Tiểu sử, Hồi ký
Tác giả: Nguyên Hùng

Nam Bộ - Nghững Nhân Vật Một Thời Vang Bóng

Chương 35: CHƯƠNG VI: NHỮNG NGƯỜI TÙ ĐƯỢC ĐỊCH NỂ TRỌNG - HOÀNG XUÂN BÌNH VÀ TÌNH BẠN VỚI MỘT SĨ QUAN PHÁP

Là chỉ huy quân sự, mỗi lần ra trận anh Hoàng Xuân Bình chỉ có một câu "terminer en beauté " (Kết thúc đẹp).

Bị bắt đưa vào Phòng Nhì Cần Thơ, thái độ hiên ngang của anh khiến đại úyLéon Fallon kính nể. Sau này Fallon lên thiếu tướng và xem Bình như bạn thân mà trước kia là địch thủ.

Đây là tình bạn đẹp giữa hai thanh niên đều trọng vinh dự và lòng yêu nước.

Đầu năm 1946, dân thị xã Cần Thơ rất sợ ngôi nhà ấy. Đó là một biệt thự cất theo kiểu xưa có vòng thành kiên cố của một đại điên chủ nào đó bị nhà binh Pháp sung công làm văn phòng Deuxième Bureau (Phòng Nhì). Vào buổi giặc giã, nhà binh là mạnh hơn hết, nắm quyền sinh sát trong tay. Mà tai mắt của nhà binh là Phòng Nhì. Vào giữa năm 1946, cầm đầu Phòng Nhì Cần Thơ là đại úy Nogret nổi tiếng hung thần với những ai vô phúc bị bắt vô đây. Nhưng dân sợ Nogret một mà sợ mấy tay thông ngôn của hắn tới mười. Vì một tiếng thêm hay bớt của chúng đủ khiến bay cái đầu người ta. Dưới Nogret có trung úy Léon Fallon, từ Pháp đổi sang Việt Nam và được đưa về Zone Ouest (khu Tây Nam Bộ). Fallon và Nogret khác nhau một trời một vực. Câu chuyện dưới đây sẽ cho thấy cá tính và quan điểm của hai sĩ quan Phòng Nhì Pháp.

Đầu năm 1947, lính giải về Phòng Nhì Cần Thơ hai thanh niên Việt bị bắt khi băng qua lộ Đông Dương gần quận ly Phụng Hiệp. Đó là kỹ sư canh nông Trương Công Phòng và Hoàng Xuân Bình, chỉ huy bộ đội Hải ngoại Quang Trung từ Thái, Lào về nước bằng đường bộ. Cả hai dự Đại hội Thanh niên Sinh viên Nam Bộ ở Khu 8 và trên đường về Khu 9 thì bị phục kích khi vượt qua lộ Đông Dương.

Nogret giao Fallon điều tra hai tù binh này. Bước vô phòng, Hoàng Xuân Bình quan sát ngay: Giữa phòng đặt bàn viết lớn, bàn của Fallon, kế bên có bàn viết nhỏ, của thông ngôn. Sát vách có mấy cái ghế dành cho những người bị hỏi cung. Bình nói nhỏ vào tai Trương Công Phòng "Terminer en beauté" (Kết thúc cho đẹp) rồi bước tới trước. Tên thông ngôn đọc tên họ hai tù binh, vụt đứng lên hỏi Bình:

- Anh là Hoàng Xuân Bình hả? Tôi là học trò ông Hãn đây.

Bình nhìn tên thông ngôn im lặng. Hắn nói tiếp:

- Tôi là Bùi Công Thành, học trò ông Hãn, anh của anh.

Bình vẫn im lặng. Thành lắc đầu:

- Bây giờ mà anh còn kháng chiến nỗi gì nữa!

Bình quay sang Fallon, dõng dạc hỏi:

- Échange de vue ou interrgatoire? (Trao đổi quan điểm hay thẩm vấn?).

Nãy giờ Fallon quan sát hai tù binh và nhất là theo dõi cuộc nói chuyện giữa thông ngôn Thành với Bình. Nghe Bình hỏi bằng tiếng Pháp, Fallon thích thú đáp:

- Échange de vue (Trao đổi quan điểm).

Bình liền chỉ Thành nói ngay:

- Ôtez de ma présence celui-là Vraiment il me dégoute (Đuổi thằng này đi. Nó làm tôi khó chịu).

Fallon lộ vẻ ngạc nhiên trước yêu cầu của Bình. Ông ta bảo Thành:

- Lieutenant Thành, vous pouvez vous disposer (trung úy Thành, anh có thể ra ngoài).

Còn lại trong phòng chỉ có hai người, Fallon nói:

- Tôi đã đọc quyển sổ tay "Nhật ký hành quân" của anh trước khi người ta giải hai anh tới đây. Qua đó, tôi biết anh là sinh viên y khoa, học khóa sĩ quan đầu tiên và được bổ nhiệm sĩ quan tùy viên của Bảo Đại nay là cố vấn Vĩnh Thụy. Anh không thích làm ngựa gánh xiếc (cheval đe cirque) mà chỉ muốn làm chiến mã (cheval de bataille) - đó là lời lẽ của anh trong nhật ký. Và anh tình nguyện sang Lào chiến đấu. Mặt trận Savanakhet và Thakhet tan, anh chạy qua Thái Lan mở lớp huấn luyện tuyển mộ tân binh lập bộ đội hải ngoại Quang Trung về nước đánh Tây...

Bình cười:

- Như vậy là ông đã nắm hết bí mật của tôi rồi. Tôi khỏi làm cái công việc không thú vị chút nào là khai báo.

Fallon lắc đầu:

- Không đơn giản như thế đâu. Nói như anh thì người ta trả lương cho tôi để làm gì?

Bình thẳng thắn nói:

- Trung úy là sĩ quan Phòng Nhì chuyên thẩm vấn tù binh, chắc trung úy biết rõ một trong những lời thề danh dự của người lính là không được khai sự thật khi bị bắt. Tôi là người lính, tôi phải giữ lời thề đó.

- Nghĩa là anh phải nói dối?

- Đúng vậy. Nói dối đáng lên án. Nhưng trong trường hợp của tôi, nói dối là nghĩa vụ . Votre devoir est de percer la vérité, mon devoir est de vous la dérober ( Bổn phận của ông là tìm sự thật còn bổn phận của tôi là giấu sự thật).

Fallon trao Bình xấp giấy:

- Anh cứ ghi những gì anh thấy phải ghi. Viết thẳng tiếng Pháp để tôi chuyển lên đại úy Nogret, thượng cấp của tôi.

Nogret vứt tờ khai của Bình xuống bàn, gằn giọng:

- Cao Đài, Hòa Hảo đã hợp tác với Pháp. Còn hai ông, đã được Pháp đào tạo trở thành trí thức kể như là con tinh thần của nước Pháp, vậy mà hai anh chống Pháp. Vô ân, hai anh là kẻ vô ân!

Hoàng Xuân Bình và Trương Công Phòng im lặng nhìn tên đại úy Nogret rạ oai thịnh nộ. Hắn hét to:

- Hai anh không nói gì à? Có chịu làm lại lời khai?

Bình nói ôn tồn mà cương nghị:

- Votre arrogance frise l'insolence. Je ne peux plus discuter avec vuos (Thái độ xấc láo của ông đã lên tới mức vô lễ, tôi không thể bàn cãi gì với ông nữa).

Nogret điên tiết hét to:

- Lính đâu? Đưa hai thằng này ra sông cái. Bắn bỏ!

Bọn lính đưa hai anh lên xe nhà binh, trực chỉ mé sông. Ngồi trên xe Bình và Phòng vẫn im lặng nhưng câu nhắn nhủ của Bình vẫn lờ mờ ẩn hiện trong đầu: "terminer en beauté" (kết thúc cho đẹp).

Cầu tàu mé sông gần chợ cá Cần Thơ là nơi Pháp hay bắn Việt Minh. Mỗi khi xe nhà binh đậu lại là dân tò mò kéo tới xem mặt những người sắp làm "thằng chổng trôi sông". Nhưng ngày ấy có chuyện lạ. Lính không lôi tử tội xuống mà để ngồi trên xe cả tiếng đồng hồ rồi chạy quay về. Thì ra nó nắn gân hai tù binh trí thức Nam Bộ.

Trở về phòng giam, lại thêm một chuyện lạ là lính đưa tờ "Tiếng súng kháng địch" cho Bình nói:

- Ông Fallon cho ông mượn xem để giết thì giờ và để giữ vững tinh thần.

"Tiếng súng kháng địch" là báo của Khu 9 cũng như “Tổ quốc" là báo của Khu 8 và "Tiền đạo" là báo của Khu 7. Tờ báo này lọt vào tay Phòng Nhì là chuyện dễ hiểu. Tất cả tài liệu của ta, Phòng Nhì đều có cách thu nhặt để nghiên cứu và đối phó. Nhưng tại sao Fallon lại cho Bình mượn đọc? Đó là điều Bình suy nghĩ nhiều. Anh quan sát tờ báo xem có dấu vết gì giúp anh hiểu thêm về viên trung úy khá khó hiểu này. Ở góc trên tờ báo có mấy chữ bằng tiếng Nga. Hồi còn là sinh viên, Bình tò mò học hai mươi mấy chữ cái Nga chỉ vì thấy chữ N. viết ngược (là chữ i của Nga). Fallon viết tên mình bằng tiếng Nga trên tờ "Tiếng súng kháng địch". Bình lẩm bẩm:

- Chuyện lạ đây. Trung úy Phòng Nhì Pháp biết chữ Nga và có cảm tình với Việt Minh. Mình phải tìm hiểu về Léon Fallon này mới được.

Trong khi đó, Nogret đã khiển trách Fallon:

- Tôi thấy trung úy có vẻ khoan dung với hai tên tù binh Việt Minh này quá. Sao vậy?

Fallon nhún vai:

- Hai người đó, mỗi người một cá tính, Phòng ít nói và lầm lỳ, còn Bình thì thẳng thắn và dũng cảm, nhưng cả hai cùng một ý chí: trung thành với lý tưởng của mình và dám chết cho lý tưởng đó. Bình đã đọc thơ Victor Hugo trước mặt tôi: "Mourir pour la Patrie. C'est le sort le plus beau le plus digne d'envie". Với những con người coi cái chết nhẹ như lông hồng thì ông biểu tôi phải làm gì hơn là "giở nón cúi đầu"? Mà đại úy nhớ cho điều này. Bình nhắc câu thơ bất hủ đó sau khi đại úy đưa hai anh tù binh bướng bỉnh này ra cầu tàu để khủng bố tinh thần. Điều này rất khác xa các đêm bình thơ của các chính khách salon...

Nogret gật gù:

- Đúng. Bình đã có một lần xỏ ngọt mà tôi rất đau. Tôi ra lệnh bày các "đồ nghề" kể cả bình điện, trung úy biết Bình nói gì không? Nó là sinh viên ngành Y nên nói đúng bài bản: Les Francais m’ont appris à traiter certaines affections par le courant éléctrique. Maintenant je vios qu’on peut maltraiter certaines affections avec le méme courant". (Người Pháp dạy tôi chữa trị vài chứng bệnh bằng dòng diện. Bây giờ tôi thấy người ta cũng có thể trừng trị một vài chứng bệnh khác bằng dòng điện ấy... (Bình chơi chữ khi đối lập chữa trị và trừng trị).

- Rồi ông có cho nó thấy ba mươi sáu ngọn nến bằng cái bình điện gớm ghiếc của ông để trừng trị cái chứng bệnh bất khuất của nó không?

Nogret đưa hai cánh tay lên trời như võ sĩ đầu hàng:

- Với một thằng bản lãnh như vậy, bày trò đánh đấm làm gì cho mệt xác ! Ngay trong ngày hôm nay tôi làm giấy chuyển hai đứa nó lên Sài Gòn. Trung úy thấy thế nào?

Fallon gật:

- Cách đó hay nhất. Thú thật với ông, tôi nhớ chuyện bốn năm trước, khi tôi vượt ngục trại tù binh Đức ở Lubeck nước Áo, cách biển Bắc mười lăm cây số. Tôi nhớ mãi ngày lịch sử ấy 3.12.1943. Trại hình chữ nhật, ngang 200 mét, dài 600 mét, ba vòng rào cao 3,5 mét. Phải làm thang và giấu kỹ trước ngày N. Cùng vượt ngục với tôi có ba anh bạn tù. Lúc đó, Đức quốc xã đã chiếm hết vùng Trung Âu, trốn tù là chuyện nguy hiểm. Bị bắt lại là vô lò thiêu. Trốn một mình thì đơn độc, nhất là về tinh thần, kiếm thêm một bạn đồng hành là lý tưởng, nhưng trốn ba người là quá nhiều rồi, vậy mà bốn anh em chúng tôi phải băng 800 km đồng tuyết suốt mấy ngày mới về tới khu rừng căn cứ kháng chiến của ta... Bây giờ nhớ tới còn lạnh mình. Bởi vì ai nấy cũng nắm chắc phần bị quân Đức với những con chó "quân khuyển" chuyên đánh hơi bắt du kích Pháp lò mò thâm nhập vùng chúng chiếm đóng.

- Phải vì chuyện vượt ngục mà trung úy có cảm tình với hai tù binh Việt Minh?

Nogret cười hỏi và nói luôn, không chờ Fallon đáp:

- Trung úy lãng mạn quá ! Mà cái nghề phản gián của mình lại cần một trái tim cứng rắn. Chiến tranh là sắt thép.

Fallon thở dài:

- Đại úy nói đúng. Có lẽ tôi nên xin chuyển ngành là tốt hơn hết.

Vài ngày sau, Hoàng Xuân Bình và Trương Công Phòng được xe nhà binh đưa lên Sài Gòn, giải vô Khám Lớn để chờ ngày ra tòa án binh . Lúc đó kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch Liên đoàn tù nhân. Ngày hai anh Bình và Phòng tới Khám Lớn là một sự kiện trọng thể bởi báo chí Sài Gòn có nêu tin bắt được hai cán bộ lớn của Việt Minh. Trước cửa Khám Lớn, một trung úy Pháp kính cẩn chào hai người tù binh Việt Minh khiến Bình ngạc nhiên hỏi cho chắc ý:

- Vous me saluez? (Trung úy chào tôi?).

- Oui, mon capitaine... Oh, pardon, mon commandant. (Vâng, thưa đại úy… xin lỗi thưa thiếu tá).

Anh em tù nhân trong Khám Lớn đón mừng hai anh tù binh Việt Minh theo kiểu cách của người tù, trong mâm cơm cũng như lúc đi ngủ, phòng nào cũng bàn chuyện báo chí đăng tin Tòa án binh sắp xử hai vị trí thức theo kháng chiến ngay từ đầu.

Tháng 10.1947, anh Huỳnh Tấn Phát ra tù, anh kỹ sư Tư Hà lên thay, nhưng vài tháng sau bị đày ra Côn Đảo. Anh Bình được bầu tổng đại diện. Trong thời gian này nổ ra cuộc tuyệt thực 8 ngày phản đối chế độ lao tù và chống lại việc hành quyết các tử tù... Cả Sài Gòn náo động. Ba Bộ trưởng Lê Tấn Nẫm (Nội vụ), Nguyễn Khắc Vệ (Tư pháp), Trần Văn Tuyến (Thông tin) vô Khám Lớn tiếp xúc với Tổng đại diện Hoàng Xuân Bình để giải quyết cuộc tranh đấu.

Những ngày hai anh Bình và Phòng ra tòa án binh mới là thời sự quan trọng nhất trong năm 1947. Cả Sài Gòn đều chăm chú theo dõi. Và điều mong đợi đã xảy ra: trật tự xã hội đã đảo lộn: hai tù binh Việt Minh biến thành chánh án kết tội bọn thực dân đem súng đạn sang gây chết chóc để tái lập thuộc địa mà cả thế giới đang lên án. Các ký giả tiến bộ đều thấy thú vị về cái mà họ gọi là "Les dompteurs sont domptés (Kẻ điều khiển thú bị thú điều khiển lại).

Nhưng xin trở lại chủ đề trong bài này. Anh Hoàng Xuân Bình ghé tôi cho quyển sách của Léon Fallon xuất bản bên Pháp tựa là "La Ferveur et l'Épreuve (Tập 1 ) (Nhiệt tình và Thử thách).

- Mình sang Pháp thăm anh Hoàng Xuân Hãn. Trong dịp này có tới thăm Léon Fallon, nay lên thiếu tướng. ông ta đang viết hồi ký. Tập 1 viết về cuộc vượt ngục từ trại giam Lubeck, gần Bắc Hải. Tập 2 tựa là "L'Année du Buffle" (Năm Kỷ Sửu 1949) viết về những năm 1946-1948 ông ta tham chiến ở Việt Nam...

- Chắc là Fallon có nhắc tới tình bạn ly kỳ giữa hai thanh niên ở hai bên chiến tuyến năm xưa?

Anh Bình gật đầu:

- Có Fallon đã dành những trang đẹp nhất cho tình bạn hiếm có này. Có những điều tôi đã nói rồi quên luôn, Fallon nhắc mới nhớ...

- Chẳng hạn như...

- Như một bài thơ của Verlaine. Bài thơ ngắn thôi mà rất hay vì tính yêu đời của nhà thơ. Ngâm nga bài thơ đó giúp tôi tìm được thanh thản trong những ngày sa cơ. Bài thơ tựa là D’une prison (Từ một khám giam).

(Xin dịch lấy ý: Trên mái nhà giam là bầu trời xanh êm ả. Một ngọn cây vượt qua mái nhà giam đong đưa cành lá. Tháp chuông cao vút khẽ đổ hồi. Một con chim đậu trên cây hót nỗi niềm của nó).

Tới đây bỗng anh Bình đổi giọng, vui tươi hẳn lên:

- Fallon dành cho tôi một bất ngờ cực kỳ to lớn. Quyển nhật ký hành quân mà Fallon gọi là Joumal de Marche, tôi tưởng đã mất sau khi bị bắt ở gần Phụng Hiệp hồi đầu năm 1947. Tôi quý quyển sách đó vô cùng vì đã ghi rõ chi tiết từng trận đánh ở Lào, từng sự kiện trên đường hành quân từ Thái Lan, xuyên qua Miên để tới biên giới, nhất là trận bị địch bao vây tại Takeo ngày 2.1.1947, trận này ta hy sinh năm đồng chí, trong đó có anh bạn chí thân Nguyễn Trọng Thường. Quyển sổ tay ấy có năm mươi chữ ký của tất cả các đại biểu dự Đại hội Thanh niên Sinh viên Nam Bộ, mỗi người đều được tôi dành một trang để viết vài hàng lưu niệm và một chữ ký. Xin kể vài nhân vật như trung tướng Nguyễn Bình, Ủy viên quân sự Nam Bộ; kỹ sư Nguyễn Đăng, Tham mưu trưởng Nam Bộ; Khu trưởng Khu 8 Trần Văn Trà; luật sư Phạm Ngọc Thuần, Quyền chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ; Trần Bửu Kiếm, Tổng thư ký Ủy ban Nam Bộ; giáo sư Phạm Thiều, Giám đốc sở Thông tin tuyên truyền Nam Bộ; các bác sĩ Trần Nam Hưng, Hồ Văn Huê; các họa sĩ Diệp Minh Châu, Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Cao Thương; ca sĩ Quốc Hương...

Tôi hỏi:

- Léon Fallon đã giữ quyển nhật ký đó giùm anh?

- Đúng vậy. Bốn mươi sáu năm sau, tôi mới nhận lại được người bạn quý nhất đời mình. Vui không thể tả được. Fallon chỉ bà vợ nói : Anh phải cám ơn bà xã tôi đây. Chính bả cất giữ quyển "Joumal de marche" của anh chớ không phải tôi vì trong đời nhà binh tôi đổi đi không biết bao nhiêu nước...

Trong khi đó bà Fallon khui champagne mừng đôi bạn mà bà gọi là les deux amis-ennemis (hai người bạn-hai kẻ thù) gặp lại sau gần nửa thế kỷ có nhiều biến thiên khó lường trước được. Cụng ly chúc mừng tình bạn thiêng liêng của những người chiến đấu cho hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc anh em trên thế giới, Fallon nói một hơi dài, giọng xúc động hiếm thấy ở một vị tướng đã trải qua không biết bao nhiêu là trận mạc. Thì ra cái chữ Tâm của ông ta cũng như Nguyễn Du đã viết: "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài".

Anh Bình bắt tay tôi - bàn tay hơi run của người chớm bị chứng Parkingson - nói: "Nếu anh viết về tình bạn giữa tôi và Léon Fallon thì xin anh nhấn mạnh điểm này cho giới trẻ ngày nay: Mai sau dù có chiến tranh, chúng ta luôn luôn đứng trong hàng ngũ chính nghĩa".

Hết Chương 35: CHƯƠNG VI: NHỮNG NGƯỜI TÙ ĐƯỢC ĐỊCH NỂ TRỌNG - HOÀNG XUÂN BÌNH VÀ TÌNH BẠN VỚI MỘT SĨ QUAN PHÁP
Thông tin sách