Cử nhân luật Lê Đình Chi từng giữ chức commis greffier (lục sự) pháp đình Sài Gòn. Ông sinh năm 1912, tại Nam Định. Vào Sài Gòn sinh sống. Năm 1945, ông cùng luật sư Nguyễn Thành Vĩnh ra bưng kháng chiến. Ông Chi được anh Nguyễn Bình trọng dụng ở ngành quân pháp. Rất tiếc, anh Chi hy sinh sớm ngày 2. 6. 1949, lúc đó ông mới 37 tuổi, đang là Giám đốc Nha Quân pháp Nam Bộ. Các bạn tặng cho ông câu ca ngợi "mạng ấy yểu mà danh ấy thọ".
Cuộc càn lớn nhất Pháp đánh vào Đồng Tháp Mười ngày 2.6.1949 nhằm quảng cáo cho cái gọi là Chính phủ Quốc gia Việt Nam (État du Vietnam) do cựu hoàng Bảo Đại cầm đầu. Chúng huy động cả thủy, !ục không quân và binh chủng nhảy dù. Trong cuộc càn này, ta thiệt hại hai trí thức lớn. Đó là kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt và luật gia Lê Đình Chi, Giám đốc Nha Quân pháp Nam Bộ. Hai vị trí thức này - ông Lê Đình Chi bị trúng đạn máy bay, còn kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt bị địch bắt và đã hy sinh sau thời gian dài bị tra tấn và mua chuộc.
Lê Đình Chi sinh năm 1912, tại Nam Định. Đậu cử nhân luật năm 1935, không tham chính-từ chối chức tri huyện vào Sài Gòn làm commis greffier tại Tòa áo đỏ (Đại hình) Sài Gòn. Là người trí thức sớm giác ngộ từ năm 1936, trong phong trào Đông Dương đại hội, ông tham gia tranh đấu đòi mở rộng dân chủ, nâng cao dân sinh, cải thiện dân trí nhân lúc Mặt trận Bình dân lên cầm quyền bên Pháp. Ngôi nhà và cũng là văn phòng luật gia của ông, số 132 Lagrandière (Lý Tự Trọng) đồng thời là nơi cất giấu tài liệu bí mật, vũ khí, cờ, khẩu hiệu... Còn là nơi nương náu của ác đồng chí đang bi truy nã như Phan Đình Công (sau này là Chi đội phó Chi đội 10 Biên Hòa), Hà Mâu Nhai (sau này là Giám đốc Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh), Lê Đình Nguyên, Phạm Văn Uyển, Nguyễn Văn Bàng, Lê Văn Chữ, Phạm Minh Chuẩn...
Ngày ta cướp chính quyền Sài Gòn - 25.8.1945, ông Chi tham gia cuộc họp của giới thẩm phán và luật sư.
Ngày 23.9.1945, khi Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, Lê Đình Chi chạy ra ngoại ô Thị Nghè. Tại đây, ông được liên lạc đưa qua chiến khu An Phú Đông, bên kia dòng sông Sài Gòn. Ông từng tham gia hội nghị về việc thi hành Hiệp ước 6.3.1946, tại miếu Bà Cơ , Đại An, cùng với Huỳnh Văn Nghệ, Võ Bá Nhạc, Phạm Thiều. Lúc này ông là Trưởng phòng Quân pháp Quân khu 7.
Ông Chi tập hợp một số trí thức như sinh viên luật Trần Văn Quới (Bảy Quới) để dịch sách luật như cuốn Code pénal modifié (Luật cải cách). Các phiên tòa án binh trong Quân khu 7 diễn ra rất nghiêm túc, có đủ hội đồng xét xử như chánh án, hội thẩm, công tố viên, luật sư... Những đêm tòa án binh xét xử trong vườn cao su huyện Bình Chánh có đèn điện với máy nổ, máy phóng thanh, với bục xét xử trên cao, với vành móng ngựa và hai tiểu đội lính gác trông thật uy nghi, ấn tượng "công thưởng-tội trừng" kẻ chữ to trắng trên nền vải đỏ - dạy cho quân và dân trong chiến khu biết sống tôn trọng luật pháp - tuy là bất thành văn nhưng được mọi người tôn trọng. Đó là đóng góp lớn của Phòng quân pháp do ông Lê Đình Chi phụ trách. Năm 1947, khi anh Ba Bình về Nam Bộ giữ hai chức ủy viên quân sự Nam Bộ kiêm Phó chủ tịch ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, ông Lê Đình Chi được đề bạt Giám đốc Nha quân pháp Nam Bộ.
Thêm một đóng góp lớn của ông Chi - mở các lớp đào tạo cán bộ tư pháp, các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp. Ông mất rồi nhưng số học trò do ông đào tạo ngày nay vẫn giữ nhiều trọng trách trong các ngành tư pháp. Các sách do ông soạn thảo như Luật hiến pháp sơ giảng, Hình luật sơ lược, Hình luật tố tụng, Luật vi cảnh, Quân luật Việt Nam là những bộ sách quí trong những năm đầu kháng chiến, khan thiếu sách luật.
Ngày 2.6.1949, ông Lê Đình Chi trúng đạn máy bay tại chợ Mỹ An, làng Tân Hòa Đông, tỉnh Tân An. Năm ấy, ông vừa tròn 37 xuân. Người đời sau tiếc một trí thức có công trong ngành tư pháp cách mạng lại vắn số nên tặng cho ông mấy chữ "mạng ấy yểu nhưng danh ấy thọ".