Đám giỗ cuối năm của gia tộc Ung Văn Khiêm đã xong phần nghi lễ. Bà con thân tộc ngồi đông đủ hai bàn tròn. Chỉ còn thiếu một người. Cô Sáu Huệ, em ruột ông Ba Khiêm đứng lên nói:
- Dượng Sáu sáng nay có chút việc tại Tổng lãnh sự Pháp. Chắc cũng gần về rồi. Tôi dặn ổng đi xích lô thẳng lại đây.
Nhiều người tò mò:
- Hồi đầu năm Tổng thống Francois Mitterrand sang Việt Nam, ghé Sài Gòn, có hỏi thăm các nhà trí thức tốt nghiệp ở Pháp. Nay Tổng lãnh sự Pháp mời luật sư Trần Văn Khương, chắc cũng trong tinh thần nối lại mối liên hệ văn hóa lâu đời giữa hai nước.
Vài phút sau, ông Khương về tới. Đó là một người trên 80 tuổi, tóc bạc trắng nhưng tướng đi hãy còn cứng cỏi. Ông cầm trong tay một hộp tròn và dài giống như hộp banh tennis. Ông đi giáp vòng bắt tay mọi người, cười nói:
- Xin khoe với bà con, những món này tôi được cấp cách nay năm mươi năm. Nhưng tới bây giờ, nửa thế kỷ sau, tôi mới được thấy mặt.
Tất cả đều hướng về cái hộp ông Khương đang mở nắp. Vài phút sau, có tiếng reo vui:
- Bất ngờ, thú vị quá!
Và người ta chuyền tay nhau xem những món quí ông Khương vừa lấy từ trong hộp ra.
Giáo sư kinh tế Bút, rể gia đình họ Ung đọc to lên:
- Licence en Droit, ba chứng chỉ cử nhân luật do Đại học Paris cấp năm 1943, bằng Năng khiếu luật sư năm 1944, hai bằng Cao học luật cũng năm 1944...
Chị Minh, cũng là giáo sư kinh tế, con gái ông Khiêm, đưa lên mấy tờ giấy nối lời chồng:
- Bằng này mới là ác liệt. Docteur d'Etat en Droit avec Mention Assez Bien (Tiến sĩ luật khoa Quốc gia) còn đây là bằng tốt nghiệp Trường Saences Politiques.
Tất cả tranh nhau mượn xem các bằng cấp từ những năm 43, 44, 45 cách nay nửa thế kỷ. Rồi lần lượt tới bắt tay chúc mừng nguội dượng Sáu Khương.
Tôi là khách được mời nên ngồi trong góc lặng lẽ quan sát. Không khí bữa giỗ kể từ đó bỗng trở nên lắng xuống, man mác buồn - những người học văn hóa Pháp gọi đó là "La nostalgie du passé" (nỗi nhớ xa xưa).
Luật sư Khương ngồi vào bàn, lặng lẽ ăn. Nhưng tôi biết tâm hồn ông đang sống lại những năm tháng nghèo đói, cô đơn, nhưng quyết tâm vượt mọi khó khăn để "dồi mài kinh sử". Hy vọng "bảng hổ đề tên" của một học sinh nghèo từ làng quê bùn lầy đọng sang kinh thành Ánh Sáng lập nên sự nghiệp với đời là cao quý tột bậc rồi; nhưng trường hợp của luật sư Khương còn cao hơn nữa. Ông dám bỏ cuộc đời hoa gấm để lao vào cuộc chiến tranh trường kỳ và gian khổ, góp phần giải phóng quê hương thoát ách nô lệ cả trăm năm. Tháng Tám năm 45, tôi đã cất cao tiếng hát "Xếp bút nghiên coi thường công danh như phù vân" nhưng một học sinh trung học như tôi thì có công danh gì đâu mà "coi thường như phù vân"?
Còn ông Tư Khương, sang Pháp năm 18 tuổi, chưa có bằng Sơ học, miệt mài 17 năm mới chiếm được các bằng cử nhân, tiến sĩ tốt nghiệp Saences Po, một loại bằng của giới quý tộc chuyên ngành chính trị và ngoại giao Pháp. Như vậy, cũng là xếp bút nghiên, nhưng giữa ông luật sư Khương và anh học trò trung học như tôi có một khoảng trời xa cách. Tôi nhất định đến nhà làm quen người trí thức đàn anh đáng quý của mình.
Luật sư Khương tâm tình:
- Quê tôi lth xã Tân Hưng, một xã nghèo trong quận Ba Tri, Bến Tre. Cha tôi làm hương sư trong làng, nhà đủ ăn. Làng Tân Hưng không có trường, tôi phải học chữ nho tới 14 tuổi, sau qua xã Hưng Nhượng học chữ quốc ngữ một năm, năm sau lên Bến Tre học lớp nhì. Năm 1926, vào tháng ba, học sinh để tang cụ Phan Chu Trinh bị đuổi học. Nhà giàu cho con đi Tây học, tôi cũng ham, nhưng nhà nghèo không đủ sức . Tình cờ tôi tìm thấy trong tủ đứng trong nhà có gói bạc cha tôi vừa bán lúa, mở ra đếm thì đúng năm trăm đồng. Đây là số tiền lớn nhất mà cha tôi có, mấy năm trước, lúa không trúng như năm đó. Ngay đêm ấy, tôi viết thư xin cha mẹ tôi cho tôi số tiền năm trăm đó để sang Pháp lập thân.
Bốn giờ sáng hôm sau, tôi đạp xe ra xã An Ngãi Trung đón xe đò lên Sài Gòn. Tại Sài Gòn. tôi gặp cậu công tử cháu ngoại điền chủ mà cha tôi mướn đất làm, nghe tôi nói muốn qua Pháp học, anh ta hứa lo giấy tờ giúp, tôi đưa anh ta nửa số tiền là hai trăm rưỡi. Vài ngày sau anh ta nói "tao lỡ xài hết rồi !". Biết mình bi gạt, nhưng tôi cương quyết ra đi vì không thể trở về với hai bàn tay trắng. Tiền tàu hạng ba là ba trăm mà tôi chỉ còn trên hai trăm, phải đi hạng tư tức là "sur pont" (ngủ trên boong tàu) giá một trăm hai mươi đồng. Rủi thay, vé hạng tư đã hết. Tôi năn nỉ thầy ký bán vé khá lâu mà không được, tôi vụt nghĩ ra một cách là chờ thầy ta về nhà ăn cơm trưa, tôi nhét vội một tờ giấy "hoảnh" (hai chục đồng) vô túi. Thế là chiều đó thầy ta lo cho tôi mua được một vé.
Tôi xách vali mây lên tàu, mướn ghế bố xếp nằm trên boong mà chịu lạnh vào đêm. Trong vali chỉ có vài bộ bà ba vải trắng. Thời may trước đó tôi gặp em vợ thầy giáo Lê Thọ Xuân, nhà sử học cho bộ đồ kaki tôi mặc xuống tàu. Tàu chạy giữa biển, tôi nằm suy nghĩ, không biết sang Pháp sẽ tấp vào đâu để ăn học thì gặp anh Lâm Thái, người Miên Trà Vinh và anh Huỳnh Tích, cháu ngoại đốc phủ Mầu ở Mỹ Tho rủ về Praysass thuộc quận Agen, nơi đây có linh mục Sinonet chuyên đỡ đầu người Việt sống ở Pháp. Chúng tôi ở nhà của linh mục, đi làm lao động ba tháng hè kiếm tiền ăn học. Gần hết tiền, tôi viết thư về nhà xin tiền, gia đình không có tiền gửi qua, thời may có bà Mười Liễu ở xã An Ngãi Trung biết tôi là học trò nghèo mà ham học, gửi tiền sang giúp được vài năm. Năm 1930, kinh tế khủng hoảng, đa số học sinh, sinh viên Việt Nam về nước . Tôi quyết tâm ở lại học và đi làm thuê làm mướn kiếm tiền đóng tiền trường. Tôi may mắn gặp ông Edouard Herriot, Viện sĩ Hàn lâm, Chủ tịch Quốc hội Pháp, Chủ tịch danh dự Đảng Xã hội Cấp tiến, ông viết thư cho Viện trưởng Viện Đại học Paris xin cho tôi làm "maitre d'internat" (giám thị) ở các trường trung học. Đây là một đặc cách vì nhiệm vụ này chỉ giao cho người Pháp thôi. Tôi là người Việt Nam đầu tiên được làm giám thị trường trung học ở Pháp. Tôi phải làm ở tỉnh nhiều năm mới có thể lên Paris để học Luật, năm 43, tôi đậu cử nhân Luật, năm 44 đậu hai bằng Cao học Luật và bằng Năng khiếu Luật sư, năm 45 đậu bằng tiến sĩ Luật Paris và tốt nghiệp trường Khoa học Chính trị. Học xong rồi, tôi không bao giờ quên các Mạnh thường quân như bà Mười Liễu, nghị sĩ Pierre Cot, ông Bastoul, Chủ tịch Hội cựu học sinh trường Trung học Agen, giáo sư Gaston Martin và nhất là ông Edouard Herriot.
Năm 1946 , tôi được đưa vào công tác trong phái đoàn ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do anh Trần Ngọc Danh làm trưởng đoàn. Trong thời gian Hội nghị Fontainebleau, tôi góp phần giúp Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Hồ Chủ tịch tiếp xúc với các chính khách quan trọng Pháp nhờ nhiều năm học Luật và Khoa học Chính trị, có quen biết nhiều giới chính trị tiến bộ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng có lời khen "anh Trần Văn Khương với vị trí xã hội bình thường của mình mà lại quen thân nhiều nhà hoạt động chính trị tiến bộ có tên tuổi ở Pháp".
Ngày 5.9.1949, tôi về nước tham gia kháng chiến. Tại Sài Gòn, tôi ở nhà ông bà Kinh lý Phạm Ngọc Thuần, cha của anh luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần, Phó Chủ tịch ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ. Bà kinh lý tặng tôi một quần lụa đen mới may, cô con gái tặng tôi một áo bà ba hàng đen. Áo hơi chật nên tôi mặc lội bưng Tháp Mười một bữa là rách.
Ngày vô khu là ngày 11.9.1949, xe nhà đưa tôi tới Cai Lậy, cách chợ vài trăm thước. Tôi xuống xe vô nhà dân thay bà ba đen lội bưng. Hai bàn chân đi không, bị gốc cỏ ống mới phát dưới đồng ngập nước tới đùi cứa đau điếng. Tôi được bạn bè trong khu ôm hôn, anh em bạn cũ gặp nhau, niềm vui nào kể xiết: Tôi được phân trong Mặt trận Liên Việt cho tới hòa bình 1954, thì tập kết ra Bắc.
Trở lại chuyện mấy cái bằng cấp, tôi hoàn toàn quên chúng cho tới khi ông Francois Mitterrand qua Sài Gòn hỏi thăm các nhà trí thức tốt nghiệp Paris mấy mươi năm về trước, tôi mới chợt nhớ lại việc mình cũng đã từng tốt nghiệp ở Pháp. Tôi bèn viết thư qua Pháp hỏi các bằng cấp nửa thế kỷ trước đây. Gửi thư nhưng không tin là còn vì trải qua năm chục năm đầy biến động. Nếu còn thì vui, còn không thì thôi. Không ngờ tháng sau tôi được ông Thư ký Đại học Luật Panthéon d’ Assas cho biết các bằng cấp vẫn còn và sẽ gửi qua cho tôi theo đường ngoại giao. Kế được thư Tổng lãnh sự Pháp mời tới lãnh giấy tờ từ Paris gửi qua.
Nghe anh Tư Khương kể câu chuyện tìm lại được các bằng cấp thất lạc 50 năm, tôi nghĩ tới chuyện Châu về Hiệp Phố. Tôi mừng cho anh về già có niềm vui tinh thần to lớn như vậy. Nhưng còn một niềm vui cao quí hơn nữa: Anh Khương nhận được Huân chương Độc lập hạng Hai (ngoài hai Huân chương kháng Pháp và chống Mỹ trước đó).