù kháng chiến. Lúc này Liên xã đông tới 300 tên. Tại Sở lưới, có tên Trần Văn Khánh là tay sai đắc lực của chủ sở Mathieu. Các anh Vũ Ngọc Chung, Châu Bình Phong, và Nguyễn Thông quyết đánh đổ tên này, nhưng thất bại. Châu Bình Phong bị lôi về hầm xay lúa đánh đập ác liệt. Vũ Ngọc Chung bị đưa về khu biệt lập. Bọn Liên xã ở Sở lưới đâm chết anh Trần Văn Vinh ngày 3.5.1954. Còn ở các sở khác thì vai trò của Liên xã kết thúc sớm. Dần dần số Liên xã tuột xuống còn 100 tên. Tên cầm đầu Nguyễn Văn Tân thắt cổ tự tử ngày 27.2.1953. Có dư luận cho rằng tên Tân bị bức tử vì dính líu vụ thâm lạm 200.000 đồng ở hợp tác xã tiêu thụ. Lê Trung Chánh cũng chết vì bệnh lao. Còn Võ Văn Nguyệt thì về sau bỏ Pháp theo Mỹ.
Tù kh3; tng chiến dù bị đưa vô khu biệt lập vẫn sống có tổ chức, được học văn hóa, chính trị. Anh Bảy Vinh, cũng có lúc lấy tên là Bảy Định, Đào Năng An, nguyên chủ bút báo "Chống xâm lăng", cơ quan của Thành bộ Việt Minh Sài Gòn-Chợ Lớn năm 1947 , là giảng viên xuất sắc. Bạn tù học được ở anh phương pháp duy vật biện chứng và phong cách đạo đức của người cách mạng trong tù. Về học tập chuyên môn thì hai kỹ sư nông nghiệp Trịnh Văn Hà và Lưu Văn Lê tổ chức thảo luận về Chương trình khai thác Đồng Tháp Mười. Nhiều anh em tham gia nhóm Thanh niên Đồng Tháp Mười với ước mơ trở về cải tạo Đồng Tháp Mười thành vựa lúa lớn nhất Đông Nam Á sau khi mãn tù.
Sự kiện lớn nhất dưới thời Tư Nghêu là cuộc vượt ngục lớn nhất trong lịch sử Côn Đảo ngày 12.12.1952.
Ngày 3.5.1951 , chuyến tù binh đầu tiên tới Côn Đảo. Tất cả tù binh là bộ đội Trung Bắc Bộ được đưa về Banh II giam trong hai Khám 6 và 7. Ngày 6.10.1951, thêm chuyến tù binh thứ hai gồm 135 người từ Bắc Bộ đày ra đảo, giam ở ba Khám 1, 2, 3 Banh II. Cả hai đoàn tù binh đều xin gia nhập Liên đoàn tù nhân Côn Đảo.
Bây giờ chúa đảo Tư Nghêu đang tu bổ con đường đồn điền từ Sở rẫy An Hải qua Sở rẫy Chuồng Bò. Năm 1952, hắn mở thêm con đường ra Bến Đầm. Và hắn sử dụng lực lượng tù binh làm nhân công làm đường.
Tháng 7.1952, lại thêm chuyến tù binh thứ ba ra đảo, giam tại Banh III. Tháng 10.1952, lại thêm hai chuyến tù binh nữa gồm 160 người, cũng đưa về Banh III. Đến tháng 12.1952, tổng số tù binh lên 548 người. Sự kiện 12.12.1952 gọi là sự kiện Bến Đầm đáng ghi nhớ. Cuộc vượt ngục có đến 200 người tham gia vừa chết vừa bị bắt.
Xin tóm tắt cuộc vượt ngục táo bạo này. Năm 1952 là năm tù nhân lập phương án vũ trang giải thoát. Bộ phận làm đường ở Bến Đầm tiến hành đào hầm bí mật ngay dưới lán để đóng thuyền vượt ngục. Lán rộng 6 mét, dài 30 mét nằm trong thung lũng giữa mũi Cá Mập và vịnh Bến Đầm. Từ 6 giờ chiều đến 10 giờ đêm, anh em đào hầm dưới gầm giường. Bất ngờ giữa chừng gặp tảng đá to hơn hai mét khối, nặng vài ngàn cân. Phải nhờ thợ mỏ đánh sập tảng đá xuống hố. Dưới hai căn hầm bí mật, năm chiếc khung thuyền đã đóng xong. Không may năm ấy mùa gió chướng tới chậm. Lại thêm tên Hoàng Minh phản, khai cho gác ngục bắt anh Phan Cơ.
Ngày 12.12, cuộc bạo động nổ ra, bắt đầu từ Bến Đầm, 28 tổ xung kích trói gọn 28 lính da đen. Một tên chạy thoát. Bấy giờ là 11 giờ trưa, 16 giờ ta hạ thủy năm chiếc thuyền thúng may bọc vải, có đủ buồm chèo. Hai thuyền bị vỡ cách bờ không xa. Ba thuyền đi được thì tới sáng thấm nước, nước tràn vào lưng thuyền. Nhiều người phải nhảy xuống biển hy sinh cho nhẹ thuyền. Theo báo cáo của giám đốc Tư Nghêu thì có 198 người vượt đảo. Số bị bắt lại là 117, 81 người chết chìm giữa biển. Những người sống sót, Tư Nghêu tới cự bác sĩ, nhưng Barbier vẫn làm đúng thiên chức của người thầy thuốc. 117 tù vượt đảo bị đưa ra tòa xử. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã biện hộ cho tất cả trắng án, nhấn mạnh chế độ nhà tù quá khốc liệt làm anh em phải nghĩ tới việc vượt ngục. Lính da đen làm nhân chứng không tố cáo những người đã bắt trói họ, bởi vì những người này chỉ muốn về nhà với vợ con.
Thiếu tá Blanck, chúa đảo Pháp cuối cùng ở Côn Đảo
Thiếu tá Aloise Blanck nhận chức giám đốc Côn Đảo vào mùa hè năm 1953, lên làm chúa đảo nhằm lúc thực dân đang thời mạt vận, khí thế tù nhân đang lên với tin chiến thắng dồn dập. Thống tướng De Lattre de Tassigny, danh tướng số một của nước Pháp sang Đông Dương kiêm luôn hai chức cao nhất là Cao ủy và Tổng tư lệnh tối cao, hy vọng lật ngược thế cờ. Nhưng đó chỉ là ảo vọng. Chiến thắng Điện Biên Phủ tiếp theo là Hiệp định Genève như thêm sức, như chấp cánh cho anh em tù nhân. Một sự kiện đáng ghi nhớ là việc tù nhân tranh thủ được tình cảm của thầy chú, cụ thể là vợ chồng y tá Lộc mua giúp radio đặt trong nhà mình cho anh em tù kháng chiến nghe tin tức. Nhờ vậy mà ta nắm được tình hình rõ hơn tên chúa đảo Blanck. Cô Châu, con giám thị Cư thường mở radio ở Nhà thương cho anh em nghe. Ông Trần Văn Thiều, thư ký kho bạc và gác-dan Sami (người Ấn) cùng tổ chức cho anh em nghe lén radio trong nhà hai ông. Anh Minh Nam tức Lê Xuân Cương ở Nhà thương tổng hợp tin tức cho Đảo ủy. Ban chấp hành Đảo ủy gồm có anh Nguyễn Văn Thi, bí thư, Đỗ Hoàng Trừ, phó bí thư kiêm chủ tịch Liên đoàn, Vũ Hồng Vũ, thường vụ, và các anh Nguyễn Văn Nghĩa, Lê Khắc Thành, Trần Công Hiệu, Hoàng Nam tức Phan Xuân Tiềm. Đảng bộ Côn Đảo xác định nhà tù là một mặt trận trong cuộc kháng chiến, tù nhân là một lực lượng của cuộc kháng chiến. Đảng bộ cũng giải tỏa đám mây mù quan điểm sai lầm ở tù là có tội, bị Đảng bỏ rơi, không chỉ đạo mặt trận tù nhân.
Nhiều cuộc vượt ngục xảy ra dưới thời thiếu tá Blanck. Có vụ tranh thủ cả giám thị cùng xuống thuyền về đất liền như vụ cuối thu 1953, bốn nhân viên Rờ-sạc cùng 40 tù nhân kéo gỗ ở Bảy Cạnh vượt đảo. Rất tiếc là thuyền bị sóng xô vô đá ngầm vỡ tan. Tấp vào Hòn Cau, họ lại đóng bè đi nữa nhưng không gặp gió chướng nên lênh đênh trên biển và bị bắt lại.
Đêm 31.12.1953, ba anh Võ Nguyên, Nguyễn Đức Triêm, Phan Văn Giàu cùng người tù thường phạm thạo nghề thuyền bè hạ thủy thuyền mây tại mũi Lò Vôi giữa lúc bọn Tây đang ăn uống no say mừng tết Tây. Không may thuyền mây lạc tận đất Xiêm. Nhà cầm quyền Xiêm trả họ về Sài Gòn, Tây giam họ tại Chí Hòa. Sau đưa về trại Hạnh Thông Tây (Gò Vấp).
Trước khí thế của tù nhân, Blanck phản ứng điên cuồng như chó cắn bậy. Đảo ủy chỉ định anh Trịnh Văn Hà, Lê Văn Thống (Tổng đại diện và Phó tổng đại diện tù án) làm Chủ tịch và Phó chủ tịch ủy ban tranh đấu. Các anh Nguyễn Trí Tuệ, Hoàng Phúc phụ trách Ban an ninh. Hiệu lệnh đấu tranh mở màn bằng bài hát Lên Đàng. Nếu địch khủng bố, thì hát bài Chiến sĩ Việt Nam. Lúc chống khủng bố ác liệt thì hát Tiến quân ca.
Cuối cùng rồi thiếu tá Blanck cũng phải thi hành hiệp định Trung Giả trao trả tù binh. Chiều ngày 26.9.1954, hơn một ngàn tù chính trị xuống tàu về đất liền. Trừ 14 người Khmer và bốn người Lào được đưa về Sài Gòn, tất cả đều thẳng tới Sầm Sơn (Thanh Hóa), Ban lãnh đạo trên chuyến đó có anh Đỗ Hoàng Trừ (quyền bí thư Đảo ủy), Trần Công Hiệu, Lê Khắc Thành, Trần Khắc Du, anh Trịnh Văn Hà là tổng đại diện, Lê Văn Thống, phó Nguyễn Trí Tuệ, Hoàng Phúc là trưởng và là phó Ban an ninh.
Sáng ngày 1.10.1954, anh em treo cờ Việt Nam trên tàu. Trung úy thuyền trưởng yêu cầu ta hạ cờ. Tổng đại diện Tư Hà đã tranh luận với hắn như sau: Ce n'est plus le drapeau planté sur le bunker de Castries. Nous sommes dans les eaux territoriales de notre Patrie qui vient de recupérer son indépendance. (Đây không phải là lá cờ cắm trên hầm tướng De Castries. Chúng tôi hiện đang đứng trên lãnh hải của Tổ quốc chúng tôi vừa giành lại được nền độc lập).
Tù nhân cương quyết không hạ cờ, thuyền trưởng lệnh cho tàu lùi lại. Các anh Trừ, Hiệu, Du hội ý rồi ra lệnh: ai biết bơi thì nhảy xuống biển lội vào bờ. Trong không khí sục sôi, nhiều người nhảy xuống biển. Thuyền trưởng đành chịu thua, cho tàu tiến vào bờ. Rất tiếc có ba anh Tính, Phụng, Cả không đủ sức bơi, chìm hẳn trên dòng sông Chu. Đây là một khuyết điểm Ban tranh đấu nhìn nhận đã thiếu sáng suốt, đẩy quá trớn tâm lý quần chúng một cách không cần thiết.
Trong cuộc kháng Pháp 9 năm, tôi không may nếm mùi địa ngục trần gian ngoài Côn Đảo hết bảy năm. Nhưng trong cái không may đó, tôi rút ra được nhiều điều hay. Thời gian ở đảo cho tôi thấy tình đồng đội, đồng chí và tình yêu nước là sức mạnh vô biên giúp con người vượt qua mọi thử thách, dù ác liệt tới đâu, để giữ vững khí phách của người kháng chiến Việt Nam.