Chị Thanh Quý là cô gái Huế xinh đẹp, cha mẹ nghèo cho đi ở đợ trừ nơ. Chị bị con chủ nông trại làm nhục phải bỏ xứ lưu lạc vào Sài Gòn. Chị gia nhập Ban công tác thành, lập nhiều chiến công. Vào tù, chị trừng trị cọp rằn, diệt tù gian lãnh thêm án tử hình.
Trao trả tù binh, chị tập kết ra Bắc, tiếp tục phục vụ cách mạng. Chị Thanh Quý là một cán bộ biệt động dũng cảm, đầy đủ khí tiết trong công tác cũng như trong tù ngục.
Trong Khám Lớn Sài Gòn, có hai salle (phòng) nhốt tù nữ. Salle 14 nhốt tù chính trị - chiến sĩ quyết tử. Ban công tác thành và đồng bào nuôi chứa, ủng hộ kháng chiến và salle 15 nhốt thường phạm - dân lưu manh móc túi, bấm dây chuyền, rọc túi xách, đĩ điếm... Thường ngày, hai salle đều có chiến tranh, khi nóng khi lạnh. Cầm đầu đám “chằn ăn trăn quấn" là mụ Bảy Sảnh, to béo, miệng bằng tay và tay bằng miệng. Mụ cùng đám lâu la ném đá qua salle 14 để khiêu khích. Chị em chính trị phạm cũng không vừa, ăn miếng trả miếng hẳn hoi. Thầy chú đều lắc đầu ngao ngán mỗi khi phải tới hai salle này...
Nhưng tình trạng bê bối đó chấm dứt kể từ khi có chị Thanh Quý, chị được đưa vào đây với bản án tử hình về tội diệt hai sĩ quan Pháp. Xin giới thiệu sơ thành tích của chị Thanh Quý:
Thời Tây chiếm Sài Gòn, cuối 1945 đầu 1946, chiều chiều cột cờ Thủ Ngữ là nơi đám cò bót, lính tráng tập hợp ăn nhậu nơi mé sông có đại lộ Quai Lemyre de Viller chạy dọc bờ sông. Bọn sĩ quan có địa điểm riêng là quán rượu Pointe des Blagueurs (Doi đất của các tay đấu láo tào lao). Còn binh sĩ thì xúm xít nhau ở các quán bình dân. dưới mấy chiếc dù che nắng che mưa xanh xanh đỏ đỏ.
Thú vui lúc đó là gọi các xuồng bán vàm dập dìu trên sông nước. Có đủ thức nhậu: cháo gà, cháo vịt, bánh canh giò heo, hột vịt lộn, khô mực và đặc biệt là "nước mắt quê hương" - loại rượu Chợ Đệm mà các tay nhậu ca ngợi "rượu uống mềm môi chẳng thấy cay". Chị Thanh Quý là một trong các cô gái bán vàm trên bến Thủ Thiêm. Chị là con gái Huế có nhan sắc - như thơ ca miền Trung lưu truyền: "Học trò xứ Quảng đi thi, thấy con gái Huế chân đi không đành". Nhà nghèo phải đi làm thuê ở mướn, chị Thanh Quý lưu lạc vô Sài Gòn và làm con nuôi bà Tư Quý ở Thủ Thiêm. Khi ta cướp chính quyền, chị Thanh Quý tham gia Ban công tác thành của Chi đội 1, thuộc tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương), chị được phân công làm địch vận lấy vũ khí cho bộ đội. Anh trưởng ban công tác gợi ý: "Tụi Nhật gác xà- lan, súng ống, đạn dược đậu cả dãy trên sông Sài Gòn. Chị cứ chèo tam bản qua đó bán đồ nhậu, phục rượu cho bọn chúng say rồi gạ mua lựu đạn. Mình đang cần lựu đạn là vũ khí lợi hại trong chiến tranh đường phố".
Chị Thanh Quý cùng hai đồng đội là Bé và Bích, cùng lứa tuổi và cũng dễ coi, cả ba đồng tình diễn trò tống tửu bọn lính Nhật để gạ mua lựu đạn. Kết quả mỹ mãn: mua rẻ 360 quả lựu đạn còn ở trong thùng. Chị Thanh Quý ra hiệu, tức thì anh em Công tác thành cập tam bản, nhảy lên xà lan xuống hàng. Lần đó, chị Thanh Quý cùng hai đồng đội Bé và Bích được Khu trưởng Nguyễn Bình tặng bằng khen và thưởng 200 đồng.
Được món tiền khá lớn này, ba chị em đãi anh em Ban công tác một chầu "lâm vố", có cả la-ve Con Cọp nữa. "Lâm vố" là món ăn đặc biệt của giới bình dân Sài Gòn. Đó là các khẩu phần nhà binh, lính ăn không hết, nhà thầu bán ra ngoài cho các quán bình dân. Nói là món ăn thừa nhưng không phải là đồ dư, ăn bỏ mứa. Rất nhiều món còn nguyên như cơm gà, ra-gu heo, ca-ri vịt… Tây gọi thức ăn không dùng tới này là rabiot, dân mình đọc là "lâm vố".
Xin nói về chiến công lớn của chị Thanh Quý. Có thằng Chà lai (Ấn kiều) làm mật thám, có nhiều nợ máu với kháng chiến. Tên này lại mê chị Thanh Quý, một hai đòi cưới chị làm vợ bé. Chị hỏi các anh chỉ huy và được bày kế "điệu hổ ly sơn", mời nó qua nhà chị bên Thủ Thiêm cho biết để bàn chuyện cưới hỏi. Tên Chà ngần ngại vì Thủ Thiêm là vùng "xôi đậu", - ngày của quốc gia, đêm của Việt Minh. Nhưng vì mê bóng sắc của chị Thanh Quý nên tên chó săn đánh liều vào tử địa. Đó mới chỉ là "con nhạn" đầu tiên của chị Thanh Quý. "Con nhạn" thứ hai quan trọng hơn nhiều. Đó là tên quan ba xếp bót Thủ Đức. Qua trung gian của anh thư ký Chánh giúp việc văn phòng, chị Thanh Quý làm quen tên quan ba này. Cũng là một tay háo sắc, thích của lạ nên hắn si mê ngay cô gái Huế thường mời cô đi dạo đồng quê ngoại thành trên xe Jeep. Thanh Quý báo ngay đồng đội phục kích trên lộ trình mà tên quan ba gọi là "tour d'inspection" (vòng kinh lý quanh thị trấn Thủ Đức).
Cuối năm 1946 , do có người khai, chị Thanh Quý bị bắt nguội. Với tội trạng thủ tiêu hai sĩ quan - tên đội Chà và đại úy xếp bót Thủ Đức - chị Thanh Quý bị Tòa đại hình lên án tử hình. Hai luật sư Nguyễn Hữu Thọ và Ngô Sách Vĩnh biện hộ, bản án được giảm xuống còn 10 năm khổ sai, 10 năm biệt xứ.
Ngày đầu vào salle 14, Thanh Quý đối đầu với cặp rằn Sáu Hiển. Mụ Sáu Hiển cũng tác oai tác quái như mụ Bảy Sảnh bên salle 15. Mụ ta nằm trên chồng chiếu mới cao cả tấc trong khi các chị em khác nằm chiếu rách. Cũng có người đấm bóp, người quạt. Ngay từ đầu, chị Thanh Quý đã sôi gan: “Con mẹ này đi lộn sân rồi, nó là thường phạm, sao lại nhốt bên chính trị phạm?" . Nhưng chị chưa ra tay, vì mới vô tù, chị là ma mới , phải liên kết với một vài chị em nữa mới tống mụ cặp rằn quái gở này được. Thanh Quý tìm được bạn đồng minh là chị Mai Vân, một nữ biệt động ở Phú Thọ Hòa, là em họ của anh Tư Thược (sau là đại tá Lâm Quốc Đăng). Sau thời gian bí mật tranh thủ chị em vùng lên chống bất công trong tù, hai chị Thanh Quý, Mai Vân tuyên chiến với mụ Sáu Hiển. Mai Vân giới thiệu chị Thanh Quý: “Một nữ biệt động dã diệt hai thằng Tây - Tây trắng và Tây đen - bị 20 năm tù, lẽ nào lại chịu thua cặp rằn salle 14 này? Nếu chị biết điều thì từ chức cặp rằn ngay, chúng tôi sẽ bỏ qua cho". Tất nhiên, mụ Sáu Hiển không chịu thua dễ dàng như vậy . Mụ hất hàm ra hiệu các lâu la nhưng bọn này thấy khí thế hai chị Thanh Quý và Mai Vân "trùm phé” với sự ủng hộ của toàn salle nên êm re. Mụ Sáu Hiển đành hạ giọng cầu hòa.
Hạ xong mụ Sáu Hiển, Thanh Quý và Mai Vân bắt đầu nhắm tới đối tượng mới là mụ Bảy Sảnh bên salle 15. Lúc đó Lan Mê Linh, người nữ sinh đã bắn tên chủ báo Phục Hưng phản động là Hiền Sĩ trên đại lộ Bonard (Lê Lợi) sát chợ Bến Thành, bị đưa vào salle 15. Lan Mê Linh mảnh mai, yếu sức nên ngay ngày đầu đã bị mụ Bảy Sảnh hành hung vỗ mặt. Vừa thấy Bảy Sảnh đấm vào mặt Lan Mê Linh, hai chị Thanh Quý và Mai Vân nhào tới can thiệp ngay. Tiếng la ó vang dậy khiến thầy chú chạy tới, mụ Bảy Sảnh đành ngưng chiến.
Qua ngày sau, Thanh Quý tìm cách sang salle 15. Đây là hành động dũng cảm, vì salle 15 là nơi nhốt thường phạm, dân trí thiếu kém, không như salle 14. Nhưng Thanh Quý rất tự tin. Chị bình tĩnh thuyết phục cặp rằn Bảy Sảnh vốn là tay anh chị chợ Cầu Muối. Tất nhiên chuyện thuyết phục rất cam go vì đang làm vua chúa, ai lại dễ dàng xuống làm dân. Nhưng Bảy Sảnh đã thấy mụ Sáu Hiển bị hạ bệ nên nhuệ khí mười phần mất bảy còn ba.
Mai Vân bên salle 14 cũng chồm ra tiếp sức với Thanh Quý: "Ăn hiếp chị em trong tù tay không là hèn. Vô tù đã đau khổ rồi, tại sao không giúp nhau chịu đựng mà lại xúm lại làm khổ nhau?... Còn như chị em tôi đây, nữ biệt động thành, ăn thua đủ với Tây tà, có súng dài súng ngắn mới là ngon lành. Không lẽ dân biệt động thành lại thua kém dân Cầu Muối?".
Lý thì mụ Bảy Sảnh thua rồi, nhưng mụ còn lực. Nhìn kỹ đối thủ của mình mụ thấy Thanh Quý tuy thanh thanh nhưng không dễ bắt nạt như Lan Mê Linh nên do dự chưa dám ra tay. Thanh Quý đấu dịu giảng hòa: “Chúng tôi là tù chính trị, không bao giờ muốn tranh cái chức cặp rằn của chị. Nhưng chúng tôi không chịu được mọi thứ bất công xảy ra trước mắt chúng tôi. Nếu chị còn hành hung Lan Mê Linh hay bất cứ ai khác thì chúng tôi sẽ không nương tay đâu!".
Thế là mụ Bảy Sảnh ê mặt chịu thua.
Ngày kia, Phòng 14 có thêm một tù mới. Cô ta tự xưng là cán bộ hoạt động nội thành, bị bắt trong khi ra bưng. Nhưng với cặp mắt kinh nghiệm, Thanh Quý phát hiện có chút gì không đáng tin cậy nơi người bạn tù này. Và chị âm thầm theo dõi. Mấy ngày đầu, chị tù mới này làm ra vẻ khổ sở, bỏ cơm nằm im trong góc khám. Nhưng vào nửa đêm, Thanh Quý hé mắt thấy cô ta nhai bánh mì kẹp chả lụa. Thế là thêm một chút sinh nghi. Cho đến một tuần sau, lại có thêm một người tù bị đưa vào. Chuyện lạ là người tù mới cứ nhìn châm bẩm vào cô bạn mới vô trước mình, còn cô kia thì hết sức lẩn tránh. Thanh Quý bèn tìm cách gần gũi người tù mới và trong bữa ăn, được nghe người tù mới tiết lộ “con đó là tù gian. Nó được đưa vô salle 14 để dò xét và mật báo tổ chức trong salle và ai là người chỉ huy". Thanh Quý chưa tin, gạn hỏi thêm thì chị tù mới kêu đích danh con tù gian: "Nó tên là Lý Thị Hoa, làm nghề điềm chỉ ở xóm Bàn Cờ. Chính nó đã chỉ bắt một đồng đội của tôi tá túc tại nhà nó. Tàn nhẫn hơn nữa nó còn để cho bọn lính kín hãm hiếp bạn tôi trong khi chị ấy mang thai ba tháng".
Nghe qua, Thanh Quý bàn với Mai Vân tiếp tục điều tra tên tù gian Lý Thị Hoa. Khi nắm đủ bằng chứng, hai chị quyết thủ tiêu con rắn độc ngay trong khám. Hai chị thừa dịp nó vào hố xí, một người xổ chiếu ra che khuất để người kia bóp cổ tên tù gian. Vụ xử diễn ra nhanh chóng. Hai chị lôi cái xác không hồn vè chiếu, đắp mền lên như ngủ say. Tới sáng, mới phát hiện tên tù gian chết. Thanh Quý và Mai Vân tranh nhau tự nhận mình là thủ phạm. Ra tòa, Thanh Quý lãnh thêm một án tử hình nhưng nhờ luật sư Ngô Sách Vinh biện hộ, án tử hình giảm xuống còn 10 năm khổ sai, chồng án trước thành chung thân khổ sai.
Khi thực dân xây khám Chí Hòa, chị Thanh Quý được đưa qua đó một thời gian rồi đày ra đảo. Tới Hiệp định Genève 1954, chị được trao trả tù binh tại Sầm Sơn, Thanh Hóa. Thế là chị lại tiếp tục hoạt động trong ngành tình báo. Sau giải phóng miền Nam, chị là Thiếu tá. Hàng năm, trong những ngày họp truyền thống Ban công tác thành, rồi lấy tên là Biệt động đặc công khu Sài Gòn-Chợ Lớn, chị Thanh Quý là Mạnh thường quân hào phóng đài thọ những thiếu hụt của Ban tổ chức lúc đó còn nghèo.
Chị Thanh Quý đã về cõi vĩnh hằng từ nhiều năm rồi, nay viết bài này là để tưởng nhớ một người chị kết nghĩa, một chiến sĩ biệt động dũng cảm phi thường và có lòng nhân hậu hiếm thấy.