Đồng chí Phạm Hùng sinh năm 1912 tại Long Hồ (Vĩnh Long). Đang học năm thứ hai trường Trung học Mỹ Tho, ông bỏ trường đi theo cách mạng.
Trong ngục tù thực dân, ông đã nêu cao tinh thần bất khuất của người dân Nam Bộ cũng như khí tiết của người Cộng sản.
Ông từng giữ chức Giám đốc Sở Công an Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp, Bộ trưởng Bộ Nội vụ (Nay là Bộ Công an) và Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Lịch sử Côn Đảo ghi rõ: ba tháng sau khi chiếm Nam Kỳ lục tỉnh, Thiếu tướng Hải quân Bonard, Thống đốc đầu tiên của Nam Kỳ ký Nghị định 1.2.1862 biến đảo Poulo Condore (Côn Đảo) thành trại giam lưu đày các phạm nhân và tù binh chiến tranh. Trại giam Côn Đảo do một thanh tra bản xứ vụ (Inspecteur des aflaires indigènes) cai quản, thanh tra đầu tiên là Trung úy Félix Roussel, Phó hạm trưởng Hải quân.
Vào thời điểm này, so với thực dân Anh và Bồ Đào Nha thì Pháp kém xa tư duy hai anh này. Bồ Đào Nha biến nhượng địa Macao (Áo Môn) của Trung Quốc thành một sòng bạc quốc tế ở Á Đông để kinh doanh bằng máu đỏ đen, còn.Anh thì biến tô giới Hồng Kông (Hương Cảng) thành một hải cảng quốc tế thu hút tàu bè khắp thế giới tới buôn bán và du lịch. Trong khi đó anh Pháp nhà ta lại biến hòn đảo xinh đẹp Côn Lôn thành địa ngục trần gian để đàn áp các chiến sĩ yêu nước Việt Nam.
Gần một trăm năm - từ 1862 tới 1945 - biết bao thế hệ bị lưu đày Côn Đảo kể cả chín năm kháng Pháp (1945- 1 954) và những người tù này đã nêu gương bất khuất, xứng đáng với truyền thống bài thơ Đập đá tại Côn Lôn của cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh (1872-1926).
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan dăm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng chỉ sờn dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan nào sá sự con con.
Riêng tại Sài Gòn, thực dân Pháp đã xây Khám Lớn. Đây là một khám rất lớn chiếm trọn khu đất nằm trong bốn.con đường lớn. Tây thiết kế cụm Khám Lớn-pháp đình gần sát bên nhau để tiện việc giải tù sang dự các phiên xử tiểu hình và đại hình. Trong Khám Lớn diễn ra nhiều cuộc đấu tranh như tuyệt thực, hô la để phản đối việc Tòa xử tử tù vị thành niên như Lý Tự Trọng mới 16 tuổi về tội bắn chết cò Legrand trên sân vận động Mayer (Võ Thị Sáu) trong một cuộc mít tinh biểu dương lực lượng đòi giảm thuế, mở rộng tự do dân chủ năm 1930.
Còn tại Pháp đình Sài Gòn, một tòa nhà nguy nga, trước cổng có hai tượng nữ thần Công lý một tay cầm gươm, một tay cầm cân công lý. Nhưng khi Tòa xử thì Nữ thần Công lý biến mất để bọn thực dân mặc áo đen (tiểu hình) áo đỏ (đại hình) tha hồ tác oai tác quái, thẳng tay kêu án những chiến sĩ yêu nước Việt Nam. Nhưng nhiều chuyện hi hữu xảy ra trước vành móng ngựa uy nghi đến rợn người. Những kẻ tội đồ bỗng nhiên biến thành chánh án buộc tội bọn thực dân quen thói ngu dân thay vì khai hóa dân trí như chúng thường rêu rao.
Rất nhiều chuyện người tập thú bị thú vồ hay nói theo giọng bình dân là “ngựa về ngược" xảy ra tại đây. Như trưởng ban công tác số 1 Nguyễn Đình Chính (đồng đội quen gọi là Chính heo) bị kết án tử hình đã tự tay thảo bản tự biện hộ đọc trước tòa đại hình lên án thực dân chính là kẻ có tội ngu dân, đàn áp những người yêu nước bản xứ. Rồi sinh viên Võ Thị Thắng tươi cười dõng dạc tuyên bố trước tòa: "Các ông kêu án tôi 20 năm khổ sai, nhưng các ông có đứng vững được 20 năm nữa không? Cuộc kháng chiến đã sắp tới giai đoạn tổng phản công rồi đó. Rồi đây các ông sẽ đứng trước vành móng ngựa này như chúng tôi hôm nay".
Thế mới thấy, chí khí của các chiến sĩ yêu nước Việt Nam vẫn hiên ngang dù ở địa ngục trần gian, trong Khám Lớn hay trước Pháp đình.
*.
Anh Hai sinh năm 1912 tại Long Hổ, Vĩnh Long. Anh học năm thứ hai trường Trung học Mỹ Tho (Tây gọi là Collège de Mytho) thì bỏ đi theo làm quốc sự, tiếng văn minh miệt vườn thời ấy đồng nghĩa với cách mạng.
Cũng như các anh Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây (Thanh Sơn) ở Collège Cần Thơ, anh Hai Hùng bãi học để tang cụ Phan Châu Trinh rồi bỏ trường dấn thân vào con đường làm quốc sự giành độc lập tự do cho đất nước.
Ngày Lao động quốc tế 1.5.1931 , anh Hai Hùng tổ chức cuộc biểu tình ở Long Định, Chợ Giữa, Mỹ Tho. Có ba ngàn người tham gia từ ba phía Thanh Phú, Xoài Hột, Long Hưng, Long Định, Chợ Bung kéo tới gặp nhau trên Quốc lộ số 1 . Anh Hai Hùng kể tội ác tên hương quản Trâu có nhiều nợ máu trong vùng. Thấy đông hương quản Trâu nhảy lên ngựa chạy trốn. Ngựa đâm hoảng phi xuống bưng sa lầy. Trong cơn xúc động không kiềm chế, dân làng đã xử tội tên ác ôn tại chỗ.
Anh Hai Hùng bị bắt đưa lên Khám Lớn Sài Gòn. Tại đây, anh đã làm cái việc mà sau này anh em gọi là "cách mạng khám đường". Anh đã trừng trị tên cặp rằn (Tây gọi là caporal) sống đế vương trên nỗi đau khổ của anh em tù. Anh đã đấu tay đôi với tên này và dùng độc chiêu (ngón song chỉ) móc mắt khiến tên ác ôn sợ bắn ra quần. Thầy chú lật đật đưa tay này qua nhà thương Chợ Quán . Trong khi đó đám lâu la của tên cặp rằn suy tôn anh Hai Hùng lên ngự trên chồng chiếu mới cao cả tấc. Nhưng anh Hai cười nói: "Tôi là dân làm quốc sự chống lại bất công, lẽ nào hạ cặp rằn để lên thay nó làm chúa ngục. Nhân dịp này, anh em nào chiếu quá rách thì đến đây đổi. Còn anh em nào nằm bên thùng xí quá lâu cũng được xoay vòng đổi chỗ để mỗi người chỉ nằm bên hố xí một ngày một đêm mà thôi". Cuộc cách mạng khám đường tháng 5.1931, đã giác ngộ tay giang hồ lừng danh vùng Bà Quẹo, sau này trở thành Chi đội trưởng Chi đội 4 Bình Xuyên- Mười Trí (Huỳnh Văn Trí).
Ra tòa, Hai Hùng bị xử án tử hình vì tổ chức biểu tình chống đi lính trong đó có một hương chức bị giết. Vô nằm Khám Lớn trong hầm tử hình được hai năm thì xảy ra vụ án lớn nhất trong lịch sử Đông Dương. Trong hồ sơ Tây gọi đây là vụ án Đảng Cộng sản Đông Dương. Báo Pháp Le Courrier de Saigon ghi rõ "procès monstre de 121 dirigeants et militants communistes devant la Cour Criminelle de Saigon (Vụ án khổng lồ xử 121 lãnh đạo và Đảng viên cộng sản trước tòa đại hình Sài Gòn).
Trong phiên xử này, anh Hai Hùng lại bị xử tử hình một lần nữa. Anh dõng dạc tuyên bố trước vành móng ngựa:
- Mỗi người chỉ có một cái đầu. Các ông xử tôi hai án tử hình, vậy là các ông tính chặt luôn cái đầu của thằng nhỏ tôi đây (vừa nói anh vừa chỉ tay dưới rún).
Giai thoại này thường được nhắc tới nhắc lui nhiều lần, và tam sao thất bổn. Có anh đại tá gốc Bình Xuyên (là anh SN) cả quyết anh Hai Hùng vạch quần đưa của quí trước ba Tòa quan lớn áo đỏ. Nhưng vài bậc lão thành có mặt trong vụ "procès monstre" này, (cụ Bảy Trân, Nguyễn Văn Trân), nói rằng: Phạm Hùng là dân có học, không làm chuyện mất vệ sinh trước tòa như vậy. Với trí thức, một lời nói hay có trọng lượng bằng cả ngàn lần hành động vô văn hóa.
Trở về Khám Lớn chờ ngày "Bà góa phụ" kết thúc cuộc đời mình. Tây gọi máy chém là La Veuve (góa phụ) và độc địa thay, chúng lại để Bà Góa phụ nằm kề cận các tử tù trong xà lim tử tội. Xà lim tử tội Phạm Hùng gặp các bạn đồng thuyền; tất cả gồm 7 người; tù chính tri có ba anh em Hai Hùng, Câu và Ó vô trước, kế hai anh Lê Văn Lương và Lê Quang Sung vừa bị tuyên án tử hình vụ Socony và ba thường phạm là Thanh, Đỏ và Một Dậm. Thói thường thì ma cũ ăn hiếp ma mới, nhưng ba anh thường phạm lại khoái bốn anh chính trị phạm. Ba anh này trao cho Hai Hùng mấy trang sách Truyện Kiều và kể chuyện ông Nhỏ. Ông Nhỏ là Lý Tự Trọng, tuổi vị thành niên mà bị Tây tuyên án tử hình vì đã xử tội tên cò Legrand tại sân banh Mayer (nay là Thành ủy). Gọi ông vì Lý Tự Trọng dũng cảm hơn người. Trong khám tử hình mà không biết sợ, chỉ vui thú ngâm Kiều giết thì giờ.
Thầy chú rất sợ ba anh tử tù thường phạm vì các anh “cùi không sợ lở”, ném thùng cứt vô đầu thầy chú, nắm râu cha cố khi cha cố vào khuyên họ rửa tội.
Hai Hùng đã làm được một chuyện hiếm thấy là thuyết phục ba anh này bỏ thói hung hăng, đừng để thiên hạ chê cười là chó cùng cắn bậy. Con người phải giữ gìn nhân cách dù trong hoàn cảnh nào. Anh gửi mua sách truyện đọc cho ba anh này nghe. Chừng ba anh này mê thì anh khuyên nên học cho biết đọc để tự đọc truyện thay vì nhờ anh em khác đọc giùm. Mới nghe, ba anh này đã cười lớn "chết tới nơi rồi mà còn học hành gì nữa cha nội?". Nhưng anh Hùng kiên trì thuyết phục và chỉ vài tuần sau ba anh này đọc được.
Năm 1934, các anh bị tử hình được giảm xuống còn chung thân và được đưa ra Côn Đảo. Chừng hỏi ra mới biết đây là cuộc vận động chí tình của Hội quốc tế Cứu tế Đỏ. Chính Hội này đã phái luật sư nổi danh từ bên Pháp qua cãi cho các anh em trong vụ án Đảng cộng sản Đông Dương. Đó là luật sư Cancellien. Ngoài việc tranh cãi, luật sư còn mang quà vô Khám Lớn ủy lạo anh em trong những ngày lao lý.
Ra đảo, anh Phạm Hùng cũng ngon lành như ở Khám Lớn Sài Gòn. Anh Năm Xuân (Mai Chí Thọ) đã kể chuyện đập đá ngoài đảo. Tây quyết giết lần mòn tù chính trị bằng lao động khổ sai, ăn uống thiếu đói, và nhất là dùng tù trị tù, nhưng anh Hai Hùng đã nêu gương đoàn kết tương thân tương ái. Khi nghe tin ta cướp chính quyền ở Sài Gòn ngày 25.8.1945, thì ngoài đảo anh Phạm Hùng đã tổ chức lực lượng sẵn sàng cướp đảo. Phái đoàn Tưởng Dân Bảo cùng tàu Phú Quốc do thuyền trưởng Bảy Ngạnh và mấy chục ghe từ Vàm Láng, Bình Đại ra đảo rước tù chính trị theo lệnh của Chủ tịch Lâm ủy Hành chính Nam Bộ Trần Văn Giàu thì đã thấy anh Hai chỉ huy anh em dân quân tập các động tác quân sự cơ bản trên đảo.
Về đất liền Phạm Hùng phụ trách ngành Công an Nam Bộ, về sau là Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sau cùng là Thủ tướng.
Thế mới biết con người có số, người bị hai lần bản án tử hình mà không chết, lại thẳng tiến lên con đường cách mạng. Sự thành công của anh Hai Hùng phải chăng là nhờ anh tôn thờ và hành xử theo hai câu để đời của Ức Trai tiên sinh (Nguyễn Trãi):
Lấy Đại Nghĩa thắng hung tàn
Đem Chí Nhân thay cường bạo?