Tiểu sử, Hồi ký
Tác giả: Nhiều Tác Giả

Lịch Sử Sư Đoàn Sao Vàng

Chương 8

XUÂN 1975

1. CẮT ĐỨT ĐƯỜNG SỐ 19 TRONG CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN

Không phải đến mùa xuân 1975, khi có nghị quyết chính thức của Quân khu uỷ, sư đoàn Sao Vàng mới bắt tay vào huấn luyện, chuẩn bị cơ sở vật chất cho chiến dịch Xuân 1975 mà ngay từ tháng 9 năm 1974, vừa mới chấm dứt chiến dịch Thu, đảng ủy sư đoàn đã quyết định chỉ để lại trung đoàn 141 và một số đơn vị pháo binh, công binh làm nhiệm vụ chặn địch phản kích. còn dành phần lớn lực lượng tập trung củng cố, huấn luyện theo qui mô đánh lớn, diệt lớn. Nhờ đó mà tới tháng 12 năm 1974, sư đoàn đã hoàn chỉnh biên chế, tổ chức theo yêu cầu cơ động đánh tập trung.

Tháng 10 năm 1974 tại hội nghị quân chính quân khu, Bộ tư lệnh Quân khu 5 đã sơ bộ phổ biến kế hoạch xuân hè 1975 cho các sư đoàn trưởng. Theo kế hoạch ban đầu, quân khu sẽ tập trung sư đoàn 2, sư đoàn 3, lữ đoàn 52 và đại bộ phận các lực lượng pháo binh, thiết giáp, công binh ở một hướng, nhằm tiêu diệt địch, giải phóng các quận lỵ, chi khu thuộc vùng giáp ranh hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, đánh thiệt hại nặng sư đoàn 22 ngụy. Đến mùa thu sẽ tiếp tục tiến công, tiêu diệt toàn bộ sư đoàn này, giải phóng hoàn chỉnh từ nam sông Vệ (Quảng Ngãi) đến bắc Tam Quan (Bình Đjnh). Sau đó thấy tình hình có thể giải phóng toàn tỉnh Quảng Ngãi.

Nhưng đến tháng 1 năm 1975, sau khi phân tích thế và lực giữa ta và địch trên toàn chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị Trung ương đảng nhận định: "Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc". Một chủ trương chiến lược hai năm 1975 - 1976 được vạch ra với một phương hướng hành động hết sức tích cực và cách mạng: "Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975"

Thời gian này là thời gian Quân giải phóng đang mở những chiến dịch lớn ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Ngày 6 tháng 1 năm 1975, Quân khu 7 tiến công và làm chủ thị xã Phước Long. Tỉnh Phước Long hoàn toàn được giải phóng. Thiệu làm rùm beng "sự kiện Phước Long". Một bộ phận hạm đội 7 Mỹ rập rình ngoài khơi bờ biển Nam Việt Nam. Nhưng cuối cùng cả Mỹ lẫn ngụy phải lờ đi vì không còn đủ khả năng để giải tỏa tỉnh này như những năm trước. Phước Long là tỉnh đầu tiên ở miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Có thể coi Phước Long là sự báo hiệu đầu tiên nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của quân đội ngụy.

Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương nhất trí thông qua phương án chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chiến lược và nhấn mạnh: "Cần đánh mở ra ở Buôn Ma Thuột và Tuy Hòa". Phục vụ phương án lớn của Bộ, kế hoạch tác chiến của Quân khu 5 cũng thay đổi về căn bản. Cụ thể, mặt trận đồng bằng ven biển sẽ hình thành hai hướng: Hướng chủ yếu: tây-nam Quảng Nam và tây-bắc Quảng Ngãi. Hướng quan trọng: Đường số 19, đoạn An Khê - Bình Khê.

Sư đoàn Sao Vàng được giao nhiệm vụ đảm nhiệm hướng quan trọng của quân khu, nằm trong thế trận của chiến dịch Tây Nguyên lịch sử.

Giữa lúc quân và dân trên toàn chiến trường miền Nam đang sôi động, chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 thì tại "Dinh Độc lập", vào ngày 9 và 10 tháng 12 năm 1974 , Nguyễn Văn Thiệu tổ chức một cuộc họp với tư lệnh các quân đoàn. Quân khu ngụy để phán đoán hoạt động của ta. Thiệu nhận định trong năm 1975 ta có thể đánh với qui mô lớn hơn năm 1974 nhưng không như năm 1968 và không bằng năm 1972. Thiệu còn cho rằng ta chưa có khả năng đánh thị xã lớn và thành phố, hoặc có đánh cũng không giữ được.

Trên cơ sở nhận định đó, Thiệu ra lệnh cho các quân khu, quân đoàn phải ra tay trước, nhắm phá vỡ các kế hoạch chuẩn bị của ta. Tháng 1 năm 1975, Trần Thiện Khiêm, thủ tướng ngụy Sài Gòn dẫn đầu một đoàn kiểm tra tới quân khu 2. Tên tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh quân khu đã trình bày rằng: Chiến dịch Xuân - Hè 1975, đối phương sẽ bắt đầu vào cuối tháng 1 hoặc đầu tháng2, Phú nhận định nếu ta mở chiến dịch lớn thì tỉnh Công Tum, Plây Cu và bắc Bình Định sẽ là những chiến trường trọng điểm. Sau đó, Phú trình bày kế hoạch của y. Trong kế hoạch này, Phú quyết định dùng sư đoàn 22 bộ binh với bốn trung đoàn 40, 41, 42, 47 chuẩn bị những trận đánh lớn ở bắc Bình Định, tiêu hao và tiêu diệt sư đoàn 3 Sao Vàng và lực lượng của tỉnh đội Bình Định. Sau đó hắn hứa với Khiêm sẽ "bảo vệ quốc lộ 19 bằng mọi giá...".

Như vậy là mặc dù phán đoán thời gian và hướng tiến công sai lầm về căn bản, nhưng địch đã rất chú ý tới con đường chiến lược 19.

Từ nhận định của Thiệu, của Phú qua những hoạt động của ta cuối năm 1974, kết hợp với những tin tức tình báo chúng thu được về việc vận chuyển của ta trên trục đường ngang dùng cho cơ giới từ Gia Lai xuống An Lão nối với đường số 5. bọn chỉ huy sư đoàn 22 ngụy khẳng định hướng tiến công chủ yếu của sư đoàn Sao Vàng trong xuân 1975 là bắc Bình Định. Bời vậy, chúng hấp tấp dồn đến khu vực này ba trung đoàn của sư đoàn 22 quyết chiếm lại bằng được các vị trí then chốt: Núi Chéo, điểm cao 82 và điểm cao 174 án ngữ trên trục đường số 5.

Vừa ráo riết chuẩn bị cho phương án tác chiến ở phía nam, sư đoàn Sao Vàng vừa phải dành lực lượng đánh địch phản kích. Cuộc chiến đấu của tiểu đoàn 8 và một số đơn vị của sư đoàn đã diễn ra trên khu vực này hết sức ác liệt Mỗi ngày địch huy động từ 30 đến 50 lần chiếc máy bay ném bom và bắn từ 2.000 đến 2.500 quả pháo xuống các trận địa chốt để yểm trợ cho các mũi tiến công của chúng. Tổ chốt của đại đội 7 tiểu đoàn 8 đã đánh liên tục 10 ngày giữ vững cầu Phú Văn giữa bốn bề là địch. Tổ chốt Núi Chéo của Nguyễn Huy Định đã đánh địch đến viên đạn cuối cùng rồi nhảy lên khỏi công sự dùng tay không vật nhau với chúng. Mũi bộ binh cơ động của đại đội 5 vượt cánh đồng Long Quang dày đặc đạn pháo. cối đánh ngược lên giành lại điểm cao 82. Ở điểm cao 174, các chiến sĩ tiểu đoàn 8, các đơn vị trực thuộc đã đánh địch cả ngày lẫn đêm. Ngày mất chốt, đêm tổ chức lấy lại. Sáng mất chốt, chiều đã giành lại. Suốt ngày, điểm cao 174 như một ngọn núi lửa đang hoạt động. Nhiều chiến sĩ đã nói không quá rằng, điểm cao 174 không còn là điểm cao 174 nữa về nó đã bị bom pháo cào đi gần chục mét rồi.

Sự giành giật quyết liệt ấy của bộ đội ta làm sư đoàn 22 ngụy đinh ninh sư đoàn Sao Vàng cố giữ bàn đạp để chuẩn bị cho hướng tiến công chủ yếu trong chiến dịch năm 1975. Đến nỗi khi phát hiện ta ở bắc đường số 19, chúng cho rằng ta đang nghi binh chúng để tiến công bắc Bình Định, nếu có chiến sự thì đường số 19 chỉ là một mũi đánh phối hợp như năm 1972 thôi.

Đây là sai lầm cơ bản nhất của sư đoàn 22 ngụy. Khi chúng nhận ra sai lầm đó thì không kịp nữa. Tiếng súng tiến công đã rộ lên ở cả hai phía nam-bắc đường số 19.

Theo phương án mới của quân khu, nhiệm vụ cụ thể của sư đoàn Sao Vàng trong chiến dịch xuân 1975 được phân định như sau: Sư đoàn được tăng cường tiểu đoàn 19 công binh tỉnh Bình Định, một đại đội pháo cao xạ 37 của quân khu được trung đoàn 270 công binh bảo đảm mạng đường sá, có nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, phá hủy và thu một số phương tiện chiến tranh của chúng. Trên cơ sở diệt địch, thực hiện cắt đường dài ngày, tạo điều kiện tốt cho hướng chính Tây Nguyên diệt địch. tạo sơ khoáng cho hướng đông, hỗ trợ tốt cho phong trào địa phương Bình Định.

Về lực lượng, chấp hành chỉ thị của Bộ tư lệnh quân khu, sư đoàn đã thành lập trung đoàn 68 pháo binh, gồm tiểu đoàn 17 pháo mang vác (cối 120, 82, DKZ.75, DKB, A12, H.l2), tiểu đoàn súng máy cao xạ 12,8, tiểu đoàn cao xạ 37 và tiểu đoàn pháo cơ giới gồm lựu pháo 105, tách từ tiểu đoàn 17 ra và pháo 85 nòng dài mới được quân khu bổ sung. Quân khu còn cấp cho sư đoàn cơ sở vật chất kỹ thuật đủ hoạt động liên tục trong nửa năm. Vậy là lần đầu tiên sư đoàn ra quân với lực lượng bốn trung đoàn mạnh, một đội ngũ cán bộ không những đủ để đánh thắng trận đầu, đợt đầu mà còn đủ sức để đánh những trận tiếp theo.

Thời gian này. địch vẫn tiếp tục tập trung quân đánh phá quyết liệt để giành lại các điểm cao bị mất ở đông bắc Hoài ân và lấn sâu thêm nữa lên hướng đường số 5. Trung đoàn 141 cùng với một số đơn vị trực thuộc sư đoàn đã phải liên tục chiến đấu suốt ngày đêm, loại khỏi vòng chiến đấu 1.570 tên địch, thu gần 200 súng. Đặc biệt vẫn phải tiếp tục chiến đấu cho đến khi sư đoàn bắt tay vào chuẩn bị phương án mới. Vì thế các mục tiêu chuẩn bị của trung đoàn 141 trên khu vực đường số 19, các đội trinh sát và cơ quan tham mưu sư đoàn phải đảm nhiệm thay.

Cuối tháng 1 năm 1975, khi đoàn cán bộ chuẩn bị chiến trường theo các con đường mòn xuyên rừng đi về phía nam thì trung đoàn 270 công binh của quân khu cũng bắt đầu khởi công mở con đường nối liền khu vực Hoài ân với khu vực Bình Khê. Theo kế hoạch của sư đoàn, để đưa pháo vào trận địa, trung đoàn 270, các đơn vị trực thuộc cùng một lực lượng lớn nhân dân địa phương phải cấp tốc mở một con đường ở phía đông sông Côn và nhiều đoạn đường nhánh lên các điểm cao Hòn Sum, Ba Xuyên, Hữu Giang, núi ông Binh... Khi chiến dịch phát triển sẽ mở tiếp qua eo Hoành Sơn xuống Bình Thành và một nhánh cắt ngang đường số 19 vào phía nam, qua Đồng Tre tiến vào Đồng Dụ, chiều dài khoảng 260 ki-lô-mét.

Không phải đợi đến khi thông đường, sư đoàn mới chuyển hàng vào khu vực chiến đấu mà ngay từ khi thay đi nhiệm vụ, cơ quan hậu cần sư đoàn đã nghĩ đến việc bốc hàng ngàn tấn hàng từ các khu kho phía bắc tỉnh đưa về khu vực phía nam. Tất cả các phương tiện ô tô, thuyền nan, ngựa thồ, vận tải bộ, gồm 2.000 dân công và 1800 chiến sĩ được huy động cho chiến dịch vận tải khổng lồ này. Trong những ngày sôi động đó, các cơ quan hậu cần, từ chủ nhiệm đến trợ lý không lúc nào vắng mặt trên các tuyến đường. Nói cuộc chiến đấu của các chiến sĩ hậu cần dài hơn cuộc chiến đấu của các chiến sĩ bộ binh chính là như vậy. Nó bắt đầu từ lúc chưa nổ súng và khi dứt tiếng súng rồi, cuộc chiến đấu ấy vẫn còn tiếp diễn.

Cuối tháng 2, khi các cơ quan tham mưu chuẩn bị xong phương án tác chiến thì trung đoàn 270 cũng đã hoàn thành việc mở đường cho bước một của chiến dịch. Đây là một nỗ lực hết sức lớn của cán bộ chiến sĩ trung đoàn công binh quân khu. Đây là con đường dẫn đến chiến thắng lớn nhưng cũng là con đường đã thấm nhiều mồ hôi và máu của các chiến sĩ. Với kinh nghiệm của một đơn vị đã từng góp phần vào chiến thắng Nông Sơn, Trung Phước, Hiệp Đức, Ba Tơ trước đây, lần này trung đoàn 270 đã hoàn thành vượt mức kế hoạch, làm tăng niềm tin thắng lợi đối với cán bộ chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng

Theo phương án tác chiến, bước một, sư đoàn sẽ sử dụng cả bốn trung đoàn tiến công đồng loạt các cụm quân địch trên một tuyến dài 30 ki-lô-mét dọc hai bên đường số 19. Sau đó, trung đoàn 12 (thiếu tiểu đoàn 6) và các tiểu đoàn công binh sư đoàn, công binh tỉnh, tiểu đoàn 1 (trung đoàn 2) liên tục đánh địch trên hai khu chốt đèo Thượng Giang và Núi Ngang, không cho địch thông đường, nhốt chặt bọn địch còn lại ở khu vực Vườn Xoài Đồng Phổ, điểm cao 105 cho trung đoàn 2, trung đoàn 141 lần lượt vận động bao vây tiến công tiêu diệt, thực hiện cắt đường triệt để. Bước thứ hai sẽ mở chốt Núi Ngang cho viện binh địch vào khu vực tác chiến để tiêu diệt tiếp. Bước ba sẽ phát triển về phía tây hoặc phía đông tùy theo mệnh lệnh của quân khu.

Riêng cụm chốt Núi Ngang được xác định là chiếc "van" cơ động, đóng mở theo yêu cầu diệt viện nhiều hay ít. Đây sẽ là một khu chốt hết sức ác liệt. Phải có sức bám trụ kiên cường, có sự phối hợp nhiều lực lượng, dùng nhiều cách đánh để khi "van" đóng lại, có thể đương đầu với lực lượng địch đông gấp bội từ ngoài vào và từ trong ra. Cụm chốt này do phó trung đoàn trưởng Đoàn Mai Ngữ và chủ nhiệm chính trị trung đoàn Lưu Quang Đông phụ trách.

Ngày 26 tháng 2, sư đoàn bắt đầu hành quân. Trừ các đơn vị pháo cơ giới đi theo đường ô tô mới mở còn tất cả các đơn vị đều bí mật vào rừng trước khi trời sáng để vượt dốc Đót tiến về phía nam. Những đơn vị đánh từ nam đường lên, được lệnh hành quân trước Tết âm lịch. Trên khu vực tác chiến cũ, sư đoàn tiếp tục hoạt động nghi binh địch. Có lẽ chưa có năm nào chiến dịch nghi binh lại được sử dụng hiệu nghiệm đến như vậy. Các tiểu đoàn thu dung, tiểu đoàn sản xuất được lệnh hành quân liên tục hết ngày nay qua ngày khác, vừa hành quân vừa tung tin ta chuẩn bị giải phóng bắc Bình Định. Ban đêm, nhiều đơn vị tổ chức tiếp cận các vị trí địch, khi rút có ý để lại những đấu vết lộ liễu. Rồi những chiếc máy kéo, xe ủi đất của ban nông nghiệp tỉnh cũng được lệnh tiến ra phía bắc, bật đèn pha, gầm rú liên hồi, sáng ra để lại những vết xích hằn trên mặt đường như vết xích xe tăng. Cho đến những ngày cuối cùng, địch vẫn đinh ninh ta mở mặt trận ở phía bắc, trong khi đó toàn bộ lực lượng của sư đoàn đang lặng lẽ và khẩn trương tiến sâu về phía nam.

Dọc hai bên bờ đông và tây sông Côn, bên con đường mới mở này đặc kho, trạm, bếp Hoàng Cầm... được ngụy trang kín đáo. Dưới những cánh rừng bộ đội đi cuồn cuộn, hồi hả. Những đoàn dân công người Kinh, người Thượng đi tải đạn, gạo từ cuối tháng trước trở về, nói cười rộn rã. Các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng ra đi lần ấy không ai nghĩ rằng, đây là lần rời hậu cứ cuối cùng và sẽ không bao giờ họ còn có dịp trở về vùng rừng núi thân yêu này nữa.

Cắt đứt đường chiến lược 19 là vấn đề đầu tiên được đặt ra với chiến dịch nhằm giải phóng Tây Nguyên. Bời nó không chỉ là đường tiếp liệu, tiếp viện chủ yếu mà còn là con đường rút lui nhanh nhất của địch xuống đồng bằng một khi Tây Nguyên bị thất thủ. Chính vì tầm quan trọng chiến lược đó nên Thiệu và Phạm Văn Phú tư lệnh quân khu 2 ngụy xác định "phải giữ đường 19 bằng mọi giá".

Với chiều dài gần 200 ki-lô-mét, bắt đầu từ cầu Bà Dy trên đường số 1, đường số 19 chạy qua những cánh đồng, những vùng đồi núi của các huyện An Nhơn, Bình Khê, vượt đèo Thượng Giang quanh co hiểm trở, băng qua thị trấn An Khê... đổ vào thị xã Plây Cu, một thị xã lớn của Tây Nguyên.

Cũng như xuân - hè năm 1972, lần này sư đoàn SaoVàng lại chọn đoạn đường hiểm trở nhất là đoạn đèo Thượng Giang - Bình Khê làm khu vực tác chiến chủ yếu. Có khác chăng là quy mô tác chiến, thời gian cắt đường và ý định chiến dịch lần này lớn hơn năm 1972 rất nhiều. Năm 1972, sư đoàn chỉ cắt đường để cô lập địch ở Tây Nguyên, tạo điều kiện cho đơn vị bạn chiến thắng. Do đó mục tiêu cắt trường là chủ yếu. Lần này, sư đoàn được lệnh tiêu diệt địch để cắt đường dài ngày, có thể ba đến bốn tháng. Bời vậy việc chọn mục tiêu mở màn đợt hoạt động sẽ khác nhiều so với năm 1972. Những khác nhau đó đòi hỏi bộ tư lệnh sư đoàn phải suy nghĩ, tính toán thận trọng để tìm phương án tác chiến tốt nhất.

Thoạt đầu, sư đoàn chủ trương thực hiện bao vây đánh lấn tiêu diệt cụm quân địch ở Cây Rui và Núi Ngang để cắt đường ngay, sau đó đánh địch giải tỏa. Nhưng nửa đầu tháng 2, tình hình địch có biến đổi. Trung đoàn 47 ngụy lên tăng cường bảo vệ đường số 19, nống ra tới Truông Ổi, Định Quang. Vấn đề đặt ra là có nên diệt quân chủ lực địch ở Truông Ổi - Định Quang cùng một lúc với diệt bọn bảo an ở Cây Rui và Núi Ngang không? Đánh cùng một lúc thì trận đấu sẽ căng thẳng, nhưng nếu không đánh thì sư đoàn sẽ gặp khó khăn nhiều sau khi đánh vây lấn cắt đường, bời phải đánh ngay lực lượng giải tỏa của chúng. Cuối cùng, sư đoàn quyết định dùng chiến thuật tập kích hợp đồng binh chủng và bao vây tiến công liên tục (hai chiến thuật sở trường của sư đoàn) cùng một lúc vừa đánh cắt đường vừa diệt quân chủ lực dự phòng ở Truông Ổi, Định Quang.

Sự thay đổi phương án kể trên được báo cáo ngay về quân khu. Lo lắng cho kế hoạch tác chiến thay đổi đột ngột của sư đoàn, sáng mồng một Tết âm lịch, đồng chí Tư lệnh quân khu liền đánh xe vượt hàng trăm ki-lô-mét đến tận nơi trực tiếp kiểm tra. Sau khi nghe báo cáo cụ thể, đồng chí hỏi:

- Đánh thế này, trận đầu sẽ rất nặng, liệu có bảo đảm chắc thắng không?.

Sư đoàn trưởng trả lời:

- Chúng tôi có khả năng chuẩn bị để đánh thắng theo phương án này và sẽ cắt đường theo yêu cầu thời gian quân khu qui định.

- Dựa trên cơ sở nào? - Tư lệnh quân khu hỏi.

- Báo cáo đồng chí, chúng tôi dựa vào bộ đội đã thành thạo các chiến thuật này, cơ sở vật chất bảo đảm đủ cho trận đánh. Mặt khác, địch muốn thông đường phải có lực lượng cơ động, lực lượng đó bị đánh, viện binh địch sẽ rơi vào tình trạng bị động. Và chiếm được Truông Ổi, Định Quang, sư đoàn sẽ có bàn đạp mở thông cửa khẩu chính ra tới đường số 19, bảo đảm cho sư đoàn tác chiến lâu dài. - Sư đoàn trưởng trả lời.

Tư lệnh Quân khu kiểm tra chất lượng các đơn vị làm nhiệm vụ chủ yếu và cơ sở vật chất kỹ thuật của sư đoàn xong phê chuẩn phương án mới và căn dặn:

- Phải tập trung đánh thắng trận đầu. Phải kìm địch để đưa pháo vào gần, lên cao, bắn thẳng, đúng kế hoạch, giành ưu thế áp đảo về binh hỏa lực ở các mục tiêu then chốt. Trận đầu, quân khu sẽ cấp thêm đạn, nhưng các trận sau thì vào căn cứ địch mà lấy.

Sư đoàn khẩn trương triển khai phương án tác chiến. Đoạn đường Thượng Giang, Bình Khê quân ngụy đã đóng 37 chốt điểm, trong đó có những cụm chốt kiên cố như Cây Rui (bảy chốt điểm), cống Hang Dơi (năm chốt điểm), Đồng Phó - Hậu Trạm, Vườn Xoài (bảy chốt điểm), Truông Ổi - Che Chẻ (sáu chốt điểm)... Hầu hết các chốt địch đều nằm trên các điểm cao, án ngữ bên trục đường, do liên đoàn bảo an 927 đóng giữ.

Vào khoảng cuối tháng 2, sau khi trung đoàn 47 ngụy được điều vào đường số 19, sư đoàn Sao Vàng tiếp tục tung tin sẽ đánh phía tây sân bay Gò Quánh, rồi lại tung tin giải phóng An Khê, khiến trung đoàn này buộc phải xé vụn ra: Một tiểu đoàn ở An Túc; một tiểu đoàn ở Cây Rui, trung đoàn bộ ở thị trấn Phú Phong và một tiểu đoàn với hai khẩu 105 tăng cường cho cụm lính bảo an ở Truông Ổi. Đến đầu tháng 3, lực lượng địch ở đây tăng lên tám tiểu đoàn bộ binh, ba chi đoàn xe thiết giáp nhưng vẫn bị dàn mỏng. Do đó các mục tiêu của trận tiến công đầu, lực lượng ta vẫn chiếm ưu thế về binh hỏa lực.

Bộ tư lệnh sư đoàn xác định trong trận đấu ở Truông Ổi, Định Quang. chủ yếu diệt sinh lực địch. Cố diệt được cụm địch này, lực lượng cơ động của sư đoàn mới áp sát được đường số 19, hỗ trợ cho bộ phận cắt đường ở Hòn Tim, Chóp Nón. Hòn Kiềng, mới có bàn đạp vững chắc để đánh trận thứ hai, thứ ba trên khu vực diệt viện từ Vườn Xoài đến Đồng Phó.

Lúc này, địch càng nghi ngờ ta sẽ tiến công lớn cắt đường số 19. Chúng cho trung đoàn 47 sục sâu lên vùng núi Vĩnh Tranh để phát hiện lực lượng ta. Không kìm được địch thì việc làm đường và kéo pháo vào trận địa sẽ bị cản trở và khó giữ được bí mật ý đồ tác chiến. Nhưng đánh thế nào để vừa diệt được địch, khiến chúng không dám sục sạo lại vừa giữ bí mật được lực lượng. Chỉ huy thực hiện nhiệm vụ này, tham mưu trưởng sư đoàn quyết định dùng các chiến sĩ trinh sát, công binh trang bị gọn nhẹ, bám sát địch, tổ chức những trận đánh nhỏ và đánh liên tục, làm cho địch lầm tưởng chỉ có du kích địa phương. Trung đoàn 270 được lệnh ngụy trang triệt để con đường đang làm, đồng thời phân công một bộ phận chiến đấu từ xa không cho địch tới gần đường kéo pháo

Những hoạt động đó của sư đoàn kết hợp với những bãi mìn, chông, thò của lực lượng địa phương đã làm cho bộ binh địch khiếp sợ, không dám đi. sâu vào hành lang của ta. Chúng báo cáo với cấp trên là đối phương chưa có đủ khả năng tiến công lớn tại đây. Sư 3 Sao Vàng vẫn còn ở An Lão. Do đó, chúng vẫn để hai phần ba lực lượng sư đoàn 22 ngụy ở bắc Bình Định.

Kìm được địch là một thắng lợi nhưng một khó khăn nữa phải giải quyết là việc đưa pháo lên cao, vào gần, bắn thẳng. Sau chiến thắng Núi Nùng mùa thu 1974, sư đoàn nhận thấy rất rõ tác dụng của những khẩu pháo bắn thẳng. Vì thế trong chiến dịch lớn này, sư đoàn quyết lập nhiều trận địa pháo bắn thẳng cho trận đầu và những trận tiếp theo trong khu vực tác chiến của mình.

Đường đưa pháo vào chiếm lĩnh gian khổ hơn nhiều so với chiến dịch Thu 1974. Thám báo địch luôn rình mò, sục sạo, Hàng trăm người đã phải dùng mọi phương pháp để kéo, đẩy những khẩu pháo nặng qua những ngầm sông Côn chảy xiết, vượt lên những đỉnh núi cao từ 200 đến 800 m ngay sát khu vực càn quét của địch. Nhưng nhờ chuẩn bị chu đáo, tổ chức chặt chẽ giữa bộ đội và nhân dân nên cuối cùng các khẩu pháo bắn thẳng và pháo bắn vòng cầu cũng đã vào trận địa trót lọt

Ngày 3 tháng 3, sở chỉ huy sư đoàn vào chiếm lĩnh sườn tây-nam điểm cao 784. Từ đây bằng các phương tiện quan sát và thông tin, sư đoàn có thể theo dõi trực tiếp toàn bộ các trận đánh.

9 giờ sáng ngày 3, tình hình vẫn im ắng. Nhưng đến 0 giờ 40 phút, trung đoàn 2 báo cáo có một toán thám báo sục lên điểm cao 334 cắt dây điện thoại rồi phục kích bắn chết một chiến sĩ, lấy mất bản mật khẩu. Tiếp đó, trung đoàn 270 công binh báo cáo một tốp địch vào tới đường kéo pháo lên Hòn Sum, lấy mắt 50 ki-lô-gam thuốc nổ.

12 giờ trưa máy bay địch lên ném bom Hòn Sum. Phòng tham mưu sư đoàn nhận định: Dù phát hiện được pháo binh và bộ binh, địch vẫn không đủ bằng cớ để xác định đây là hướng tiến công chính mà có thể cho là ta đánh chúng để cắt đường như năm 1972. Các đơn vị được lệnh khẩn trương chiếm lĩnh trận địa theo phương án và tăng cường cảnh giác.

Cũng trưa ngày 3 tháng 3, tiểu đoàn 7 một trong những đơn vị tham gia đánh trận đầu ở Truông Ổi, do còn phải đánh địch ở Hoài ân nên tổ chức hành quân sau cũng đã vào tới khu vực tác chiến.

Cho đến sáng ngày 4 tháng 3 tất cả đã sẵn sàng, chỉ còn chờ nổ súng. Tất cả các đồng chí trong bộ tư lệnh đã có mặt ở sở chỉ huy sư đoàn. Thung lũng Vĩnh Thành, thung lũng Thượng Giang, với những mỏm đồi nhấp nhô đang hiện rõ dần trong biển sương mù trắng bạc. Từ lúc này, chủ nhiệm pháp binh Bùi Quốc Miện trở thành nhân vật được chú ý nhất trong sở chi huy. Trời sáng dần nhưng các trận địa pháo bắn thẳng vẫn báo cáo chưa nhìn rõ mục tiêu vì bị mù che phủ. Trong khi đó, các đơn vị bộ binh liên tục báo cáo xin nổ súng vì đã thấy địch đi lại trong hàng rào. Bỗng từ phía đông, một tiếng nổ dữ dội rền vang vọng tới. Mọi người xôn xạo. Bọn địch trên các chốt bắn pháo sáng lấp lóa.

Đài kỹ thuật được lệnh mở máy, trên các sóng, bọn địch gọi nhau rối rít nhưng ở đâu cũng nghe chúng trả lời: "Chúng tôi bình an vô sự. Sư đoàn trưởng nhận định: "Tiểu đoàn 19 của tỉnh đã đánh cầu 13. Mặt đường trống, các đồng chí ấy xử lý như vậy là đúng". Phó tham mưu trưởng Quyết Tâm, người được giao trọng trách phát lệnh nổ súng cầm máy điện thoại gặp các trung đoàn trưởng. Còn 10 phút rồi 5 phút... Mọi người trong sở chỉ huy hồi hộp gần như nín thở trong giờ phút trọng đại sắp đến.

Hiệu lệnh nổ súng là tiếng nổ của giá mìn thổi ở ngay lưng gò Che Chẻ. Dư âm của tiếng nổ chưa dứt thì hai phát pháo hiệu một vàng, một xanh đã vút lên nền trời Thượng Giang, báo hiệu chính thức lệnh nổ súng trên toàn khu vực, cũng là tiếng súng đầu tiên mở màn cho chiến dịch xuân 1975 trên chiến trường Khu 5. Lúc đó là 5 giờ 35 phút ngày 4 tháng 3 năm 1975.

Cả một thung lũng rộng lớn, trong phút chốc bỗng vang lên những tiếng nổ dồn dập và bùng lên những đám lửa của đạn pháo bắn vòng cầu và đạn pháo bắn thẳng. Hàng loạt các điểm cao ở bắc và nam đường số 19, nam Cây Rui, Chóp Nón, Hòn Kiểng, Cột Cờ, Truông Ổi, Che Chẻ, Đồi Đá, lăng Mai Xuân Thưởng... đã bị tiến công. Tiểu đoàn 4 cùng một lúc tiêu diệt ba chốt điểm trên sườn đèo Thượng Giang. Tiểu đoàn 1 cũng nhanh chóng quét sạch bọn địch ở chốt Đồi Đá, lăng Mai Xuân Thưởng, Núi Ngang. Đường số 19, đoạn Thượng Giang -An Khê đã bị cắt chặn ở hai đầu. Hai cụm chốt chiến dịch bất ngờ mọc lên ở phía đông và phía tây khu vực tác chiến.

Trong khi đó, ba tiểu đoàn mạnh của sư đoàn liên tục tiến công vào sáu đại đội bộ binh và hai ban chỉ huy tiểu đoàn địch từ Truông Ổi đến Định Quang. Đại đội 1 tiểu đoàn 7 diệt đồi Che Chẻ trong vòng 15 phút. Đối diện với đồi Che Chẻ, đại đội 3 tiểu đoàn 3 ào ạt xông lên đánh chiếm điểm cao Cột Cờ. Đại đội trưởng Nguyễn Xuân Oanh, lúc vào chiếm lĩnh, vướng mìn, giập nát đôi bàn chân nhưng vẫn cắn răng chịu đau để giữ bí mật cho trận đánh. Oanh là người chiến sĩ đầu tiên của sư đoàn ngã xuống trong chiến dịch lịch sử này.

Hai vi trí khống chế của địch bị mất. Từ phía tây và phía nam. tiểu đoàn 3 hình thành hai mũi đánh thúc vào tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 2 trung đoàn 47 ngụy ở phía bắc cứ điểm Truông Ổi. Tên phó tiểu đoàn trưởng chết gục tại chỗ. Tên Hạnh, tiêu đoàn trưởng không nắm được lính, vội vã dẫn một nhóm tàn quân chạy về phía đông-bắc. Tên đại úy Thắng, trưởng ban 3 tăng phái cho tiểu đoàn 2 bị bắt sống. Ta thu hai khẩu pháo 105 và hai xe đạn còn nguyên vẹn.

Ở cứ điểm Truông Ổi, cuộc chiến đấu của tiểu đoàn 7 với tiểu đoàn bộ tiểu đoàn bảo an 209 diễn ra gay gắt. Nắm được thủ đoạn của địch, các chiến sĩ đã vận dụng lối đánh sở trường "Hợp đồng chặt, đột phá mạnh, thọc sâu nhanh" lần lượt dập tắt từng hỏa điểm, đánh chiếm từng lô cốt của địch. 7 giờ, đơn vị đã hoàn toàn làm chủ cứ điểm Truông Ổi.

Mất Truông Ổi, ba đại đội địch còn lại từ Định Quang đến Tiên Thuận rơi vào tình thế bị bao vây bốn phía. Tiểu đoàn 2, đơn vị chủ yếu làm nhiệm vụ dứt điểm cụm quân này, từ sáng đến giờ vẫn nôn nao đợi lệnh nổ súng. Khi được lệnh xung phong, đại đội trưởng đại đội Nguyễn Tân Dân cho trung đội 1 đánh mạnh từ hướng tây bắc lên điểm cao 309. Nhưng ba lần bộ đội xông lên đều bị đại liên và lựu đạn địch đẩy bật xuống. Trước tình hình đó, đại đội trưởng quyết định chuyển mũi tiến công chủ yếu sang hướng tây-nam và điện về tiểu đoàn xin hỏa lực chi viện. Lúc đó, chiến sĩ giữ máy bộ đàm Lê Văn Phiến đã bị thương giập nát hai chân. Dân định gọi liên lạc lại thì Phiến đưa tay ngăn lại, giọng nói của anh đứt quãng: "Thủ trưởng cứ đưa bức điện cho tôi, tôi còn làm việc được". Một lát sau, tiếng của Phiến đã vang lên rành rọt. Đó là bức điện cuối cùng của người chiến sĩ giữ máy bộ đàm kiên cường ấy, anh đã lặng lẽ hy sinh bên chiếc máy thân yêu của mình vào lúc hỏa lực của tiểu đoàn bắn trùm lên đỉnh đồi.

8 giờ 30 phút, điểm cao 309 bị tiêu diệt. Địch ở Định Quang, Tiên Thuận nháo nhác. Thời cơ dứt điểm trận đánh đã xuất hiện. Sư đoàn trưởng cho pháo bắn năm phút nữa rồi ra lệnh cho trung đoàn 2 xuất kích. Địch hốt hoảng tháo chạy từ Tiên Thuận về Định Quang rồi lại từ Định Quang về Tiên Thuận. Ở đâu chúng cũng gặp những nòng súng AK đang chờ sẵn.

Tình hình tác chiến trong ngày đầu diễn ra đúng như phương án dự kiến của sư đoàn: Ta tiêu diệt 11 vị trí và cụm quân địch, diệt 316 tên, bắt sống 52 tên, thu 200 súng, có hai khẩu 105 và hai xe đạn. Trong khi đó, sư đoàn hy sinh 12 chiến sĩ và bị thương một số ít.

Lực lượng phòng ngự dự phòng của địch bị tiêu diệt. Ngày 5 tháng 3, sư đoàn nâng đội hình áp sát đường chiến lược 19. Các trận địa pháo 105, 85 cơ động sát sau lưng các đơn vị bộ bính. Hai khẩu pháo 85 nòng dài và cối 120 của sư đoàn đã vào chiếm lĩnh trên dãy núi ông Bình cao 814 mét trong đêm ngày 6.

Ở phía đông và phía tây trận địa sư đoàn, ngay sau khi đường số 19 bị cắt đứt, địch đã tổ chức phản kích quyết liệt. Đặc biệt là ở cụm chốt Núi Ngang. Hai ngày đầu, mọi lực lượng phản kích của địch đều bị đánh bật trở lại. Nhưng đến chiều ngày 7, chốt Núi Ngang bị mất vì lực lượng ta quá mỏng. Ban chỉ huy cụm liền thay đổi cách đánh: Liên tục thay nhau mở các trận phục kích, tập kích, pháo kích suốt ngày đêm khiến bọn địch phải kêu: "Núi Ngang là một cửa tử".

Tại cụm chốt Thượng Giang, địch cũng ra sức tiến công từ trên xuống, từ dưới lên, uy hiếp nghiêm trọng các điểm chốt của tiểu đoàn 4, nhưng vẫn không sao thông nổi đoạn đường hiểm trở này. Cụm chốt phía tây vẫn đứng vững.

Ngày 8 tháng 3, do địch đã chiếm khu vực lăng Mai Xuân Thưởng, Núi Ngang, sư đoàn chủ trương đánh chiếm ấp Vườn Xoài - cầu 16 tạo bàn đạp đánh chiếm điểm cao 105 và căn cứ Hậu Trạm, một điểm cao nằm sát bên đường chiến lược 19, để làm chủ mặt đường.

Vườn Xoài là một ấp lớn gồm 5.000 dân bị dồn từ các huyện Hoài ân, Vĩnh Thành, Bình Khê về đây sống chen chúc trong 1.000 căn nhà tôn nóng bức, chật chội. Địch ở trên cầu và trong ấp gồm bọn tàn binh tiểu đoàn 2, hai đại đội và ban chỉ huy tiểu đoàn 1 trung đoàn 47 cùng bốn trung đội dân vệ!

5 giờ sáng, tiểu đoàn 3 nổ súng. Trận đánh diễn ra ác liệt. Đến 7 giờ sáng, ấp vườn Xoài được giải phóng. Địch bỏ chạy khỏi cầu 16. Nhưng đến 12 giờ 30, 15 xe tăng cùng bộ binh địch từ căn cứ Hậu Trạm thọc lên, đánh bật tổ chốt cầu của tiểu đoàn 3, chiếm lại toàn bộ khu vực ấp vườn Xoài. Lúc đó không còn một người dân nào trong ấp.

Sau khi chiếm lại được cấu 16 và ấp Vườn Xoài. ban chỉ huy trung đoàn 47 ngụy lập một sở chỉ huy nhẹ ở điểm cao 105, bên cạnh tiểu đoàn 209 bảo an.

Sáng ngày 10 tháng 3, theo kế hoạch các tiểu đoàn 2, 6, 3 lần lượt vào vị trí chiếm lĩnh. Tiểu đoàn 2 đánh chiếm căn cứ Hậu Trạm, tiểu đoàn 6 đánh chiếm điểm cao 105, tiểu đoàn 3 đánh chiếm lại ấp Vườn Xoài - cầu 16. Ngoài ra một đại đội của tiểu đoàn 7 chặn cắt ở ấp Đồng Vắt, không cho địch từ Đồng Phó chi viện lên. Tiểu đoàn 4 vẫn chốt chặn ở khu vực đèo Thượng Giang.

6 giờ kém 15 phút, pháo và hỏa tiễn ta giội xuống căn cứ Hậu Trạm và điểm cao 105. Lợi dụng kết quả của hỏa pháo, tiểu đoàn 2 và tiểu đoàn 6 bắt đầu nổ súng tiến công. Bọn giặc bị diệt, bị bắt hết tốp này đến tốp khác. Tiêu diệt xong căn cứ Hậu Trạm, tiểu đoàn 2 tiếp tục đánh lên điểm cao 105 chi viện cho bạn.

Lúc đó, tiểu đoàn 6 đang ọi địch ghìm lại ở mỏm 2 của điểm cao. Qua kiểm tra địa hình, tiểu đoàn trưởng Lê Văn Quế thấy điểm cao 105 có nhiều gộp đá, tạo thành những ổ đề kháng kiên cố của địch. Anh điện về xin hỏa lực sư đoàn chi viện thêm.

10 phút đã trôi qua, một phát pháo hiệu vọt lên báo hiệu hỏa lực dứt bộ đội bắt đầu chàn lên. Những trận đánh giáp lá cà diễn ra quyết liệt xung quanh các gộp đá, các lô cốt. Tên trung tá Lê Câu, trung đoàn trưởng trung đoàn 47 biết tình thế không thể cứu vãn được nữa, vội dẫn theo một nhóm sĩ quan tìm đường chạy về Đồng Phó. Gặp cánh quân của tiểu đoàn 2, Câu vội vã nhào xuống phía đông-nam. Nhưng Câu và đám tàn quân của y đã bị chính bom đạn của chúng giết chết.

Mất điểm cao 105 và Hậu Trạm bọn chỉ huy địch thấy nguy cơ đang đe dọa quân của chúng ở Vườn Xoài nên hấp tấp tung hai đại đội bộ binh cùng một chi đoàn thiết giáp có máy bay và pháo binh yểm trợ định từ Đồng Phó đánh qua Hậu Trạm tới Vườn Xoài, nhưng cánh quân này đã bị các chiến sĩ tiểu đoàn 7 chặn đứng lại ở ấp Đồng Vắt.

8 giờ 30 phút, tiểu đoàn 3 được lệnh tiến công ấp Vườn Xoài và cầu 16 lần thứ hai. Trận đánh diễn ra quyết liệt. Địch cố thủ ở các lô cốt và hào giao thông hai bên đầu cầu. Pháo địch không dứt giội vào trong ấp. Trước tình hình đó, tiểu đoàn trưởng Lê Đình Như ra lệnh cho các mũi tiến sát vào khu vực cầu 16. Ở mũi chủ yếu, chiến sĩ Thanh, được sự chi viện của hỏa lực đi cùng đã ôm bộc phá lao lên lô cốt địch. Trong khoảnh khắc, Thanh đã đút ngập ống bộc phá vào lỗ châu mai, nhưng anh vừa giật nụ xòe, buông tay ra thì cây bộc phá lại bị đẩy trồi trở lại. Nhanh như cắt, Thanh ấn mạnh ống bộc phá, giữ lại một lát rồi lăn vội xuống. Một tiếng nổ dội lên. Bộ đội tràn tới đánh giáp lá cà với địch. Các mũi khác cũng kịp xáp tới. Địch rút vào các lô cốt còn lại cố thủ và gọi pháo bắn dữ dội vào đội hình tiểu đoàn 3. Cuộc tiến công bắt buộc phải dừng lại.

Buổi chiều, một đợt tiến công mới lên cầu lại diễn ra ác liệt. Đến nửa đêm, tên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1cùng một số sĩ quan, binh lính còn lại lén lút bỏ chạy. Nhưng hầu hết số này đã bị các tổ truy lùng, chốt chặn của tiểu đoàn 7 tiêu diệt.

Như vậy là trước khi chiến dịch Tây Nguyên nổ súng, sư đoàn Sao Vàng đã đánh thiệt hại nặng trung đoàn 47 cộng hòa và liên đoàn bảo an 927, làm chủ một đoạn đường chiến lược dài hàng chục ki-lô-mét, thực hiện thế chia cắt chiến lược hiểm hóc giữa Tây Nguyên với đồng bằng Khu 5, tạo điều kiện cho chiến dịch Tây Nguyên đại thắng.

Việc đường chiến lược 19 bị cắt đứt cộng với những hoạt động nghi binh của Mặt trận Tây Nguyên khiến bọn chỉ huy quân khu 2 ngụy đến ngày 9 tháng 3 vẫn đinh ninh điểm nóng trong xuân-hè 1975 là Plây Cu - Công Tum. Chúng không hay biết gì về cuộc chuẩn bị lớn lao của quân ta trong đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột sắp diễn ra.

Ngày 10 tháng 3, ở Tây Nguyên quân ta bất ngờ nổ súng tiến công thị xã Buôn Ma Thuột và đến ngày 11 ủy ban quân quản đã được thiết lập trong thị xã.

Trên chiến trường toàn miền, tiếng súng tiến công cũng rộ lên ở Trị - Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ.

Ngày 12 tháng 3, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương nhận định: trường hợp địch bị tiêu diệt những bộ phận sinh lực lớn, mất Buôn Ma Thuột và nhiều quận lỵ, chi khu, cộng với việc chia cắt trên đường số 19, đường số 21, có khả năng chúng sẽ tập trung các lực lượng còn lại về phòng thủ Plây Cu - Công Tum. Cũng có khả năng chúng buộc phải rút lui chiến lược, bỏ Tây Nguyên về phòng thủ đồng bằng miền Duyên hải...

Ngày 14 tháng 3. Nguyễn Văn Thiệu hộc tốc bay ra quân khu 2, gọi Phú xuống Nha Trang. Khi nghe Phú báo cáo tình hình chiến sự và xin thêm quân, Thiệu ra lệnh rút quân khỏi Tây Nguyên về giữ vùng đồng bằng. Thiệu chỉ thị cho Phú phải rút ngay, rút nhanh theo đường số 7 bắt đầu từ ngày 15, vì đường số 21 và đường số 19 đã bị đối phương cắt đứt.

Việc bảo vệ miền duyên hải trở thành một vấn đề sinh tử đối với địch. Vì vậy, trên mặt trận đường số 19, Phú đã ra lệnh cho sư đoàn 22 nguỵ từ "Phản công tái chiếm" chuyển sang "chống đỡ ngăn chặn" sự phát triển của ta từ cao nguyên xuống Quy Nhơn. Chúng cấp tốc dùng trực thăng bốc tiểu đoàn 3 trung đoàn 47 từ Cây Rui về phía đông, đưa toàn bộ trung đoàn 41 từ Phù Mỹ vào, đẩy trung đoàn 42 lên cùng với tiểu đoàn 3 trung đoàn 47 lập một cụm chốt 12 điểm từ Đồng Phó đến Bình Tường, định dựng một lá chắn bảo vệ phía tây trục đường số 1 và vùng đồng bằng ven biển.

Sư đoàn Sao Vàng, sau chiến thắng Vườn Xoài, điểm cao 105 hối hả chuẩn bị cho những trận đánh tiếp theo. Ngày 12 tháng 3, sư đoàn nhận được điện của quân khu thông báo tóm tắt chiến thắng Buôn Ma Thuột và ra lệnh cho sư đoàn vít chặt hơn nữa đường số 19, không cho địch từ dưới thọc lên, từ trên tràn xuống.

Qua nghiên cứu tình hình địch, sư đoàn nhận thấy toàn bộ lực lượng sư đoàn 22 ngụy đã tập trung vào đường số 19. Nếu sư đoàn tiêu diệt được cụm quân Đồng Phó thì có thể đập tan khả năng phòng giữ đường số 19 và có thể dẫn tới những đột biến lớn hơn. Từ sự phân tích đó, bộ tư lệnh quyết định dùng trung đoàn 141 và trung đoàn 2 (thiếu tiểu đoàn 1) cùng với tiểu đoàn 6, bằng chiến thuật bao vây đánh lấn và vận động tiến công tiêu diệt ba tiểu đoàn địch từ Đồng Phó đến Bình Tường. Đồng thời sử dụng trung đoàn 12 (thiếu tiểu đoàn 6 ) tiến công diệt cụm chốt Cây Rui, làm chủ con đường số 19 đoạn từ thị trấn Đồng Phó đến đỉnh đèo Thượng Giang.

Công việc được triển khai rất khẩn trương. Ngày 14 tháng 3, các trận địa pháo sư đoàn đã quay nòng hướng đến các mục tiêu. Rạng sáng ngày 15 tiểu đoàn 2 và tiểu đoàn 6 tiến công đánh chiếm núi Chớp Chơ, Bình Tường, cô lập cụm quân Đồng Phó với các căn cứ ở phía đông. Sau ba ngày chiến đấu, năm tiểu đoàn bộ binh ta thay nhau tiến công, lần lượt tiêu diệt từng mục tiêu địch và đến 19 giờ, sư đoàn hoàn toàn làm chủ Đồng Phó.

Trong khi ấy, ở cụm chốt phía tây, tiểu đoàn 5 đánh chiếm các điểm cao Ra đa, bao vây Hòn Tim. Khi nghe tin cụm quân Đồng Phó bị tiêu diệt, địch hoảng sợ bỏ cả xe pháo, luồn rừng chạy khỏi Cây Rui và các vị trí còn lại trên đèo Thượng Giang.

Đến đây, cần nói đến mũi tiến công phối hợp từ đầu chiến dịch của quân và dân tỉnh Bình Định. Từ nhận định khi sư đoàn Sao Vàng nổ súng, địch sẽ lần lượt đưa toàn bộ lực lượng sư đoàn 22 ngụy từ bắc tỉnh vào giải tỏa, Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định quyết định tranh thủ thời cơ chung, tạo ra thời cơ trực tiếp để nổ súng tiến công địch.

Sáng ngày 9 tháng 3, trung đoàn 93 cùng các đơn vị đặc công tỉnh và bộ đội huyện Bình Khê, An Nhơn đồng loạt tiến công địch từ đông Bình Khê đến đông An Nhơn tiêu diệt các cứ điểm Núi Đất, Núi Thơm, tiến tới cắt đứt các trục giao thông trên đường số 1 và đường số 19 cũ, giải phóng các ấp Bình Hòa, Nhơn Mỹ, Nhơn Khánh. Ngày 10, tiến công giải phóng thị trấn An Thái, vây ép thị trấn Gò Bồi, kìm chân một phần lực lượng trung đoàn 42 và trung đoàn 41 tại phía đông Bình Khê.

Ở phía bắc tỉnh, trung đoàn 92 phối hợp với bộ đội huyện Hoài Nhơn, Hoài ân, Phù Mỹ từ các vị trí phòng giữ chuyển sang tiến công tiêu diệt các chốt điểm, cắt giao thông, khống chế đường số 1 , làm chậm từng bước hành quân của sư đoàn 22 ngụy vào phía nam. Hàng vạn quần chúng Hoài Nhơn, Phù Mỹ bao vây bức hàng hàng loạt chốt điểm từ Hoài Châu, Hoài Hảo đến Hoài Thanh (Hoài Nhơn), tiêu diệt trụ sở Mỹ Chánh, các chốt điểm Tân A n, Vạn Ninh, Tân Ốc, Trà Bình, cô lập căn cứ trung đoàn 41 ngụy ở Trà Quang và thị trấn Phù Mỹ...

Cuộc tiến công mạnh mẽ của các lực lượng vũ trang tỉnh và nhân dân Bình Định đã làm cho hậu phương quân ngụy không ổn định và biến vùng đất duyên hải này thành một chiếc chảo gang nóng bỏng.

Ngày 18 tháng 3, sư đoàn Sao Vàng nhận được thông báo của quân khu Địch đã rút chạy khỏi Công Tum, Plây Cu. Hàng ngàn xe cùng với hàng vạn quân lính của chúng đang bị chặn đánh trên đường số 7. Ở mặt trận Quảng Ngãi, sau khi đánh chiếm hàng loạt các vị trí ở Bình Sơn, Sơn Tịnh, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Hà Thành, Trà Bồng... Quân ta đang chuẩn bị tiến vào giải phóng thị xã Quảng Ngãi

Lát sau, lại có điện khẩn của Bộ tư lệnh quân khu: "Sư đoàn dùng một trung đoàn giải phóng An Khê. Lực lượng còn lại nhanh chóng dồn về phía đông chặn đánh sư đoàn 22 ngụy để giải phóng Qui Nhơn, giải phóng Bình Định... ".

Niềm vui lớn đã bùng lên trong khắp sư đoàn. Thời cơ thực hiện niềm khát vọng trong 10 năm trời đã đến. Không kịp họp đảng ủy, bộ tư lệnh sư đoàn, một mặt ra lời kêu gọi gửi các đơn vị, một mặt cử tham mưu trưởng và phó chính ủy sư đoàn xuống gấp trung đoàn 12, chỉ huy trung đoàn ngược lên phía tây giải phóng An Khê.

Đêm hôm ấy, từ cụm chốt Cây Rui, trung đoàn 12 được lệnh cắt rừng hành quân, vừa hành quân vừa làm công tác tổ chức chiến đấu. Rạng sáng ngày 22 tháng 3, trung đoàn nổ súng đánh chiếm các điểm cao ở ngoại vi thị xã An Khê.

Lúc này, địch ở An Khê đã lên tới 2.500 tên. Mặc dù quân đông, vũ khí phương tiện còn mạnh, nhưng sau khi nghe tin đại bộ phận đội quân rút từ Tây Nguyên về đã bị tiêu diệt và bắt sống ở Cheo Reo, bọn địch ở An Khê tinh thần suy giảm. Chỉ sau một ngày chiến đấu, trung đoàn 12 đã đập tan gần 20 vị trí chốt chặn vòng ngoài rồi chia thành nhiều mũi đánh thẳng vào thị xã, diệt và bắt hơn 1.300 tên, thu 1.500 súng, có sáu khẩu pháo 155, 105, hai khẩu cối 106.7, 22 xe quân sự, có sáu xe tăng và xe bọc thép.

Ở khu vực phía đông, sư đoàn gấp rút đưa trung đoàn pháo, các trung đoàn bộ binh di chuyển từ phía bắc sang phía nam đường, chuẩn bị tiến đánh căn cứ Lai Nghi, cụm đề kháng chủ yếu của sư đoàn 22 ngụy.

Vấn đề đầu tiên đặt ra với sư đoàn Sao Vàng trong đợt tiến công quyết định sắp đến là việc gấp rút mở hai con đường ngang dài 30 ki-lô-mét từ phía bắc xuống phía nam đường số 19 và từ phía tây qua phía đông dãy Hoành Sơn để đưa pháo cơ giới vào chiếm lĩnh những trận địa có tầm bắn hiệu quả nhất. Bời nếu không có pháo cơ giới thì khó có thể kiềm chế được các trận địa và không quân địch ở sân bay Gò Quánh cũng như ở các căn cứ lớn phía đông. Sư đoàn tổ chức mở đường, đồng thời chỉ thị cho trung đoàn 68 đưa hai khẩu 155 mới thu được ở An Khê về, lấy nòng cốt là tiểu đoàn 11 thành lập ngày một đại đội pháo 155, cấp tốc huấn luyện để bước vào chiến đấu.

Sau khi bị tiêu diệt ở Vườn Xoài, Đồng Phó, lực lượng chiến đấu chủ yếu còn lại của sư đoàn 22 ngụy là trung đoàn 41 và trung đoàn 42. Hai trung đoàn này tổ chức phòng ngự theo trục đường số 19 dài 20 ki-lô-mét đoạn từ Phú Phong đến Phú An. Xe bọc thép và pháo rải đều theo đội hình bộ binh. Sở chỉ huy trung đoàn 42 đặt tại trung tâm Lai Nghi. Đây là căn cứ trung đoàn của bọn Nam Triều Tiên trước đây, xung quanh có hào sâu, thành cao, được cấu trúc hết sức kiên cố, rộng gần nửa ki-lô-mét vuông.

Ngày 26 tháng 3, một bộ phận tiền phương quân khu do đồng chí Nguyễn Nam Khánh Phó chính ủy kiểm cục trưởng cục chính trị quân khu, nguyên là chính ủy sư đoàn những năm 1967 - 1970 dẫn đầu vào tới sư đoàn. Ngay buổi tối hôm đó, đồng chí đã truyền đạt tinh thần nghị quyết của Khu ủy 5 họp ngày 23 tháng 3 về tình hình và nhiệm vụ cấp bách của Khu 5.

Nghị quyết nêu rõ: Đến nay, các nơi trong toàn quân khu đều đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, có nơi xuất sắc như Tây Nguyên, Quảng Ngãi. Địch trên chiến trường quân khu đã bị tiêu diệt và tan rã một bộ phận lớn.

Hiện nay, địch đang âm mưu bỏ miền núi, nông thôn rút về phòng ngự thành thị. Nhưng muốn tổ chức phòng ngự được phải có thời gian. Trước tình hình địch đang bị xáo động mạnh, Khu ủy 5 quyết định tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ đội quân địch còn lại, giải phóng Khu 5 trong thời gian ngắn nhất. Đây là hiện thực chứ không còn là khả năng nữa.

Sư đoàn Sao Vàng, trong 20 ngày đêm chiến đấu vừa qua. đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, trình độ chỉ huy chiến đấu hiệp đồng binh chủng được nâng lên rõ rệt, nhưng tỷ lệ thương vong còn cao. Nhiệm vụ trước mắt của sư đoàn là phải vây cắt, tiêu diệt sư đoàn 22 ngụy, không cho chúng chạy, cùng với các lực lượng địa phương sẵn sàng giải phóng Quy Nhơn.

Trước khi phương án tiến công vào cụm cứ điểm Lai Nghi được quyết định, sư đoàn ra lệnh cho trung đoàn 2 và trung đoàn 141 hành quân khẩn trương về phía đông, đánh chiếm cầu Thủ Thiện Hạ, dựng một cái chốt chiến thuật sau lưng căn cứ địch.

Mũi vây cắt này có giá trị rất lớn trong việc tiêu diệt cụm cứ điểm Lai Nghi. Nếu trung đoàn 2 chốt cắt được cầu Thủ Thiện Hạ thì toàn bộ hai trung đoàn địch sẽ rơi vào tình trạng bị cô lập. Những trận đánh này hoàn toàn chỉ dựa vào hỏa lực đi cùng, bốn bề là căn cứ địch. Đây là mũi thọc sâu xa nhất, táo bạo nhất. Sau khi cân nhắc, sư đoàn nhất trí chọn tiểu đoàn 2 làm lực lượng chủ yếu đánh chiếm cầu và tiểu đoàn 9 đánh chiếm các khu đồi ở phía bắc hỗ trợ cho tiểu đoàn 2. Sự phối hợp tác chiến giữa hai tiểu đoàn này sẽ tạo nên những rối loạn ở hậu phương địch, tạo điều kiện cho trận tiến công dứt điểm sư đoàn 22 nhanh và gọn hơn.

Trưa ngày 24 tháng 3, tiểu đoàn 2 đã đến vị trí tập kết ở tây-bắc hồ Thủ Thiện và 5 giờ sáng ngày 25 đã chiếm lĩnh xong, sẵn sàng nổ súng. Bọn chỉ huy trung đoàn 42 ngụy ở căn cứ Lai Nghi hốt hoảng khi thấy lực lượng của sư đoàn Sao Vàng đã luồn sâu vào sau lưng chúng. Lập tức chúng tung lực lượng ra phản kích. Các trận địa pháo, cối, DKZ của địch liên tiếp giội đạn xuống đội hình vây cắt của tiểu đoàn 2 sư đoàn Sao Vàng. Người này ngã xuống, người khác lên thay thế. Tiểu đoàn trưởng bị thương, chính trị viên tiểu đoàn trực tiếp chỉ huy giữ vững trận địa. Có bộ phận hy sinh gần hết, nhưng đến tối, khi trung đoàn gọi điện xuống, chính trị viên Nguyễn Lư vẫn bình tĩnh trả lời: "Hiện nay tôi và một tổ ba đồng chí vẫn đang đứng ở mé cầu Thủ Thiện Hạ".

Qua ngày chiến đấu đầu tiên sư đoàn nhận thấy địch không sao chịu nổi mũi vây cắt hiểm hóc này và sẽ tập trung thêm lực lượng để nhổ bằng được. Sau khi cân nhắc, bộ tư lệnh đồng ý cho trung đoàn 2 dùng tiểu đoàn 3 đánh xuống khu đồi dân vệ và ngã ba Thủ Thiện. Đồng thời ra lệnh cho trung đoàn 141 đánh chiếm Thủ Thiện Thượng để uy hiếp cạnh sườn địch.

Sáng ngày 26, trận địa vu hồi của sư đoàn đã kéo rộng lên hướng bắc và hướng tây. Cho tới chiều ngày 27 tháng 3, nghĩa là trước ngày sư đoàn mở trận tiến công quy mô vào căn cứ Lai Nghi, mặc dù bị địch phản kích điên cuồng và quyết liệt, các chiến sĩ tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 9 vẫn thít chặt con đường chiến lược 19 ở đoạn ngã ba cầu Thủ Thiện.

Những ngày cuối tháng 3, đầu tháng 4 hết sức sôi động bời những tin chiến thắng dồn dập trên các chiến trường. Hiếm có thời kỳ nào lại náo nức, kích động lòng người như những ngày tháng ấy. Hầu như ngày nào cũng có thêm những sư đoàn, những lữ đoàn địch bị tiêu diệt, những thành phố, quận lỵ, chi khu được giải phóng. Ngày 24 tháng 3, quân ta tràn vào thị xã Quảng Ngãi. Ngày 25 giải phóng thị xã Tam Kỳ, cố đô Huế, cô tập quân đoàn 1 ngay ở Đà Nẵng...

Từ phía tây, bộ đội Tây Nguyên đang tràn xuống đồng bằng như thác lũ, lần lượt giải phóng Củng Sơn, Khánh Dương và truy kích địch tới sát Tuy Hòa, Nha Trang.

Tại Bình Định, sau khi sư đoàn 22 ngụy phải rút toàn bộ lực lượng vào phía nam. Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định đã ra lệnh tiến công và nổi dậy đồng loạt trong toàn tỉnh, tiêu diệt hệ thống phòng ngự cơ bản của địch ở phía bắc thị xã Quy Nhơn. Ngày 21 tháng 3, trung đoàn 93 và lực lượng vũ trang Tuy Phước tiến công Phước Hiệp và Chợ Huyện. Tiểu đoàn đặc công Đ.20 diệt trận địa pháo và cứ điểm Trường Úc. Địch ở chi khu Gò Bồi rút chạy. Tuyến phòng thủ phía bắc Quy Nhơn bị phá vỡ, thị xã Quy Nhơn rối loạn.

Ở phía bắc tỉnh, trung đoàn 192 cùng bộ đội huyện Hoài Nhơn tiến ra giải phóng Tam Quan và tiếp tục truy kích vào chi khu Bồng Sơn, Đệ Đức, mở đường tiến vào phía nam tỉnh.

Tình hình sôi động đó đặt ra cho sư đoàn Sao Vàng phải khẩn cấp mở những trận đánh lớn vào Lai Nghi để phối hợp với quân dân Bình Định giải phóng toàn tỉnh trong tháng 3. Về phương án, sư đoàn đã hoàn tất nhưng trung đoàn 12, mũi vây cắt Phú An vẫn còn đang trên đường hành quân từ An Khê xuống, pháo chiến dịch tầm xa chưa kịp đẩy ra phía trước. Hỏa lực đi cùng mới chỉ đủ đạn cho giai đoạn đầu của trận đánh...

Trong cuộc họp kiểm tra lại tình hình các mặt ngày 27 tháng 3 có ý kiến đề xuất nên lùi giờ tiến công lại một ngày, qua trao đổi, mọi người đều nhận thấy thời gian lúc này là lực lượng. Nếu kéo dài, các chốt chặn phía đông sẽ không chịu nổi. Địch chọc thủng được cầu Thủ Thiện là mất đi một hướng tiến công hiểm yếu và địch sẽ rộng đường tháo chạy... Vì thế, cuộc tiến công vẫn được ấn định vào sáng ngày 28.

Đêm hôm ấy, tiểu đoàn 6 và tiểu đoàn 4 với một sự nỗ lực phi thường đã hành quân vượt 40 ki-lô-mét đường rừng về kịp giờ chiếm lĩnh ở phía bắc làng Phú An.

5 giờ sáng ngày 28 tháng 3, các đơn vị chiếm lĩnh xong. Pháo 105, 155 của sư đoàn được lệnh bắn phá hoại các cụm quân địch từ trung tâm Lai Nghi đến quận lỵ Phú Phong. Sau đợt pháo, hỏa lực của trung đoàn, tiểu đoàn trực tiếp chi viện cho bộ binh xung phong. Trung đoàn 2 chia thành ba mũi tiến công từ hướng nam. Địch từ trung tâm lợi dụng thành đất bắn ra xối xả. Các tiểu đoàn buộc phải dừng lại ở chân thành.

Ở hướng đông-bắc, trung đoàn 141 chia thành hai mũi đánh Thủ Thiện 2 và vượt tường áp sát vào trung tâm Lai Nghi. Địch dùng xe tăng đánh lướt sườn. Phó tiểu đoàn trưởng Hoàng Công Chu điều một khẩu ĐKZ chặn đánh, còn đội hình vẫn tiếp tục xung phong.

Ở hướng tây-bắc, tiểu đoàn 4 vượt sông đánh chiếm làng Phú An, nhưng sau đó cũng buộc phải dừng lại cách Lai Nghi 500 mét vì pháo bắn thẳng của địch bắn chặn rất quyết liệt.

Ngày 29 tháng 3, cuộc tiến công lại tiếp tục, nhưng tình hình vẫn không tiến triển thêm được bao nhiêu.

Sở chỉ huy sư đoàn theo dõi trận đánh hết sức căng thẳng. Sau khi soát xét tình hình địch, ta sư đoàn trưởng ra lệnh dừng tiến công, bộ đội chiếm được ở đâu xây dựng công sự giữ chắc tại đó. Nhận thấy binh hỏa lực địch còn mạnh, cấu trúc địa hình phức tạp, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định không đánh một lúc toàn bộ căn cứ địch mà tiến công dứt điểm từng cụm đi tới tiêu diệt toàn bộ căn cứ Lai Nghi.

Thực hiện ý định trên, tiểu đoàn 6, tiểu đoàn 5 công binh được lệnh vào chiến đấu trên hướng Lai Nghi 2. Tiểu đoàn 5 đang ở An Khê cũng được lệnh bàn giao cho đơn vị bạn, hành quân về làm dự bị cho cánh nam. Và điều nóng bỏng hơn cả là phải đẩy pháo lên phía trước và đưa gấp đạn lên cho các hướng, các mũi.

Từ hôm qua, sư đoàn trưởng vẫn có một nhận xét trong các nguyên nhân chưa thắng lợi là do công tác bảo đảm chưa tốt, hỏa lực chi viện chưa mạnh. Bời vậy đồng chí rất quan tâm tới việc đưa pháo phòng không và lựu pháo vào sâu, vào gần hơn nữa. Đồng chí gọi điện xuống trung đoàn pháo binh kiểm tra việc chấp hành mệnh lệnh.

Do việc chần chừ, thiếu khẩn trương trong việc chuyển các trận địa pháo vào gần, vào sâu, sư đoàn trưởng đã ra lệnh đình chỉ công tác trung đoàn trưởng pháo binh và cử đồng chí Bùi Quốc Miện trưởng ban pháo binh xuống thay. Ngày hôm qua đồng chí đã phải ra lệnh đình chỉ công tác tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn vận tải vì không hoàn thành việc đưa đạn xuống phía nam.

Trước yêu cầu của trận đánh, trong giờ phút lịch sử và thương vong của chiến sĩ do việc do dự chuyển trận địa pháo lên trước và tiếp tế đạn dược chậm, đồng chí không tha thứ cho bất kỳ ai không nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh. Đó là những quyết định đúng và cần thiết của người chỉ huy để bảo đảm thắng lợi.

Đêm hôm đó, đài tiếng nói Vệt Nam đưa tin: Quân giải phóng đã đánh tan 10 vạn quân ngụy ở Đà Nẵng. Cờ Giải phóng đã tung bay trên tòa thị chính thành phố. Tên tướng Ngô Quang Trưởng "niềm hy vọng còn lại của quân lực Việt Nam Cộng hòa" hôm trước còn tuyên bố "sẽ chết trên đường phố Đà Nẵng", hôm sau đã bỏ chạy trên một chiếc tàu biển.

Khoảng nửa đêm, sư đoàn nhận được điện của ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Bình Định kêu gọi quân dân toàn tỉnh nhanh chóng tiến công, nổi dậy đập tan bộ máy chính quyền và đội quân tay sai giải phóng toàn bộ quê hương. Vài phút sau, lại có điện khẩn của Bộ tư lệnh Quân khu: Đưa ngay một trung đoàn thọc sâu đánh chiếm hậu cứ sư đoàn 22 ngụy ở An Sơn.

Sở chỉ huy sôi động hẳn lên. Lập tức trung đoàn 2, trừ tiểu đoàn 3, được lệnh rời khỏi khu vực Lai Nghi xuyên rừng thọc sâu xuống An Sơn ngay trong đêm hôm đó.

5 giờ 15 phút ngày 31 tháng 3, trận tiến công cuối cùng, toàn diện vào cụm quân chủ yếu của sư đoàn 22 ngụy lại bắt đầu. Những trận địa pháo 105, 155, 85 sau khi được tổ chức lại, đưa vào tầm bắn có hiệu quả nhất, liên tiếp giội đạn xuống tất cả các cụm quân phòng thủ và các trận địa pháo của địch. Sau đó, hỏa lực các cấp tập trung bắn phá dữ dội các mục tiêu trên hướng đánh của các đơn vị.

Ở hướng trung đoàn 12, ngay sau khi pháo ngừng bắn, tiểu đoàn 6 đã hình thành hai mũi đánh mạnh từ phía bắc. Địch lợi dụng tường nhà, rào giậu phức tạp cùng với cụm quân ở cầu Lai Nghi chống trả gay gắt nhưng chỉ năm phút sau, từ sau lưng chúng, tiểu đoàn 15 công binh đã đánh ập tới. Một trận chiến đấu ác liệt diễn ra xung quanh cầu Lai Nghi. Các ổ đề kháng cuối cùng của địch ở hai bên đầu cầu lần lượt bị các chiến sĩ tiểu đoàn 15 và tiểu đoàn 6 tiêu diệt.

Tiểu đoàn 5, tiểu đoàn đã lập công xuất sắc trên đường hành quân từ An Khê xuống, diệt và bắt hơn 600 tàn binh địch, có nhiều sĩ quan cấp tá và cấp úy ở suối Đồng Tre, lúc này vừa đánh địch vừa phát triển về phía đông-bắc. Bọn địch hoảng sợ tháo chạy xuống mé sông Côn định luồn sau lưng tiểu đoàn 4 về phía đông. Trung đoàn trưởng trung đoàn 12 Đới Ngọc Cầu quay điện thoại ra lệnh cho tiểu đoàn 4 ra chặn địch, nhưng đường dây đã bị pháo địch chặt đứt.

Lúc đó. trung đội trưởng Đinh Bá Phàn và chiến sĩ điện thoại Nguyễn Ngọc Bình đang lăn lộn trên bãi cát sông Côn. Đường dây bị đứt giữa dòng nước chảy, trong tầm khống chế của hỏa lực địch. Phàn bò ngược bờ sông thấy một chiếc thuyền dân, anh mừng rỡ vớt lên nhưng lại là một chiếc thuyền thủng. Suy nghĩ một lát Phàn bảo Bình: "Cậu lên mé trên bắn kèm địch, mình sẽ dùng thuyền thả trôi xuống chỗ đoạn dây bị đứt". Bằng cách đó, Đinh Bá Phàn đã kịp thông đường dây đúng lúc trung đoàn trưởng đang nóng lòng gọi điện cho tiểu đoàn 4.

Trong khi các cụm quân địch ở xung quanh căn cứ lần lượt bị tiêu diệt thì ở trung tâm Lai Nghi, ba tiểu đoàn 9, 7, 3 của sư đoàn Sao Vàng đã hình thành thế vây áp. 9 giờ 15 phút, pháo binh sư đoàn mở đợt bắn phá kéo dài 45 phút. 10 giờ, trung đoàn trưởng trung đoàn 141 ra lệnh cho các mũi xung phong. Tới 12 giờ trưa, cả ba tiểu đoàn đều đã áp sát trung tâm căn cứ quân địch. Bọn địch ở Lai Nghi như đàn cá trong hồ tát đã gần cạn, chúng dồn lại đông đặc và ra sức giãy giụa, chống cự tuyệt vọng.

Cũng trong ngày hôm đó, trung đoàn 95 sư đoàn 968 vừa từ Tây Nguyên thọc xuống cũng tổ chức tiến công mạnh vào cụm quân của trung đoàn 41 ngụy từ Núi Một đến cầu Phú Phong. Bọn giặc bị tiến đánh, vây cắt ở bốn phía không còn cách nào khác đành bỏ chạy ồ ạt về quận lỵ, gây một dư âm khủng khiếp: "bộ đội Tây Nguyên đã tràn xuống". Và một cuộc rút chạy hỗn loạn bắt đầu diễn ra từ trung tâm quận lỵ Phú Phong. Bọn chỉ huy các cấp bỏ mặc lính, lính xô đẩy, bắn chết nhau để nhảy lên xe. Hàng chục chiếc xe GMC đầy ắp lính, chạy như điên trên đường số 19 về căn cứ Lai Nghi. Nhưng chúng vừa tới Phú Xuân, Phú An đã bị tiểu đoàn 4 xông ra chặn đánh. Bọn giặc vội vã bỏ xe, nhảy xuống ruộng chạy tán loạn trên cánh đồng. Tiểu đoàn 15, tiểu đoàn 5 không bỏ lỡ thời cơ đã xuất kích diệt bắt hết tốp địch này đến tốp địch khác. Gần 600 tên địch đã bị diệt và bị bắt sống.

Quận lỵ Phú Phong thất thủ nhanh chóng làm tan vỡ hy vọng cuối cùng của quân địch ở căn cứ Lai Nghi. 16 giờ 30 phút, bọn chỉ huy ở trung tâm căn cứ ra lệnh cho xe tăng mở đường rút chạy.

Bộ tư lệnh sư đoàn nhận định hướng rút chạy chủ yếu của địch sẽ dựa vào triền núi phía đông-nam nên ra lệnh cho các đơn vị vừa quây đánh diệt từng cụm, vừa nhanh chóng tổ chức lực lượng vòng chặn ở Thủ Thiện Hạ. Cuộc truy lùng, vây bắt bọn quân rút chạy diễn ra suốt đêm 31 đến sáng mùng 1 tháng 4, Trung đoàn 41 và trung đoàn 42 ngụy cơ bản đã bị bắt và bị tiêu diệt.

Riêng trung đoàn 2 khi xuyên rừng hành quân đến căn cứ An Sơn vào chiều ngày 1 tháng 4 thì bọn địch ở khu căn cứ đồ sộ này đã rút chạy từ ngày 31 tháng 3. Trung đoàn vội điện về sư đoàn xin được phép truy theo nhưng sư đoàn cho biết cánh quân này đã bị các đơn vị địa phương tiêu diệt trên bãi biển Quy Nhơn.

Đến đây, không thể không nói đến mũi tiến công phối hợp tuyệt vời của lực lượng địa phương tỉnh Bình Định. Sau khi đập tan hệ thống phòng ngự cơ bản của địch ở đông-bắc thị xã Quy Nhơn, chiều ngày 29 tháng 3, Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định nhận được điện của Bộ tư lệnh Quân khu: Nhanh chóng chớp thời cơ, đưa lực lượng vào tiến công chiếm thị xã Quy Nhơn. nhận được điện, thường vụ tỉnh ủy và ban cán sự tỉnh đội hạ quyết tâm thọc nhanh, vượt và vòng qua các mục tiêu ít cản trở, tập trung đánh chiếm cho kỳ được các vị trí then chốt trong thị xã.

13 giờ ngày 31 tháng 3, trung đoàn 93, tiểu đoàn 50, tiểu đoàn 19 và đặc công từ bốn hưóng đã mở đợt tiến công táo bạo và quyết liệt vào Quy Nhơn. Cuộc chiến đấu kéo dài suốt ngày 31 và đến 0 giờ ngày 1 tháng 4, các mũi thọc sâu đã đánh chiếm xong sân bay, tòa thị chính thành phố. Bỗng từ phía tây có tiếng súng nở rộ lên cùng với tiếng la hét, tiếng gầm rú của xe ô tô, xe bọc thép. Đó là tàn binh của sư đoàn bộ 22 ngụy từ căn cứ An Sơn đang rút chạy vào thị xã. Chúng định đánh bật lực lượng ta, mở đường máu ra bãi biển theo chỉ thị của tên phó đô đốc Minh, tư lệnh hải quân quân khu 2 vừa được Thiệu chỉ định làm tư lệnh chiến trường Bình Định.

Không cho địch rút chạy bằng đường biển, các lực lượng của tỉnh đã khép chặt vòng vây đánh phía trước, chặn phía sau, cắt ngang sườn, vừa đánh vừa gọi hàng, cướp xe tăng địch truy kích địch. Trận đánh diễn ra dữ dội trong thành phố. Lao về phía nào cũng bị đánh bật trở lại, bọn giặc xô đẩy, đạp lên nhau tháo chạy. Xe tăng, xe bọc thép đâm đầu xuống biển. Pháo 105, 155 đổ nghiêng, gục nòng trên các đường phố. Hàng chục chiếc tàu liều lĩnh lao vào bờ, đã bị bắn chìm, bắn cháy ngoài cửa biển...

Lực lượng còn lại của sư đoàn 22 ngụy cùng với thiết đoàn 14 và hai tiểu đoàn pháo binh đã bị tiêu diệt và bắt sống. Xác địch, xác xe, xác pháo nằm ngổn ngang từ đường phố Quang Trung kéo dài tới bến tàu Quy Nhơn. Những đợt sóng bạc đầu tràn lên bãi cát rồi lại vội vã cuốn ra xa như đang rửa sạch những vết nhơ mà bọn giặc đã để lại trên vùng đất này.

Sư đoàn 22 ngụy - đối tượng tác chiến dai đẳng, quyết liệt hơn chín năm trời của sư đoàn Sao Vàng đã bị tiêu diệt và tan rã. Tỉnh Bình Định - nơi chôn nhau cắt rốn của sư đoàn đã được giải phóng.

Niềm vui tỏa ra từ ánh mắt, nụ cười của từng người dân, từng chiến sĩ. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ trên đường hành quân, trên đường phố, những cuộc ghé thăm nhà vội vàng của những người cha, người chồng, người con đi xa hàng chục năm, hai chục năm xiết bao cảm động. Nước mắt và tiếng cười làm cho thành phố biển hồi sinh, trẻ lại.

Trong những ngày sum họp hiếm hoi ấy, nhiều đoàn cán bộ, chiến sĩ lặng lẽ đi ngược trở lại đường số 19, đem hương, hoa tới các nghĩa trang còn thơm mùi đất mới, vun đắp lại những ngôi mộ đồng đội mà trong lúc truy kích giặc mới chỉ kịp đặt các liệt sĩ nằm xuống vội vàng.

Có biết bao nhiêu người chiến sĩ ưu tú của sư đoàn đã nằm xuống vĩnh viễn dọc hai bên con đường chiến lược đẫm máu này.

Hơn hai mươi ngày đêm, sư đoàn đã thực hiện được niềm mong mỏi day dứt cửa từng người dân, từng chiến sĩ trên chiến trường Bình Định: giải phóng quê hương.

Giành được chiến thắng to lớn và vinh quang ấy, sư đoàn đã phải khắc phục biết bao khó khăn, gian khổ. Đó là những ngày đêm mở đường hành quân, mở đường đưa pháo, đạn tầm xa lên các điểm cao, vào sâu trong đội hình phòng ngự của địch. Công việc âm thầm này của các chiến sĩ công binh, pháo binh, của các đơn vi vận tải đã phải đổi bằng xương máu của biết bao cán bộ, chiến sĩ. Ngay từ những ngày đầu chiến dịch, bộ tư lệnh sư đoàn đã xác định: Không có pháo chiến dịch, sư đoàn sẽ không thể hoàn thành được nhiệm vụ cắt đường dài ngày cũng như không thể tiêu diệt được những cụm quân lớn của địch.

Thắng lợi này còn thuộc về nghệ thuật tổ chức chỉ huy của bộ tư lệnh và cán bộ các cấp trong sư đoàn. Không có chiến dịch nào trước tới nay, chiến thuật nghi binh lại đóng góp một phần chiến công xứng đáng như vậy Các chiến sĩ thu dung, bệnh xá trong những ngày đầu tiên hành quân rộn rập ở phía bắc Bình Định, hẳn không lường được rằng, hành động của họ đã giảm được biết bao xương máu cho sư đoàn trong trận mở đầu cũng như những trận đánh tiếp theo của chiến dịch. Trong một chiến dịch, chiến thuật nghi binh được sử dụng thành công sẽ có sức mạnh bằng cả một trung đoàn, sư đoàn. Việc sư đoàn giam chân được phần lớn lực lượng sư đoàn 22 ngụy ở phía bắc không những gây bất ngờ cho địch trong trận đầu mà còn đẩy chúng vào tình trạng bị động đối phó suốt quá trình diễn biến chiến dịch.

Trong suốt quá trình chiến đấu, bộ tư lệnh sư đoàn một mặt chấp hành nghiêm chỉnh các chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân khu như việc đưa trung đoàn 12 ngược lên giải phóng thị xã An Khê, cũng như rút trung đoàn 2 khỏi khu vực Lai Nghi thọc sâu xuống An Sơn, mặt khác vẫn luôn luôn xác định mục tiêu, quyết tâm, phương án tác chiến của mình một cách chính xác, vận dụng các hình thức chiến thuật phù hợp, xử trí các tình huống linh hoạt. Vừa chỉ huy tác chiến, bộ tư lệnh sư đoàn vừa chú ý tận thu phương tiện, vũ khí của địch bổ sung cho lực lượng của mình. Những chiếc xe ủi đất của địch đã được dùng để mở đường kéo pháo, những chiếc xe tải chở đạn. những khẩu cối, pháo đã được sử dụng kịp thời và việc thành lập tiểu đoàn pháo 155 ở giai đoạn kết thúc chiến dịch đã nói lên rất rõ tính năng động của bộ tư lệnh sư đoàn và cơ quan hậu cần.

Thắng lợi này còn thuộc về những chiến công tuyệt vời của các chiến trường bạn, đơn vị bạn. Do ở Tây Nguyên địch bị tiêu diệt và thất bại thảm hại ở Buôn Ma Thuột, ở Cheo Reo nên trung đoàn 12 mới giải phóng An Khê nhanh chóng như vậy. Và nhờ có mũi vu hồi tích cực của các lực lượng vũ trang tỉnh ở phía đông cùng với việc thọc sâu giải phóng thị xã Quy Nhơn ngày 1 tháng 4 nên sư đoàn mới nhanh chóng đánh tan cụm phòng thủ của sư đoàn 22 ngụy ở khu vực Lai Nghi. Ngược lại việc sư đoàn Sao Vàng cắt đứt đường chiến lược 19 đã làm cho bọn địch ở Tây Nguyên thêm khốn quẫn cũng như việc hút toàn bộ sư đoàn 22 ngụy vào khu vực của mình đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các lực lượng địa phương Bình Định tiến công, nổi dậy khắp nơi và tổ chức thọc sâu vào giải phóng Quy Nhơn...

Có thể khẳng định sư đoàn và quân dân Bình Định đánh thắng lớn, giải phóng tỉnh Bình Định là nhờ vào thế tiến công áp đảo, thế chiến lược và chiến dịch của quân và dân miền Nam dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị và sự chỉ huy tài tình của Bộ Tổng tư lệnh.

Cuối cùng, thắng lợi thuộc về những người chiến sĩ ưu tú của sư đoàn đã không tiếc xương máu, không do dự khi họ biết chắc chắn rằng mùa xuân này, chiến dịch này miền Nam có thể sẽ hoàn toàn giải phóng.

Tháng tư với bầu trời Quy Nhơn cao xanh lồng lộng, mặt biển sau những ngày cuộn sóng đã trở lại êm ả. Cờ và hoa tràn ngập trên các đường phố. Những đoàn xe quân sự từ phía bắc lại cuồn cuộn, hối hả chạy về phía nam.

Không kịp nghỉ ngơi, sư đoàn Sao Vàng gấp rút lên đường bước vào một chiến dịch mới: Chiến dịch mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2. PHÁ VỠ TUYẾN PHÒNG THỦ PHAN RANG - BẮT SỐNG TƯỚNG GIẶC.

Vào một buổi tối ngày 1 tháng 4, khi những người dân Quy Nhơn, Tuy Hòa đang ùa ra đường phố reo mừng đón chào Quân giải phóng thì tại Dinh "Độc lập" ở trung tâm Sài Gòn, sau khi nghe Phú từ Nha Trang báo cáo tình hình, Thiệu tuyệt vọng thở dài nói với Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng: "Mình muốn giữ, nhưng tướng tại trận không giữ nổi, biết làm sao", Viên nói: "Chiều hôm qua, Uây-oen có gọi điện thoại nói với tôi rằng: bỏ Nha Trang, Cam Ranh thì bằng mọi giá phải giữ lấy Phan Rang. Còn Phan Rang thì máy bay còn đánh được tới Đà Nẵng. Mất Phan Rang thì Cộng sản có thể dùng sân bay này để tiến công Sài Gòn".

Thiệu và Viên đều nhất trí phải giữ lấy Phan Rang. Cái sống, cái chết bây giờ là ở chỗ đó, chỉ còn một vài tháng nữa, qua tháng 5 đã là mùa mưa rồi... Thiệu còn nói mồ ma gia tiên hắn ở cả ngoài đó... Thiệu nín lặng hồi lâu trước tấm bản đồ quân khu 2 với 11 tỉnh đã bị bôi đỏ, chỉ còn lại hai tỉnh cuối cùng. Đột nhiên, Thiệu đấm mạnh tay xuống bàn, ra lệnh: "Phải giữ bằng được Phan Rang, lập một cái lá chắn ở đấy để chặn đường bộ, đường biển của Cộng sản. Ông gọi tướng Phú về Sài Gòn và sáp nhập phần đất còn lại của quân khu 2 vào với quân khu 3, ông giao nhiệm vụ cho bộ tư lệnh quân khu 3, bảo họ sáng mai phải ra ngoài đó, đích thân trung tướng Toàn phải đi thị sát...".

Ngày hôm sau, chấp hành lệnh Thiệu, Nguyễn Văn Toàn vội vã bay ra Phan Rang. Dọc đường, khi dừng lại ở Phan Thiết, Toàn gặp đại tá Trần Thanh Tự, tỉnh trưởng Phan Rang đang di tản. Toàn ra lệnh cho Tự phải quay lại nhiệm sở. Đến phi trường Thành Sơn, chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn 6 không quân ngụy cũng đề nghị với Toàn cho rút, nhưng Toàn đã chỉ thị cho Sang phải ở lại và cử Sang làm chỉ huy trưởng phi trường...

Toàn lập ngay một sở chỉ huy tiền phương của quân khu ở Phan Rang và cử tên trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm chỉ huy trưởng. Y cho rằng bộ tư lệnh phải có mặt ở tiền tuyến mới trấn an được binh sĩ.

10 giờ sáng ngày 4, Nghi và Toàn bay ra Phan Rang. Ngồi trên trực thăng, thấy Nghi có vẻ đăm chiêu, Toàn bảo: "Trung tướng cứ yên tâm, Cộng sản vừa nuốt một thắng lợi quá lớn, còn phải tiêu hóa đã, chưa thể dốc toàn lực vào đánh quân khu 3 được. Sắp tới là mùa mưa rồi..."

Đến Phan Rang, quan sát địa hình, Toàn nhận định Cộng sản có hai đường đánh vô Phan Rang, một theo đường số 11 từ Đà Lạt qua đèo Ngoạn Mục đánh xuống, nhưng hướng này hiện giờ chỉ có trung đoàn 812, không có xe tăng, pháo lớn. Hai là theo đường số 1 từ Nha Trang đánh vào. Hướng này có sư 10, có thể cả sư 320, sư 3 Sao Vàng nữa, rất mạnh, nhưng cả ba sư đoàn này đã đánh suốt tháng 3 chưa chắc đã tiến quân vào Phan Rang ngay được . . .

Máy bay lướt nhanh qua thị xã Phan Rang rồi ngược lên phía bắc theo đường số 1 nằm kẹp giữa hai dãy núi cao. Toàn thốt lên: "Địa thế này khác gì một cửa ải. Một người địch nổi muôn người". Ngày hôm đó, Toàn về Biên Hòa còn Nghi ở lại. Càng suy nghĩ, Nghi càng không thống nhất với cách nhận định của Toàn. Cộng sản Bắc Việt không hề dừng lại để "tiêu hóa" thắng lợi mà vẫn ào ạt đánh tới. Nghi cho trực thăng thả nhiều toán biệt kích "Lôi Hổ" ra phía bắc thăm dò và nhận được tin tức rất đáng lo ngại: sư đoàn 10 từ Nha Trang theo đường số 1 đang mở một con đường chéo qua đường số 11. Như vậy có thể sư này sẽ vòng quađường số 11 đánh xuống Phan Rang từ hướng tây-bắc, còn hướng bắc theo đường số 1 sẽ là sư 320 hoặc 304, 325 gì đó. Hắn lại nghe bọn tàn binh quân khu 1, quân khu 2 từ phía bắc chạy về cho biết: có những đoàn quân xa đủ cả xe tăng, thiết giáp, pháo các loại đang chạy suốt ngày đêm về phía nam, nhiều xe giương biểu ngữ: "Quân Tiên phong thần tốc tiến vào giải phóng Sài Gòn", phải chăng đó là sư 308?

Trong khi ấy, trong tay Nghi chỉ có lữ dù 2 gồm hai tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo. Liên đoàn biệt động 31 có đủ ba tiểu đoàn nhưng cộng lại tất cả chưa được 800 lính. Sư đoàn 2 mới khôi phục được hai trung đoàn. Nghi bực bội kêu với Toàn, nhưng Toàn cũng không kiếm đâu ra lực lượng cho hắn.

Ngày 6 tháng 4, Nghi đưa lữ dù 2 và liên đoàn biệt động 31 ra giữ đường số 1, lấy quãng đường hẻm Du Long làm khu vực chốt chặn, cắm một loạt vị trí ở hai dãy núi kẹp hai bên đường. Bốn tiểu đoàn địa phương quân được lệnh giữ thị xã Phan Rang. Trung đoàn 4 giữ đường số 11, trung đoàn 5 bảo vệ phi trường Thành Sơn. Như vậy chúng đã tập trung cho tuyến phòng thủ Phan Rang một lực lượng gần hai sư đoàn bộ binh và xe tăng có một sư đoàn không quân yểm trợ.

*

* *

Những tin tức mà các đội thám báo "Lôi Hổ" của Nghi thu lượm được về sự di chuyển lực lượng của các sư đoàn Quân giải phóng ở phía bắc Ninh Thuận là một sự thật. Chúng đã không lầm khi báo cáo với Nghi rằng, một con đường lớn đang gấp rút mở ở chân triền núi phía tây chạy vòng vèo nối với đường số 11 từ Đà Lạt đổ xuống, và các sư đoàn chủ lực ta đang từ phía bắc gấp rút đổ vào phía nam theo đường số 1.

Ở miền Đông, Quân đoàn 4 cùng các lực lượng của Quân khu 6, Quân khu 7 đang áp xuống Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Long Khánh, Bình Tuy, chuẩn bị đánh Xuân Lộc - thị xã cửa ngõ vào Sài Gòn ở phía đông-bắc. Các lực lượng ở đồng bằng sông Cửu Long cũng đánh thông đường từ Kiến Tường qua Long An lên Tây Ninh, làm bàn đạp tiến công Sài Gòn từ phía nam.

Quân đoàn 2, sau khi giải phóng Đà Nẵng đang cơ động vào phía nam, nhận thêm sư đoàn Sao Vàng của Quân khu 5, lúc đó đang gấp rút củng cố ở ngoại ô Quy Nhơn, thành lập "Cánh quân Duyên Hải".

Quân đoàn 1 từ hậu phương lớn cùng với các đơn vị xe tăng, pháo binh, tên lửa, không quân, hải quân cũng đang thần tốc trên đường "nam tiến". Cả nước đang chuyển động, đang chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược vào trung tâm Sài Gòn, kết thúc cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ.

Nhưng trước khi bước vào trận đánh sau chót đó thì phải đập tan cái lá chắn phòng ngự từ xa của địch ở Phan Rang - tuyến phòng ngự mà đích thân tổng thống Mỹ đã phải cử Uây-oen, cựu tư lệnh quân đội viễn chinh Mỹ ở miền Nam, trở lại Sài Gòn trực tiếp kiểm tra và đôn đốc Thiệu thiết lập cho kỳ được. Nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang ấy chủ yếu đã được bộ tư lệnh "Cánh quân Duyên Hải" trao cho sư đoàn Sao Vàng.

Ngày 4 tháng 4, đảng ủy sư đoàn họp rút kinh nghiệm đợt hoạt động vừa qua và chuẩn bị cho chiến dịch sắp tới. Phần cuối hội nghị, đảng ủy tranh thủ thông qua những đề nghị truy tặng huân chương cho các liệt sĩ có thành tích chiến đấu ở đường số 19. Ngày hôm đó, sư đoàn nhận được điện của quân khu cho biết, sắp tới, hậu phương lớn sẽ gửi tiếp cho sư đoàn 1.000 chiến sĩ mới.

Dưới đơn vị, bộ đội được lệnh huấn luyện, bổ sung chiến thuật đánh thành phố và ôn tập những chiến thuật cơ bản. Trong khi đó, các cơ quan hậu cần sư đoàn, trung đoàn chia nhau, người vào Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang, người ra Bồng Sơn, An Khê dựa vào địa phương tìm phương tiện và lái xe để sư đoàn cơ động.

Ngày 5 tháng 4, đoàn cán bộ chuẩn bị chiến trường lên đường. Ngày 8 tháng 4 sư đoàn bắt đầu hành quân. Chính quyền và nhân dân các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa đã huy động được 924 lần chiếc xe giúp sư đoàn cơ động. Xe Gát, xe GMC, xe Đốt, xe Giép và nhiều hơn cả là xe đò, xe bơ lua. Những người lái xe cũng đủ thành phần, cả những người hôm qua còn bó mình trong bộ đồ lính đánh thuê, hôm nay xin góp công chuộc tội.

Trên đường số 1 , hàng trăm xe nối nhau chạy hối hả. Xe chở quân, xe kéo pháo, xe chở đạn, chở gạo, cả xe điện ảnh. Bệnh xá ở trên xe, xưởng quân giới cũng ở trên xe...

Bộ đội vừa hành quân vừa sinh hoạt chính trị. Khẩu hiệu hành động của sư đoàn lúc này là: "Tiếp tục phát triển thắng lợi. Sắn sàng đi bất cứ nơi nào còn giặc để giải phóng hoàn toàn miền Nam". Chính vì vậy mà mệnh lệnh "Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chiến thắng" của Đảng phát ra càng giục giã lòng người. Thời gian và thời cơ lúc này là tất cả. Mới hôm qua họ còn hành quân chạy bộ, hôm nay ngồi trên xe ngây ngất nhìn đất trời Tổ quốc được giải phóng từng ngày. Nơi nào cũng rộn rã tiếng reo, tiếng cười, nơi nào cũng thấy ảnh Bác, bàn thờ Bác. Họ vừa hành quân vừa hát: "Bác đang cùng chúng cháu hành quân..".

Ngày 11 tháng 4, toàn sư đoàn vào tới bắc Phan Rang. Dọc hai bên đường là những bãi đạn, bãi lương thực, thực phẩm với những lều bạt dựng sơ sài. Dưới các cánh rừng non bắt đầu xuất hiện những căn hầm, những đường dây điện thoại. Đó là khu vực sở chỉ huy của Bộ tư lệnh "Cánh quân Duyên Hải".

Theo nhiệm vụ trên giao, trận đánh sắp đến, sư đoàn Sao Vàng được tăng cường trung đoàn 25 bộ binh, có sự phối hợp của các lực lượng vũ trang địa phương, từ ba đến năm ngày, tiến công tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch ở Phan Rang, giải phóng hoàn toàn tỉnh Ninh Thuận, thu hồi triệt để cơ sở trang bị kỹ thuật, nhất là không quân, sẵn sàng tiếp tục phát triển vào phía nam.

Về phương án, cơ quan tham mưu cấp trên khêu gợi có thể lấy trục đường số 1 làm hướng tiến công chính, chọc thủng cửa ải Du Long tiến vào thị xã: hướng tiến công quan trọng theo đường số 11 đánh chiếm căn cứ không quân Thành Sơn. Qua nghiên cứu thực địa và xét khả năng đơn vị, sư đoàn đề nghị trên hướng chủ yếu sẽ tiến công hai mũi. Mũi đột phá chính đánh vào ấp Bà Râu nằm sau lưng "cửa ải" Du Long. Đánh vào đây, bộ đội phải vòng qua sườn đông Núi Xanh để thọc xuống, có khó khăn về hành quân tiếp cận nhưng sẽ tạo được bất ngờ vì mất Bà Râu thì cụm phòng ngự chủ yếu của địch ở Du Long sẽ nhanh chóng tan vỡ. Bộ tư lệnh "Cánh quân Duyên - Hải" chấp nhận đề nghị này và để tạo điều kiện cho sư đoàn có đủ thời gian cơ động, quyết định lùi giờ nổ súng thêm một ngày, tức là rạng sáng ngày 14 tháng 4.

Để có một phương án tối ưu như vậy, bộ tư lệnh sư đoàn đã phải vất vả bao nhiêu ngày đêm. Hôm rời Bình Định ra đi, trong tay không có một tấm bản đồ. Lúc nhận nhiệm vụ mới xin cấp trên được một mảnh nhỏ dùng cho cả sư đoàn: Điạ hình chưa ai một lần đặt chân đến. Cũng không đủ thời gian để bắt liên lạc với địa phương, mọi người cứ chiếu bản đồ cho trinh sát đi trước bám địch, cán bộ theo sau nghiên cứu lập kế hoạch. Sư đoàn đã vậy, các trung đoàn, tiểu đoàn còn vất vả hơn. Trung đoàn 2, trung đoàn 68 dựa vào bản đồ chọn được hai vi trí chỉ huy và đặt đài quan sát lý tưởng, nhưng khi bò tới nơi thì đó là chốt địch. Thì giờ không còn nữa. Chỉ còn một cách là đánh hất địch ra để đặt đài, đặt sở chỉ huy.

Căn cứ vào địa hình, sự bố trí của địch, sư đoàn sử dụng lực lượng như sau:

- Trung đoàn 2 đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu, đập vỡ cụm mạnh nhất của địch đang chắn giữ tuyến đầu cầu này, tạo điều kiện nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm thị xã.

- Trung đoàn 141 đảm nhiệm hướng vu hồi, hình thành mũi vây cắt phía đông-nam, chặn toàn bộ hướng rút chạy của chúng về phía biển.

- Trung đoàn 25 tiến công trên hướng quan trọng theo trục đường số 11 đánh chiếm toàn bộ sân bay Thành Sơn.

-Trung đoàn 12 là lực lượng dự bị mạnh, sẵn sàng tung vào bất cứ hướng nào khi cần thiết.

- Trung đoàn pháo binh tổ chức hai cụm pháo 155, 5, 85, H12 và cao xạ 37 chi viện trực tiếp hai hướng bắc và tây-bắc. Ngoài ra dùng hai khẩu 85, một đại đội cao xạ 37 từ đường số 11 đánh vào, khống chế sân bay Thành Sơn triệt cắt đường không của địch.

Chiều ngày 13, sở chỉ huy sư đoàn hành quân vào chiếm lĩnh.

Ninh Thuận là một tỉnh ven biển cực nam Trung Bộ, cách Sài Gòn khoảng 300 ki-lô-mét theo trục đường số 1về phía bắc. Tỉnh có năm huyện với 32 vạn dân. Phía tây, phía bắc, phía nam và một phần phía đông có nhiều dãy núi cao, rừng rậm ôm lấy một thung lũng rộng lớn kéo dài từ huyện Du Long ở phía bắc, qua thị xã Phan Rang đến huyện An Phước ở phía nam. Phía đông tỉnh là một dải bờ biển với các cửa biển Thanh Hải, mũi Dinh và Khánh Hội. Ninh Thuận gồm nhiều dân tộc khác nhau, phần lớn là người Kinh, người Chăm sống ở đồng bằng, còn đồng bào các dân tộc, chủ yếu là dân tộc Rắc Lay sống ở vùng rừng núi.

Sở chỉ huy sư đoàn đặt trên Núi Xanh. Từ vị trí này có thể quan sát, chỉ huy được cả hai hướng và có thể bao quát được phần lớn thung lũng Ninh Thuận. Giữa cái thung lũng rộng và dài ấy, những thôn ấp nằm rải rác từng cụm mỗi lúc càng ken dày hơn về phía đông. Thị xã Phan Rang nằm sau dãy núi Cà Đú. Phía tây thị xã là thị trấn Thuộc Chàm, sân bay Thành Sơn. Trên các đường băng, những chiếc trực thăng đen đủi vẫn đáp lên đáp xuống. Thỉnh thoảng, một tốp phản lực lại cất cánh. Chúng lao vút lên bầu trời khi đó còn hết sức yên ả.

Trong sở chỉ huy, ngoài các đồng chí trong bộ tư lệnh sư đoàn còn có đồng chí đại diện thường vụ tỉnh ủy Ninh Thuận. Xung quanh sở chỉ huy là những ngôi nhà ọp ẹp nhưng kiên trung của những người dân Bác ái, quê hương người anh hùng Pi Năng Tắc nổi tiếng. Do sự xúc tát liên miên của địch, đồng bào Rác Lay, một số ít phải xuống núi, sống trong những khu dồn chật chội sát đường số 1, còn phần lớn di chuyển lên cao, vào sâu hơn nữa, tuyên bố thà chịu chết đói còn hơn làm tay sai cho giặc. Nhiều cuộc càn quét của quân chủ lực ngụy đã bị bẻ gãy tại khu căn cứ hiểm trở này. Người dân Bác Ái sống nghèo khổ nhưng trong sáng. Họ đói muối triền miên mặc dù trước mặt họ, chỉ cách vài chục ki-lô mét đường chim bay là biển. Các cán bộ địa phương thường kể lại cho các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng nghe một câu chuyện cảm động. Vào thời kỳ địch càn quét rừng Bác Ái dai dẳng nhất, cơ quan tỉnh phải di chuyển đi nơi khác, để quên một kho muối lớn. Hai năm trời, đồng bào đi qua kho muối ấy chỉ đứng nhìn nhưng kiên quyết không lấy một hạt. Trong khi đó hầu hết những người già và trẻ em huyện Bác Ái đều mắc bệnh phù thũng, mọc bướu ở cổ vì thiếu gạo, thiếu muối.

Buổi chiều, sở chỉ huy vừa di chuyển đến một triền dốc, đồng bào đã vội vã ra rẫy, vào rừng hái bắp; chôm chôm, chuối, đu đủ, gùi từng gùi đến biếu bộ đội. Khi đồng chí chủ nhiệm chính trị lấy muối ra tặng, đồng bào chỉ cười mà không chịu nhận. Chính ủy sư đoàn cảm động nói với mọi người rằng, chúng ta giải phóng Ninh Thuận, trước hết là giải phóng những người dân Rác Lay khỏi sự nghèo khổ "mà cho đến hôm nay, cái đói ăn, nhạt muối và cái rét vẫn còn đang bám riết lấy họ".

5 giờ 30 phút sáng ngày 14 tháng 4, các trận địa pháo binh sư đoàn đã dìm các vị trí Bà Râu, Du Long, suối Đá, Kiền Kiền, Ba Tháp, Núi Đất, Thành Sơn, Núi Tháp trong biển lửa. Công lao lớn của kết quả này phải kể đến các chiến sĩ trinh sát pháo binh. Kinh nghiệm chiến dịch đường số 19 cho thấy các đài quan sát phải bám sát lấy bộ binh, mặc dù như vậy rất dễ gặp địch. Trận đánh sáng nay là một trường hợp như thế. Sắp đến giờ nổ súng, các chiến sĩ bảo vệ đài quan sát phát hiện cạnh đài chỉ huy có một đại đội biệt động ngụy. Tình huống thật khẩn cấp. Đài này không những phục vụ cho trận đầu mà còn cho những trận đánh phát triển sau đó.

Phó trung đoàn trưởng Đinh Vân Nam ra lệnh không di chuyển đi đâu nữa, bằng mọi cách phải bảo vệ đài. Một trận đánh diễn ra. Bốn chiến sĩ trinh sát Quang, Liên, Lâm, Xốp do Bùi Thế Quang chỉ huy đã vừa đánh vừa nghi binh, hất đại đội biệt động này xuống chân núi.

Mấy phút sau, pháo binh của ta đã gầm lên từ các ngả theo mệnh lệnh của sư đoàn.

Ở hướng tiến công chính, 6 giờ 30 phút, tiểu đoàn 3 tiến công quận Du Long. Đại đội 3, chỉ sau nửa giờ đã chiếm xong điểm cao 105, làm chủ quận ly. Đại đội 1 tiến công ấp Suối Đá, một vị trí phòng ngự mạnh của địch ở phía nam Du Long, nhưng đội hình bị chững lại trước sự chống trả quyết liệt của địch. Lệnh trung đoàn truyền xuống: Tiểu đoàn 3 vây chặt Suối Đá, chờ tiểu đoàn 2 đánh chiếm ấp Bà Râu rồi sẽ dứt điểm sau. Đây là một quyết định chính xác. Bời chiếm được Bà Râu sẽ gây uy hiếp lớn sau lưng Suối Đá. Bọn địch bị ép từ cả hai phía sẽ không thế nào chịu nổi.

7 giờ, sau khi hỏa lực pháo binh cấp tập lần cuối cùng, trung đoàn 2 hình thành hai hướng tràn vào ấp Bà Râu, một ấp chiến lược lớn nằm sát bên đường số 1. Bị tiến công dồn dập, bọn giặc còn lại chạy phá về ấp Kiền Kiến. Nhưng chúng vừa ra khỏi ấp đã bị đại đội công binh chặn đánh, giết chết hàng chục tên, bắt sống 18 tên.

Mất ấp Bà Râu, cụm phòng ngự của địch ở Du Long bắt đầu vỡ ra từng mảng. Cụm quân ở điểm cao 300, Suối Vàng sợ hãi rút chạy về phía đông-nam. Nắm thời cơ, trung đoàn 2 ra lệnh cho tiểu đoàn 3 tiến công ấp Suối Đá Bọn địch trên điểm cao 86 ở gần đó bị cối khống chế, hốt hoảng cùng với bọn tàn binh ở ấp Suối Đá tháo chạy về ấp Kiền Kiền.

Từ sở chỉ huy, sư đoàn trưởng điện cho trung đoàn 2 phải đánh chiếm ngay Kiền Kiền trước khi trời tối để mở rộng đầu cầu đưa pháo cơ giới vào chuẩn bị giải phóng thị xã. Khi đó địch đã dùng máy bay ném bom đánh sập cầu Kiền Kiền và chở thêm quân ra tăng cường cho tuyến phòng thủ ở Kiền Kiền-Ba Tháp.

Ngày 14 kết thúc với hàng loạt trận địa phòng ngự của địch ở phía bắc bị phá vỡ. Ở hướng tây, trung đoàn 25 cũng đánh bại những cuộc nống lấn của địch, áp sát hàng rào sân bay Thành Sơn. Suốt đêm 14, sư đoàn tiếp tục điều chỉnh lực lượng, tung phái viên xuống các đơn vị. Các tiểu đoàn pháo và cao xạ cũng hối hả đưa trận địa vào gần sân bay.

Ngày 15, trung đoàn 2 tiếp tục tổ chức nhiều đợt tiến công đánh bật bọn địch khỏi tuyến ngăn chặn Kiền Kiền -Ba Tháp. Trung đoàn 141 vượt qua đường số 1 tiến về phía đông. Trung đoàn 12 được lệnh đưa tiểu đoàn 6 phối hợp với trung đoàn 25 chuẩn bị đánh vào sân bay Thành Sơn. Trưa hôm đó, khi được thông báo của sở chỉ huy "Cánh quân Duyên Hải" sẽ có lực lượng của trung đoàn 101, sư đoàn 325 Quân đoàn 2 cùng xe tăng vào phối hợp chiến dấu, không khí chuẩn bị của sư đoàn Sao Vàng càng khẩn trương và gấp rút hơn. Sư đoàn đang dốc toàn bộ sức lực cho ngày 16, ngày tiến công dứt điểm Phan Rang.

Trước sức tiến công của quân ta, tại sân bay Thành Sơn, Nguyễn Vĩnh Nghi đang sống những giờ phút hết sức căng thẳng. Ngày 8 tháng 4, dinh "Độc lập" vừa bị ném bom thì ngày 9, thị xã Xuân Lộc đã rung chuyển trong "hoả lực trọng pháo của Cộng sản". Một đoạn đường dài hơn chục ki-lô-mét từ Long Khánh đến Bình Tuy bị cắt đứt. Lữ 3 thiết giáp và trung đoàn 8 tới giải vây đang bị bao vây trở lại. Xuân Lộc trở thành nơi nướng quân của Toàn. Rồi phòng tuyến của Nghi cũng bắt đầu rung chuyển. Sáng ngày 14, các cứ điểm của liên đoàn biệt động 31 ở Du Long bị tiến công. Quân biệt động hốt hoảng bỏ chạy ở một số điểm then chốt. Nghi kêu quân dù lên chiếm lại nhưng quân dù cũng đang mắc kẹt ở Bà Râu, Suối Đá. Nghi cho máy bay trinh sát bay dọc đường số 1 lên tận Tuy Hòa, y ra lệnh cho không quân ném bom phá sập tất cả các cây cầu trên đường số 1 ở phía bắc Du Long.

Nghi sợ xe tăng ta. Nếu xe tăng vượt khỏi Du Long thì Phan Rang không thể nào giữ nổi.

Ngày 15, các trận đánh vẫn diễn ra gay gắt ở phía bắc và phía đường số 11. Buổi trưa, Trần Văn Đôn, phó thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng ngụy cùng với Nguyễn Văn Toàn bay ra thăm cái "lá chắn Phan Rang". Nghi báo cáo là tình hình đang hết sức nguy ngập. Cửa ải Du Long đã nứt toác ra rồi. Quân biệt động không thể tin được. Yêu cầu tăng viện ngay cho một tiểu đoàn dù. Du Long có giữ được thì Phan Rang mới còn.

Toàn không trả lời Nghi mà nói về tình hình Xuân Lộc: Thị xã Xuân Lộc vẫn còn nhưng đang bị bao vây. Mất Xuân Lộc thì Sài Gòn coi như bị bỏ ngỏ. Quân dù bây giờ không thể lấy ra được. Lực lượng tổng dự bị chiến lược không còn nữa. Ta phải ráng giữ cho tới mùa mưa... Mỹ đang lập một, cầu hàng không quân vận khẩn cấp. Mùa mưa sẽ cứu chúng ta.

Toàn và Đôn về, Nghi càng lo lắng hơn. Buổi tối, Nghi họp với chuẩn tướng Sang, chỉ huy sư đoàn không quân, chuẩn tướng Nhật, chỉ huy sư 2, đại tá Lưỡng chỉ huy lữ dù và đại tá Biết chỉ huy liên đoàn biệt động bàn kế hoạch khôi phục hướng Du Long. Nghi dự tính, đối phương có đánh lớn thì ít ra cũng phải một tuần nữa vì lúc này xe tăng. pháo lớn còn đang ở Phú Yên.

Nghi hoạch định một kế hoạch tiến công quy mô vào sáng ngày 16 để chiếm lại Du Long nhưng đã quá muộn. 3 giờ sáng ngày 16, chuẩn tướng Sang hốt hoảng báo cáo với Nghi: "Họ vô tới nơi rồi. Phi công trinh sát nói có khoảng 200 xe trên đường số 1 ở phía bắc. 5 giờ sáng, lính biệt động lại báo cáo có tiếng xe tăng đã vào tới Du Long. Nghi giật mình gọi điện cho Sang, giận dữ hỏi:

- Mới chiều qua anh nói cầu đã bị đánh sập hết. Vậy xe tăng của họ vô bằng cách nào

- Dạ, có thể họ đi quành xuống suối. Nhưng không có lẽ..

Nghi ra lệnh xuất kích một loạt tất cả số máy bay ném bom để đánh chặn xe tăng ta. Nửa giờ sau, đạn pháo ta đã trút xuống sân bay, mỗi lúc một dày đặc.

*

* *

"Mắt mèo, mặt mèo". Đó là mật hiệu báo cáo của bọn biệt động quân ở núi Cà Đủ về sở chỉ huy tiền phương quân đoàn 3 ngụy vào 5 giờ sáng ngày 16 tháng 4 khi chúng phát hiện được xe tăng của ta đang từ Du Long vào Ba-tháp.

Hôm ấy, do trời nhiều mù nên các chiến sĩ lái đã bật đèn cho xe chạy. Sau khi bắt được liên lạc với sư đoàn Sao Vàng, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng 4 ra lệnh cho đơn vị tiếp tục xuất kích. Xe chạy như một cơn lốc trên đường số 1. Đó cũng là lúc những chiếc A.37 gầm rú thay nhau trút bom xuống đoàn xe. Vừa cho xe chạy, tiểu đoàn vừa ra lệnh cho trọng liên gắn trên xe nổ súng cùng với những khẩu pháo phòng không 37 của sư đoàn Sao Vàng. Hai chiếc A.37 bốc cháy như hai bó đuốc lớn. Nhưng hai chiếc T.54 của ta cũng bị trúng bom lật nghiêng bên vệ đường. Những chiếc xe còn lại gầm lên tiếp tục thọc thẳng theo đường số 1 vào thị xã.

Ở sở chỉ huy sư đoàn Sao Vàng, sư đoàn trưởng ra lệnh cho toàn sư đoàn bắt đầu tiến công. Trong tiếng nổ ầm ầm của các loại đạn pháo và bom, các chiến sĩ trung đoàn 2 vẫn nhận ra tiếng gầm của những chiếc T.54 xung kích. Trung đoàn trưởng Đoàn Mai Ngữ ra lệnh cho tiểu đoàn 2 nhanh chóng tiến công Phước Nhơn, Mỹ Nhơn tiến sát vào sân bay. Tiểu đoàn 3 lợi dụng kết quả đột phá của xe tăng, vận động đánh chiếm ngã ba Cà Đú. Thừa thắng, các chiến sĩ bộ binh nhảy lên xe tăng, cùng đơn vị bạn đánh thẳng vào trung tâm thị xã. 9 giờ 30 phút, đại đội trưởng Sử báo cáo quân ta đã chiếm dinh tỉnh trưởng. Trung đoàn ra lệnh đánh tiếp vào phía nam, chiếm ấp An Quý dựng lên một chốt chặn ở khu vực đó.

Việc xe tăng và bộ binh của ta đột ngột xuất hiện trong thị xã làm bọn giặc kinh ngạc. Ở một căn phòng lớn trong dinh tỉnh trưởng, một bàn tiệc thịnh soạn với những món ăn sang trọng bày la liệt còn đang bốc hơi. Tại đây, các chiến sĩ bắt được một tên trung tá. Hắn khai: "Sáng nay tôi lên sân bay để đi Sài Gòn. Nhưng chưa đến nơi đã bị pháo cách mạng bắn vào phi trằơng. Tôi quay về Phan Rang thì xe tăng đã chiếm ngã ba chợ. Tôi chạy vào đây nhưng đại tá tỉnh trưởng cũng đã biến đâu mất" - Chỉ vào bàn tiệc hắn cười mỉa, nói tiếp: Chúng tôi không ngờ cách mạng lại đến nhanh nhưvậy, tỉnh trưởng định làm bữa tiệc mời các cộng sự. Bữa tiệc cuối cùng của ông ta tại Phan Rang. Nhưng cả chủ và khách đều không kịp ăn thì xe tăng cách mạng đã ập đến...". Trên hướng trung đoàn 25, ngay sau khi pháo binh của sư đoàn và trung đoàn đang bắn, các chiến sĩ đã dùng mìn liên kết phá lớp rào. Hỏa lực vừa dứt, bộ đội đã tràn vào đường bay chính, chiếm ngay sở chỉ huy sân bay và phát triển sang khu huấn luyện giặc lái.

Khi nghe tin xe tăng của ta vào tới dinh tỉnh trưởng Phan Rang. Nguyễn Vĩnh Nghi gọi điện về quân đoàn 3 báo cáo: "Họ tiến nhanh quá, ngoài sức tưởng tượng. Chúng tôi đã thực sự bị bao vây trong phi trường Thành Sơn. Yêu cầu máy bay thả gấp cho một tiểu đoàn dù".(Đến lúc ấy Nghi vẫn chỉ xin có lính dù. Không hiểu sao Nghi lại mê lính dù đến thế!).

Đầu máy đằng kia, Toàn vừa nói được một câu: "Tôi cũng đang bị kẹt". Nghi đã quẳng ống nghe xuống, văng tục. Ngay sau đó, những luồng đạn súng máy đã nổ chát chúa trên nóc những ngôi nhà vòm. Có tiếng thét: "Bọn sư đoàn 2 làm phản! Súng của đại đội trinh sát bắn vô đấy". Lát sau lại có điện của chuẩn tướng Nhật: "Bộ binh Cộng sản đã chiến được quả đồi của đại đội trinh sát. Họ cũng chiếm kho bom trên phi trường rồi. Đề nghị trung tướng...".

Sang nôn nóng giục Nghi: "Tôi đã chuẩn bị sẵn một máy bay do trung úy Bút lái, rất tin cẩn. Xin mời trung tướng đi trực thăng lên trời chỉ huy. Tánh mạng của trung tướng...". Nghi trả lời: "Cám ơn, nhưng chưa nên vội". Và y vẫn bám chặt lấy ống nghe máy điện thoại. Nửa giờ sau, tư lệnh sư 2 ngụy báo cáo: "Sư 2 không còn sức phản công, họ đã vào chiếm các đồi ở phía bắc. .". Cùng lúc, đại tá Biết, chỉ huy biệt động quân giữ cổng số 2 cũng báo cáo: "Quân biệt động đã tan rã hết. Cổng số 2 đang bị tràn ngập!".

Nghi ra lệnh: "Tất cả rút chạy". Y quăng máy. Lúc đó là 9 giờ 30 phút, Nghi, Sang, Lưỡng định chạy ra máy bay lên thẳng nhưng không được. Đạn đại liên từ các quả đồi phía bắc sân bay bắn xuống xối xả, không thể ra đường băng được nữa. Nghi hấp tấp hỏi:

- Đại tá Lưỡng, ông còn bao nhiêu quân ?

- Thưa trung tướng, còn hai đại đội. Rút theo cổng số 1, qua đường số 11. Từ đó tìm cách xuống Cà Ná về Phan Thiết!

Lưỡng chỉ huy lính dù chạy men theo đường phía nam sân bay ra cửa số 1. Tiếp đó là bọn sĩ quan của sở chỉ huy tiền phương quân đoàn 3, sư đoàn 6 không quân... Nghi và Sang đi xe jép đuổi theo sau. Nhưng cổng số 1 đã bị xe tăng đối phương ngăn chặn. Nghi ra lệnh quay lại. .

Từ các hướng, bộ đội ta tràn vào sân bay. Từng tốp lính dù, lính biệt động, lính cộng hòa run rẩy ra hàng. Sân bay bề bộn xác xe, xác lính. Những chiếc A.37 vẫn còn đeo bom. Một kho đạn ở phía đông sân bay vẫn đang nổ. Ở cổng chính, xe cộ nối đuôi nhau, nằm chen chúc, tắc nghẽn. Nhưng lúc các chiến sĩ tiểu đoàn 6 và trung đoàn 25 thọc vào sở chỉ huy tiền phương quân đoàn 3 ngụy thì cả Nghi, Sang, Lưỡng không còn ở đó nữa.

Trung đoàn 141 sau khi vượt đường số 1 tiến về hướng đông liên tục phải chiến đấu với bọn tàn quân địch, vì đó là con đường rút chạy của chúng về phía biển. Để bảo đảm tốc độ tiến quân, trung đoàn trưởng Đặng Đình Tương quyết định dùng tiểu đoàn 8 làm nhiệm vụ truy bắt tàn binh, còn tất cả tiến nhanh thọc thẳng xuống núi Quýt, Ninh Hải Chữ. Trung đoàn càng phát triển, mục tiêu địch xuất hiện càng nhiều. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9 Giang Đức Chấn, trong tình thế đó quyết định đánh lướt để nhanh chóng đến mũi Dinh. Tiểu đoàn 7 đánh chiếm núi Quýt xong đưa DKZ và 12.8 lên khống chế cửa biển, đã bắn chìm, bắn cháy hai tàu chiến địch.

Cũng như núi Quýt, mũi Dinh là một mỏm núi nhô ra biển lởm chởm đá tai mèo. Bọn địch cố thủ ở mỏm núi này lợi dụng hang đá chống cự suốt hai tiếng đồng hồ nhưng đến 9 giờ 30 phút chúng đã phải bỏ chạy. Từ 10 giờ đến 11 giờ, tiểu đoàn tiến công tiếp vào Ninh Hải Chữ, làm chủ toàn bộ khu vực Dư Khánh, Thanh Hải.

Lúc đó cũng là lúc tàn binh địch ở Phan Rang đang xô nhau chạy về cửa biển Thanh Hải. Tiểu đoàn xe tăng 4, sau khi chiếm Phan Rang, tổ chức một mũi truy kích xuống cửa biển. Hai chiếc trực thăng đậu trên một bãi cát vội vã cất cánh. Những chiếc tàu đang cập vào bến đón bọn lính rút chạy cũng hốt hoảng nhổ neo. Phân đội trưởng Bảng vừa cho xe tiến gấp về phía cửa biển vừa ra lệnh cho các xạ thủ bắn máy bay và tàu chiến. Một chiếc trực thăng bốc cháy tại chỗ. Ba chiếc tàu chở quân bị bắn chìm. Bọn địch còn lại trên bãi biển hầu hết bị các chiến sĩ ta bắt sống.

Không còn đường biển để rút chạy, bọn địch ở các khu vực xách súng ra hàng hoặc vất súng, cải trang chạy trốn. Nhưng lác đác vẫn còn những cụm quân địch ngoan cố chống cự. Ở bãi cát Khánh Nhơn, khi được nhân dân báo còn 300 tên lính dù do một tên thiếu tá chỉ huy đang lén lút liên lạc với tàu biển, trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 8 tiến hành bao vây, với ý định kêu gọi đầu hàng là chủ yếu. Nhưng đáp lại lòng bao dung ấy, bọn địch đã điên cuồng chống trả. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Tân ra lệnh tiến công. Giữa một bãi cát với công sự sơ sài làm sao bọn giặc có thể chịu đựng nổi hàng trăm quả đạn cùng giội xuống một lúc. Chúng chết rất nhiều, và đến lúc ấy, những tên sống sót mới lóp ngóp đứng dậy giơ tay xin hàng.

Suốt ngày, sở chỉ huy sư đoàn theo dõi sát diễn biến chiến đấu trên toàn tỉnh.. Các đơn vị liên tiếp báo cáo đã bắt được nhiều tên sĩ quan cấp tá và cấp úy, nhưng chưa thấy đơn vị nào báo cáo bắt được bọn chỉ huy quân đoàn 3 và những tên chỉ huy cao cấp khác. Bọn này không thể rút bằng đường không vì ngay từ đầu sân bay đã bị pháo binh ta khống chế. Còn đường biển thì bị mũi vu hồi của trung đoàn 141 và phân đội xe tăng chặn lại. Đám tàu chiến mon men vào bờ đều bị đánh hất ra ngoài. Bọn chúng cũng không thể kịp rút chạy về phía nam vì đại đội 3 tiểu đoàn 3 có mặt ở khu vực An Quý. Bộ tư lệnh sư đoàn nhận định bọn chỉ huy quân đoàn, các lữ đoàn, trung đoàn địch vẫn còn trốn chạy đâu đó trong địa phận tỉnh Ninh Thuận. Nắm chắc điều đó, sư đoàn trưởng ra lệnh cho các đơn vị tảo trừ kỹ và cho trung đoàn 2 truy lùng ở Bưu Sơn, An Phước.

Trưa hôm đó địch ném bom Thuộc Chàm, một thị trấn lớn nằm ở khoảng giữa sân bay Thành Sơn và Phan Rang. Sư đoàn đặt một dấu hỏi tại sao chúng lại ném bom xuống khu dân cư đông đúc đó?.

Buổi chiều, một tốp trực thăng xuất hiện. Chúng bay rất cao dọc theo bờ biển rồi mất hút. Liệu có phải chúng đang dò tìm tung tích bọn chỉ huy cao cấp hay không?

17 giờ, tiểu đoàn 1 trung đoàn 2 hành quân đến thôn Mỹ Đức cách khu vực địch ném bom mười ki-lô-mét. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Xích từ sở chỉ huy trung đoàn chạy về ra lệnh cho đại đội 3 ra chiếm lĩnh ngay. Mọi người chỉ được phổ biến tóm tắt: Buổi chiều, có hai em bé chăn bò bị bắt giữ ở vườn mía. Dân đi tìm và báo cho biết có một toán địch rất đông từ Thành Sơn chạy về cụm lại ở đó. Có thể đây là bọn chỉ huy mà sư đoàn đang truy tìm. Vì vậy, đại đội 3 phải bao vây thật chặt, không cho chúng chạy thoát.

Trời tối, địa hình rộng, tổ chiến đấu của phó trung đội trưởng Loan có tiểu đội trưởng Mưu và xạ thủ B.40 Quân được giao nhiệm vụ "nhét nút" ở phía sau.

19 giờ, từ hướng đông-bắc, tiếng chính trị viên Long vang lên dõng dạc kêu gọi địch đầu hàng. Im lặng, Long lại gọi tiếp. Vẫn im lặng. Chỉ có tiếng lá mía khua xào xạc và những tiếng động khe khẽ. Không chờ đợi được nữa, đại đội trưởng Thắng ra lệnh nổ súng. Nghe tiếng súng đại liên nổ giòn, khẩu cao xạ 37 bố trí ở một quả đồi gần đó cũng chúc nòng, xả một loạt đạn dài, trong bóng đêm mờ nhạt, những viên đạn 37 đỏ lừ bám đuôi nhau chụp xuống khu vườn mía. Đội hình địch vỡ ra từng mảng, chúng kêu thét, xin ta dừng bắn để ra hàng. Các chiến sĩ dùng đèn pin làm tín hiệu chỉ hướng an toàn cho bọn giặc. Hàng trăm tên nối nhau bước đi run rẩy. Nhiều thằng sụt sịt khóc. Súng, lựu đạn chúng bỏ lại từng đống trong vườn mía.

Khi những loạt đạn 37 nổ chát chúa ở khu vườn mía, bọn giặc ở hướng tổ của Loan định lợi dụng con mương cạn để thoát ra ngoài. Nghe tiếng chúng bước lép nhép trên bùn, Loan biết bọn này khá đông. Quay lại báo đơn vị thì không kịp mà với ba người thì bắt không xuể. Loan nghĩ phải dùng mẹo. Anh bàn với Mưu và Quân rồi bất ngờ hô lớn:

- Hàng sống, chống chết. Các anh bị bao vây rồi! Tiếng động dưới lòng máng im bặt.

- Các trung đội B.40, B.41 chuẩn bị. - Loan hô tiếp, giọng gay gắt.

- Đừng bắn, để bọn tui lên ! Tụi tui xin hàng. Từ dưới lòng mương, bọn giặc bám nhau leo lên bờ. Mưu đếm một, hai, ba, mười, mười lăm, ba mươi, bảy mươi tên đứng chen chúc trên bờ mương. Trong khi đó tổ chỉ có ba người. Loan bỗng chú ý đến một tên cao trội hẳn lên. Anh nhìn kỹ đoán là một tên Mỹ, Loan quát:

- ở dưới mương còn không?

- Dạ hết. Tên Mỹ đáp tiếng Việt gọn lỏn. Loan chưng hửng. Anh tiếp tục nghi binh, ra lệnh cho Quân và Mưu dẫn bọn địch về, còn mình và "các trung đội ở lại tiếp tục tảo trừ."

Lát sau, không gian trở lại yên lặng. Có tiếng xe chạy trên đường nhựa. Loan nằm đợi Mưu và Quân, lòng dạ bồn chồn. Anh biết dưới mương chưa hết địch. Nhưng vì chỉ còn lại một mình nên chưa biết hành động ra sao. Giữa lúc Loan còn đang tính toán thì dưới lòng mương lại có tiếng động. Không do dự, Loan rút chốt lựu đạn thả xuống. Bọn giặc hốt hoảng xin hàng. Chúng lóp ngóp bước tên. Tám tên cả thảy. Loan hỏi một tên thấp lùn bước lên sau cùng:

- Mày lính gì, dù hay biệt động?

- Dạ, tôi là cấp chỉ huy ở đây? - Nó đáp.

- Cấp gì, đại úy hay đại tá ?

- Dạ tôi Nguyễn Vĩnh Nghi, trung tướng.

Loan giật mình hỏi một tên cao lớn hơn.

- Dạ tôi chuẩn tướng, chỉ huy sư đoàn 6 không quân.

Tên thứ ba là đại tá, còn lại hầu hết là trung tá. Chỉ có một tên lính. Mưu và Quân lúc đó cũng kịp dẫn các chiến sĩ trong đại đội quay lại. Mưu báo cho Loan biết cái tên cao to, mũi khoằm ấy đúng là một tên cố vấn Mỹ.

Tin tiểu đoàn 1 bắt sống được tướng giặc và cố vấn Mỹ chẳng mấy chốc đã truyền đi khắp sư đoàn. Chiều hôm sau (17-4), tiểu đoàn 3 lại bắt được tên đại tá Lưỡng, lữ trưởng lữ dù 2 ở An Quý. Nhiều tên trung tá, thiếu tá trốn trámh trong dân lần lượt ra trình diện, nâng tổng số lính bị bắt lên 1675 tên, trong tổng số 2.584 tên bị loại khỏi vòng chiến đấu. Sư đoàn còn thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có 40 máy bay và 37 khẩu pháo từ 105 đến 155.

Ngày 18 tháng 4, sư đoàn nhận được bức điện của đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Nhiệt liệt khen ngợi các đơn vị đã lập chiến công lớn, bắt sống tại trận các tên tướng chỉ huy của địch".

Khi được hỏi cung, tên đại tá cố vấn Mỹ đã khai rằng y được cử đến phòng tuyến Ninh Thuận từ tháng 4. Mỗi ngày, y phải báo cáo về Sài Gòn một lần về tình hình quân khu 3. Y đã từng ở miền Nam, nhiều năm nên rất thông thạo tiếng Việt. Y nói: "Nếu tính tuổi mụ như người Việt thì năm nay tôi 37 tuổi"

Hỏi về những khả năng của Mỹ đối với chính quyền Sài Gòn, y mặc cả: "Nếu các ông bảo đảm sẽ trả tôi về Mỹ, tôi sẽ nói những điều tin chắc các ông đang cần biết". Và khi được chấp nhận, hắn nói tiếp: "Mặc dù Mỹ lập cầu hàng không quân vận khẩn cấp Nhật Bản -Băng Cốc - Sài Gòn với nửa tỷ đô la viện trợ, nhưng thực chất Mỹ đã thả nổi cuộc chiến tranh ở miền Nam. Dù các ông có đánh tới Sài Gòn, Mỹ cũng không hy vọng gì có thể cứu được chính quyền Thiệu. Nhưng dù sao nên đánh Sài Gòn sớm thì vẫn tốt hơn".

Chiến thắng Ninh Thuận đã mở toang cánh cửa vào Sài Gòn từ phía bắc. Địch ở Phan Thiết, Hàm Tân đang chuẩn bị rút chạy. Các đơn vị xe tăng, pháo binh, bộ binh ta đang ào ạt vượt qua Phan Rang tập kết ở phía nam Cà Ná, chuẩn bị giải phóng Phan Thiết.

Sư đoàn Sao Vàng được dừng lại mấy ngày để rút kinh nghiệm củng cố và giúp nhân dân Ninh Thuận xây dựng chính quyền mới. Ngày 18 tháng 4, Trung tướng Lê Trọng Tấn, Tư lệnh "Cánh quân Duyên Hải" tổ chức một buổi gặp mặt với các chiến sĩ bắt sống tướng giặc. Đồng chí nói trong niềm vui chung, đồng chí có niềm vui riêng. Đó là lần thứ hai đơn vị đồng chí chỉ huy bắt sống được tướng giặc. Lần trước ở chiến trường Điện Biên Phủ.

Cũng ngày hôm đó, khi đánh giá chiến thắng Phan Rang, Trung tướng Lê Trọng Tấn đã nói về sư đoàn SaoVàng như sau: "Đợt tác chiến vừa qua, sư đoàn 3 được đảm nhận nhiệm vụ chủ yếu, đã chiến đấu trong một điều kiện hết sức khó khăn: Quân số ít, hỏa lực ít, phương tiện cơ động hạn chế, thời gian gấp. Nhưng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đó là một cố gắng, một trưởng thành lớn.

Từ sau ngày 4 tháng 4, ta chưa có trận đánh nào vang dội. Chiến thắng của sư đoàn là một trận thắng lớn trong bước hai của chiến dịch. Trong trận này, sư đoàn đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, thu được nhiều phương tiện chiến tranh, thương vong ít. Đặc biệt đã bắt sống được hai tướng giặc và một cố vấn Mỹ".

Đồng chí còn nói thêm: "Ninh Thuận là một vùng địa bàn trọng yếu nối liền chiến trường Khu 5 với miền Đông Nam Bộ. Chiến thắng của sư đoàn đã tạo ra một hướng tiến công chiến lược rất quan trọng để giải phóng Sài Gòn và những vùng đất đai còn lại của Tổ quốc".

Riêng với sư đoàn Sao Vàng, chiến thắng Ninh Thuận là một thành công trong tổ chức chỉ huy đánh hợp đồng binh chủng. Việc lập phương án chặt chẽ với mũi chính diện, thọc sâu của trung đoàn 2, mũi đánh ngang sườn của trung đoàn 25, 12 và mũi vu hồi của trung đoàn 141 ở hướng đông đã khiến cho bọn địch bị bao vây ở cả bốn phía, không còn đường để rút chạy. Dĩ nhiên, mũi thọc sâu bằng xe tăng và bộ binh của Quân đoàn 2 là mũi tiến công hết sức hiểm hóc, mạnh mẽ và bất ngờ lớn đối với địch, khiến chúng nhanh chóng tan rã, nhưng nó chỉ thực hiện thuận lợi khi tất cả những trận địa phòng ngự theo hệ thống chân rết của địch ở cửa ải Du Long và dọc hai bên đường số 1 đã bị trung đoàn 2 đập vỡ.

Một nhân tố khác không kém phần quan trọng quyết định sự thất thủ toàn bộ phòng tuyến Phan Rang của địch là thời điểm và tốc độ tiến công quá nhanh và táo bạo của ta. Không như ở đường số 19, địch phán đoán sai lầm về hướng và quy mô tiến công, ở trận này, chúng biết rõ ta sẽ tiến công ở hướng nào, quy mô nào và đã bố trí lực lượng khá chính xác. Nhưng cái mà bộ chỉ huy địch, từ Thiệu, Viên, Toàn, Nghi và bọn cố vấn Mỹ không lường được là thời điểm và tốc độ tiến công, là sự táo bạo luồn sâu, chia cắt, bao vây các đường rút chạy của chúng. Đến nỗi khi cửa ải Du Long bị vỡ. Nghi vẫn còn xin thêm lính dù để cản lại. Nghi cho rằng đối phương chiếm được Phan Rang cũng phải mất một vài tuần. Nào ngờ, ngay ngày hôm đó, bộ binh, nhất là xe tăng ta đã thọc vào Phan Rang, Thành Sơn, đồng thời vít chặt cửa biển và đường số 1 đi Phan Thiết. Khi thời cơ đến, thời gian và tốc độ tiến công trở thành sức mạnh chính là như thế.

Cũng như chiến đấu ở đường số 19, trong trận này, sư đoàn đã sử dụng triệt để sức mạnh của hỏa lực pháo binh 105, 155, 85, hỏa lực đi cùng và pháo phòng không 37. Những trận địa pháo vừa cơ động vừa bắn. Hầu như pháo binh đã bám sát gót bộ binh, có khi vào sâu cùng với bộ binh như các khẩu 85 vào khống chế sân bay Thành Sơn.

Sức mạnh của các mũi đột phá mạnh lên rất nhiều khi hỏa lực pháo binh chi viện chính xác, vào những thời điểm trọng yếu nhất của trận đánh.

Ngày 23 tháng 4 khi các sư đoàn bạn đã vượt qua Phan Rang, giải phóng Phan Thiết, Hàm Tân theo đội hình cuốn chiếu, khi lực lượng chủ yếu của quân đoàn 3 ngụy đã bị tiêu diệt ở thị xã Xuân Lộc đổ nát, thì sư đoàn Sao Vàng cũng được lệnh tạm biệt những tòa tháp cổ, tạm biệt những thôn ấp của đồng bào Chăm, đồng bào Kinh đang náo nhiệt trong ngày hội mừng giải phóng để lên đường.

3. THAM GIA CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH - GIẢI PHÓNG BÀ RỊA - VŨNG TÀU

Những ngày cuối tháng 4, cả nước sôi sục khí thế chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. "Nếu bản thân hoạt động chiến tranh đã là sự đấu tranh quyết liệt một mất một còn thì trận quyết chiến chiến lược cuối cùng bao giờ cũng là đỉnh cao của sự đọ sức giữa hai bên và là sự nỗ lực tột cùng của hai bên từ sự chỉ đạo đến hoạt động thực tiễn"1 (Chú thích Vặn Tiến Dũng. Đại thắng mùa Xuân. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội 1976. tr. 161)

Sau hội nghị của Bộ Chính trị ngày 31 tháng 3, một Hội đồng chi viện tiền phương do thủ tướng Phạm Văn Đồng làm chủ tịch đã được thành lập. Các quân khu, các địa phương và các cấp chính quyền trong cả nước được lệnh dành ưu tiên số một cho mọi nhu cầu của chiến trường. Từ đầu tháng 4, trên tất cả các nẻo dường đất nước, quân đi như gió cuốn. Hàng vạn chuyến xe nối đuôi nhau chạy suốt ngày đêm trên đường số 1 về hướng nam. Các quân đoàn được gấp rút thành lập. Những đợt chiến sĩ mới liên tiếp được bổ sung. Khẩu hiệu "Thần tốc, thần tốc hơn nữa" trở thành câu nói cửa miệng của tất cả mọi người.

Ngày 21 tháng 4, Thiệu buộc phải từ chức, Trần Văn Hương lên thay. Những gia đình người Mỹ, người ngoại quốc được lệnh rời khỏi Sài Gòn. Tòa đại sứ Mỹ bắt đầu di chuyển tài liệu, của cải về nước. Bọn tư bản cỡ bự, bọn tướng tá, những nhân vật chóp hu của chính quyền ngụy cũng vội vã thu xếp cho vợ con đi ra nước ngoài...Sân bay Tân Sơn Nhất lúc nào cũng diễn ra cảnh chen chúc, giành giật, hoảng hốt của bọn người từ xưa đến nay chuyên sống nhờ vào đồng đô la Mỹ. Còn những người dân, những khu phố tăm tối ở ngoại ô, những dãy nhà ổ chuột thì nôn nóng chờ đợi. Họ may cờ, tìm ảnh Bác, đi lại, hội họp, chuẩn bi đón Quân giải phóng vào thành phố.

Trong khi ấy, ở phía đông và phía bắc Sài Gòn, dưới những cánh rừng cao su bạt ngàn, bộ đội đang hối hả hành quân. Lòng rộn ràng xúc động khi được thông báo chiến dịch giải phóng Sài Gòn giải phóng hoàn toàn miền Nam đã được Bộ Chính trị quyết định mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh.

Sư đoàn Sao Vàng, theo quyết định của cấp trên từ ngày 18 tháng 4 được tăng cường cho Quân đoàn 2 trong đội hình cánh quân phía đông đánh vào Sài Gòn. Khi được tin vui này, Thường vụ Khu ủy và Bộ tư lệnh quân khu 5 đã gửi thư cho sư đoàn. Bức thư viết: "Khu 5 rất vinh dự được gửi một sư đoàn vào trận cuối cùng để giải phóng miền Nam, đó là sư đoàn 3. Vừa qua, sư đoàn đã lập được nhiều chiến công xuất sắc: cắt đường số 19 trong chiến thắng Tây Nguyên. Mới đây lại lập được chiến công đập tan tuyến phòng thủ mới của địch và bắt sống tướng giặc ở Ninh Thuận. Toàn thể cán bộ và chiến sĩ trong sư đoàn hãy cố gắng xứng đáng với truyền thống đó, càng đánh càng mạnh, xây dựng tổ chức kỷ luật đoàn kết hợp đồng cho tốt. Phải kịp thời, khẩn trương, chủ động, sáng tạo trong chiến đấu... Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu thường xuyên theo dõi và mong sư đoàn chiến thắng vẻ vang .."

Cùng với thư động viên, một nghìn chiến sĩ mới, những thanh niên mới tuần lễ trước còn đang ngồi trên ghế nhà trường, còn làm việc trên các cánh đồng, công trường, nhà máy... trước thời điểm lịch sử của Tổ quốc đã tình nguyện lên đường. Họ tới cảng Hải Phòng ngày 16 tháng 4 và ba ngày sau đã cập bến cảng Cam Ranh, kịp thời bổ sung cho sư đoàn.

Căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ và khả năng của đơn vị, sư đoàn quyết định tổ chức thêm tiểu đoàn pháo 155. Sẽ không quá khi nói rằng, chỉ trong hơn một tháng trời, sư đoàn đã lớn mạnh bằng cả 10 năm chiến đầu và xây dựng. Vừa khẩn trương chuẩn bị cơ sở vật chất cho cuộc di chuyển lớn sắp đến, sư đoàn vừa tranh thủ tổ chức cho các chiến sĩ mới học tập các chiến thuật cơ bản, học cách sử dụng súng, pháo.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, sư đoàn được tăng cường một đại đội pháo 130, một đại đội xe tăng đảm nhiệm tiến công trên một hướng quan trọng của quân đoàn, tiêu diệt địch, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Tuy và đặc khu Vũng Tàu, hiệp đồng chặt chẽ với quân đoàn và các đơn vị bạn giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Ngày 23 tháng 4, đơn vị đầu tiên của sư đoàn rời Phan Rang. Do tính chất nhiệm vụ, thời gian gấp và phương tiện di chuyển hạn chế nên đơn vị nào đánh trước hành quân trước, đơn vị nào đánh sau hành quân sau. Đoàn quân vượt qua thị xã Phan Thiết còn ngổn ngang xác xe, xác máy bay địch. qua eo núi Trà Mơn, Đá Mài đầy vết tích rút chạy thảm hại của quân ngụy.

Đoàn xe bắt đầu băng trên đất Long Khánh, địa đầu của miền Đông Nam Bộ. Mảnh đất này mới hôm qua còn sôi lên vì bom đạn giặc, giờ đây, sau chiến thắng Xuân Lộc, sau trận mưa đầu mùa, cỏ hoa lại nở ra tươi mát trong nắng sớm. Những cánh rừng cao su bạt ngàn đang vươn dậy với những chùm lá non tơ. Dưới những cánh rừng ấy là các bãi trú quân, những kho trạm của các đơn vị đi trước. Càng vào sâu, xe pháo càng nhiều. Ở các ngã ba, ngã tư là một rừng "biển chỉ đường" với những mật danh mà chỉ người trong cuộc mới nhận được. Thỉnh thoảng, một tốp phản lực cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Biên Hòa, gào rú trút bom xuống các trục đường, các cánh rừng cao su, tiểu đoàn cao xạ của Sư đoàn và súng phòng không của các đơn vị bạn vừa hành quân vừa bắn. Đoàn xe vẫn nối nhau cuồn cuộn trên đường.

Đến cầu thị xã Xuân Lộc, sư đoàn rẽ vào vùng đồn điền cao su Cam Mỹ. băng qua những rừng tre gỗ dày đặc. Bộ binh vừa xuống xe, các chiến sĩ lái lập tức cho xe quay trở lại đón các đơn vị đi sau. Mệt mỏi, thiếu ngủ, nhưng hào hứng, ai cũng muốn góp công, góp sức nhiều nhất vào chiến dịch lịch sử này, ai cũng thấy nôn nao khi nghĩ đến Bác và thầm hứa sẽ làm hết sức mình, chiến đấu hết sức mình để xứng đáng được tham dự chiến dịch mang tên Người.

Sáng ngày 26 tháng 4, tại sở chỉ huy cơ bản sư đoàn, cán bộ các đơn vị đứng vây quanh một chiếc bàn tre ghép sơ sài, trên trải tấm bản đồ Phước Tuy - Vũng Tàu, nghe sư đoàn trưởng Trần Bá Khúc hạ đạt mệnh lệnh chiến đấu. Đồng chí Huỳnh Hữu Anh, tư lệnh sư đoàn trước đây, nay là Phó tư lệnh Quân khu 5, đồng chí Năm Minh phó tỉnh đội trưởng Phước Tuy cùng một số cán bộ tham mưu Quân đoàn 2 xuống giúp sư đoàn chỉ huy chiến đấu cũng có mặt. Bên ngoài, bộ đội vẫn hối hả hành quân. Một giọng hát trong trẻo bỗng cất lên: "Sài Gòn ơi, ta đã về đây, ta đã về đây" làm không khí sở chỉ huy thêm rộn rã...

Trước khi giao nhiệm vụ cho từng đơn vị, sư đoàn trưởng cho biết Phước Tuy là một tỉnh miền đông Nam Bộ, cách Sài Gòn 100 ki-lô-mét gồm năm huyện Đức Thạnh, Xuyên Mộc, Đất Đỏ, Long Điền, Long Lễ và thị xã Bà Rịa. Phía nam tỉnh là thành phố Vũng Tàu. Địch ở khu vực này có liên đoàn bảo an 938 và ba tiểu đoàn độc lập phân bố đều trên các huyện và thị xã. Riêng Bà Rịa, quân ngụy có bảy bộ chỉ huy: bộ chỉ huy tiểu khu, bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia, bộ chỉ huy thám sát , bộ chỉ huy yểm trợ tiếp viện, bộ chỉ huy liên đoàn 938, ty an ninh quân đội và khu cố vấn Mỹ.

Ngoài ra còn trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp với hàng ngàn tên địch và số lớn tàn quân ở các nơi chạy về gồm quân của sư đoàn 1, sư đoàn 3, sư đoàn 2, sư lính thủy đánh bộ, sư 18, 1ữ dù 1 và một chi đoàn xe tăng , xe bọc thép. Sở dĩ phần lớn bọn tàn quân tháo chạy từ phía bắc đều dồn về Phước Tuy vì bộ tổng tham mưu ngụy không dám để chúng chạy về Sài Gòn, sợ gây hoảng loạn và mất an ninh cho thành phố.

Ở bán đảo Vũng Tàu còn có những trường quân sự lớn như trường cảnh sát, hải quân, công binh, thông tin và trường thiếu sinh quân. Mỗi trường có từ một đến ba nghìn tên. Các lực lượng yểm trợ gồm ba trận địa pháo. Một giang thuyền 19 chiếc và 27 tàu chiến đấu, tàu chở quân các loại. Tổng cộng toàn bộ quân địch trên hai vạn tên, bố trí thành từng tuyến dọc theo các trục đường, căn cứ chính. Địch đông nhưng ô hợp, tư tưởng thất bại đang lan tràn như một bệnh dịch.

Về nhiệm vụ và cách đánh cụ thể, sư đoàn trưởng nói: "Với địa hình cho phép và khả năng của ta hiện nay, sư đoàn sẽ vừa tiến công các cụm quân phòng thủ vành ngoài ở Đức Thạnh, vừa nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm mục tiêu chủ yếu là thị xã Bà Rịa. Sau đó tỏa ra giải phóng toàn bộ ỉinh Phước Tuy. Bước 2 sẽ tập trung đánh chiếm thành phố Vũng Tàu. Mặc dù Bà Rịa ở sâu tới 17 ki-lô-mét so với Đức Thành nhưng bài học ở Phan Rang vừa qua cho phép chúng ta tin tưởng và chấp nhận cách đánh đó. Cụ thể trung đoàn 12 sẽ bóc vỏ quận lỵ Đức Thạnh rồi phát triển xuống Đất Đỏ, Long Điền. Trung đoàn 141 được tăng cường đại đội xe tăng 4 và tiểu đoàn bộ binh 5 sẽ cắt rừng đánh thẳng vào thị xã Bà Rịa, trung tâm huấn luyện hạ sĩ quan Vạn Kiếp. Sau đó một mũi đánh về phía tây chặn địch từ Biên Hòa về, một mũi phát triển sang hướng đông, bắt liên lạc với trung đoàn 12, nhanh chóng chiếm cầu Cỏ May, không cho địch phá cầu, giữ bàn đạp cho trung đoàn 2 làm nhiệm vụ thọc sâu đánh Vũng Tàu trong bước 2. Mỗi trung đoàn có một cụm pháo sư đoàn trực tiếp chi viện. Lực lượng tỉnh sẽ giải phóng vùng Xuyên Mộc giáp với Hàm Tân"

Cuối buổi hợp đồng tác chiến, chính ủy sư đoàn thông báo tóm tắt tình hình chung trên chiến trường và trao cho mọi người thư kêu gọi của đảng ủy vả Bộ tư lệnh Quân đoàn.

Lúc đó là 12 giờ ngày 26 tháng 4.

Thời gian rất gấp. Đơn vị nào phối hợp với xe tăng thì lên xe, vừa đi vừa làm công tác hợp đồng cụ thể. Các đơn vị khác thì chạy bộ. Rừng tre Đức Thạnh run lên trong tiếng xích xe tăng, tiếng động cơ ô tô và hàng ngàn bước chân chiến sĩ. Dẫn đường các cánh quân là cán bộ, du kích, bộ đội địa phương, nam có, nữ có. Suốt mấy ngày nay, các đồng chí quên ăn, quên ngủ dẫn các đoàn cán bộ của sư đoàn đi chuẩn bị chiến trường cung cấp nhiều tin tức quan trọng về địch, về địa hình về dân để sư đoàn có cơ sở hạ quyết tâm chiến đấu.

17 giờ chiều hôm đó, từ phía tây, hàng loạt tiếng nổ rền vang như sấm động vọng về háo hiệu hướng chính của Quân đoàn 2 đã mở đầu chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sở chỉ huy sư đoàn náo nức hẳn lên.

*

* *

Khác với những chiến dịch trước, thường nổ súng vào rạng sáng, chiến dịch này sư đoàn được lệnh tiến công địch vào lúc chập choạng tối. 19 khẩu pháo từ 85 đến 155 gầm lên cùng một lúc, trút hàng ngàn viên đạn vào căn cứ địch ở Đức Thạnh và Bà Rịa. Trên các cánh đồng, trong rừng tre gai, bộ đội vẫn đang vận động hối hả. Ở hướng trung đoàn 141, đã đến giờ pháo binh ngừng bắn mà bộ binh vẫn còn cách mục tiêu một ki-lô-mét. Trung đoàn trưởng điện về sư đoàn xin pháo binh bắn thêm 15 phút nữa cho bộ đội tiếp cận.

19 giờ, trung đoàn 141 bắt đầu tiến công vào thị xã Bà Rịa. Hỏa lực trung đoàn, tiểu đoàn bắn áp đảo các trí địch trong thị xã. Trong tiếng nổ dồn dập của súng, pháo đi cùng, đại đội xe tăng 4 chở đại đội 3 tiểu đoàn 7 ầm ầm lao dọc theo đường Lê Lợi tiến vào trung tâm thị xã. Trước sự xuất hiện đột ngột của xe tăng, bọn địch giãn ra tháo chạy hỗn loạn. Qua mấy phút hoảng hốt, địch bắt đầu phản ứng. Xe số 3 trúng đạn M.72 đứt xích, xe số 4 sa hố bom phải nằm lại chờ cứu kéo. Các lái xe và pháo thủ nhảy xuống dùng súng bộ binh chiến đấu bảo vệ xe. Đội hình thọc sâu chỉ còn lại hai chiếc xe tăng đang vượt qua ngã ba đường Phan Chu Trinh thọc vào khu nhà tròn ở trung tâm thị xã. Xe tăng số 2 theo hợp đồng, dẫn bộ binh đánh thẳng xuống phía nam, nhưng tới đây, xe lại bị thụt lầy ở mé sông Dinh, không sao vượt lên được. Xe tăng số 1 sau một giờ tung hoành ở khu nhà tròn, mất liên lạc với đại đội, đành phải đánh ngược trở ra để đón xung kích.

22 giờ, sở chỉ huy trung đoàn 141 nhận định: Địch không mạnh nhưng đông. Khi xe tăng ta đột phá, chúng tản ra sao đó khép lại phản kích dữ dội khiến các mũi xung kích không vượt lên được. Bộ binh chưa quen chiến đấu cùng xe tăng nên một số không phát triển kịp. Cần bổ cứu ngay hợp đồng giữa các đơn vị.

Đêm hôm đó, trung đoàn 141 được lệnh giữ chắc các vị trí đã chiếm được, nhanh chóng đưa tiểu đoàn 8 áp sát vào Vạn Kiếp, dùng tiểu đoàn 5 đánh cắt giữa thị xã và căn cứ Vạn Kiếp, không cho địch co cụm. Rạng sáng ngày 27 sẽ tiến công tiếp.

Trời vừa hửng sáng, xe tăng số 1 đã dẫn đầu tiểu đoàn 7 đánh thẳng vào khu tiếp liệu. Pháo trên xe tăng, B.40, B.41 lần lượt bắn tan các ổ đề kháng của địch. Bám sát sau xe tăng, tiểu đoàn 7 chia thành hai mũi đánh chiếm khu tiếp liệu, rồi vượt qua đường Lê Lợi thọc vào khu an ninh, cảnh sát, sở chỉ huy liên đoàn bảo an. Bọn địch lùi dần về khu trung tâm, chống trả quyết liệt. 9 giờ, chúng đưa xe tăng ra phản kích vào sườn tiểu đoàn 7, nhưng chiếc đi đầu vừa xuất hiện đã bị xe tăng số 1 của ta bắn cháy. Những chiếc còn lại vội vã quay đầu tháo chạy.

Ở phía tây, tiểu đoàn 9 đánh chiếm ấp Dinh, phát triển ra đường số 15, tiến vào thị xã. Địch cho bốn xe tăng ra chặn lại. Đại đội trưởng đại đội hỏa lực dẫn đầu một khẩu đội DKZ bắn cháy liên tiếp hai chiếc, buộc chúng phải co lại.

Ở phía đông, tiểu đoàn 8 đánh vào khu gia binh, bịt cổng chính của trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp. Gần một ngàn tên học viên bị đẩy lùi vào khu trung tâm cố thủ. Tiểu đoàn tiến công vào trận địa pháo của địch ở Đồi Đá, thu bốn khẩu 105, sau đó đánh ra đường số 23, thực hiện chia cắt địch giữa thị xã Bà Rịa và Vạn Kiếp.

Tình hình pháp triển hết sức thuận lợi. Tiểu đoàn 9, có tiểu đoàn 5 hỗ trợ được lệnh đánh nhanh xuống cầu Cỏ May với quyết tâm giữ cầu bằng được không cho địch phá cầu trước khi rút chạy về Vũng Tàu.

10 giờ, trung đoàn 141 mở đợt tiến công toàn diện dứt điểm thị xã Bà Rịa. Không chịu nổi sự vây ép, địch bung ra tháo chạy về phía nam. Tại đây chúng gặp một bộ phận quân ta đang chờ sẵn. Rất nhiều tên bị diệt và bị bắt sống.

11 giờ 30 phút, đại đội 11 báo cáo đã chiếm được cầu Cỏ May. Tin đó làm sở chỉ huy sư đoàn hết sức phấn khởi. Phối hợp với trung đoàn 141, trung đoàn 12 tiến công quận lỵ Đức Thạnh. Cuộc chiến đấu kéo dài suốt đêm. Tới 4 giờ sáng ngày 27, tiểu đoàn 6 đã tràn vào làm chủ quận lỵ, tiểu đoàn 4 chiếm lĩnh Bình Giã, Ngãi Giao, phát triển tiếp xuống Bình Ba rồi thừa thắng đánh chiếm Núi Đất. Ở các huyện Xuyên Mộc, Long Lễ, Long Điền, các lực lượng vũ trang địa phương cũng nổ súng đồng loạt tạo thành thế trong đánh ra, ngoài đánh vào khiến bọn địch từ chỗ ngoan cố chống cự chuyển sang rút chạy hỗn loạn.

Nắm chắc tình hình, sư đoàn ra lệnh cho trung đoàn 12 truy kích địch. Có lực lượng địa phương làm hậu thuẫn, trung đoàn 12 trong một ngày đánh xuyên ba huyện từ Đức Thạnh xuống Đất Đỏ, qua Long Điền phối hợp với trung đoàn 2 đánh vào trung tâm huấn luyện sư đoàn 18 và hàng loạt vị trí ở ven biển, diệt và bắt hàng ngàn tên.

Trưa hôm đó, thị xã Bà Rịa hoàn toàn giải phóng. Một lá cờ lớn tung bay lồng lộng từ trên tháp nước ở trung tâm thị xã.

Sư đoàn khẩn trương bước vào giai đoạn 2: Vượt cầu Cỏ May, giải phóng đặc khu Vũng Tàu.

*

* *

Giữa lúc sở chỉ huy sư đoàn đang tổ chức lực lượng tiến đánh Vũng Tàu thì một tiếng nổ lớn đột ngột dậy lên ở phía nam thị xã Bà Rịa. Tham mưu trưởng sư đoàn lặng đi khi được tin cầu Cỏ May bị đánh sập. Thì ra trên đoạn đường Bà Rịa xuống Vũng Tàu có rất nhiều cầu. Các chiến sĩ tiểu đoàn 9 do không thuộc địa hình, đuổi địch được ba ki-lô-mét từ cầu 15 qua cầu Rạch Hao tới cầu Rạch Bồng tưởng là cầu Cỏ May nên đã dừng lại. Đánh sập cầu Cỏ May, địch hy vọng có thể kéo dài thời gian bị tiêu diệt ở Vũng Tàu để tìm đường chạy ra biển.

Từ phương án phát triển đánh chiếm Vũng Tàu bằng bộ binh cơ giới, sư đoàn phải tổ chức lại với một phương án hoàn toàn khác.

Vấn đề đặt ra cấp thiết trong các cuộc thảo luận ở sở chỉ huy sư đoàn là phương pháp vượt sông như thế nào? Bí mật hay bằng sức mạnh của hỏa lực Có thể đưa pháo cớ giới qua sông được không? Một vấn đề nữa là đánh như thể nào để nhân dân ít bị thiệt hại. Theo cán bộ địa phương cho biết thì số dân Vũng Tàu đã lên quá 20 vạn, gấp ba lần số dân trước đó.

Cuối cùng, bộ tư lệnh quyết định phương án chủ yếu đánh Vũng Tàu sẽ vượt sông bằng cả hai phương pháp bí mật và dùng sức mạnh hỏa lực chi viện. Quá trình phát triển, dùng hoả lực đi cùng là chủ yếu. Pháo cơ giới chỉ bắn phá các căn cứ lớn và ngăn chặn tàu biển vào vớt bọn tàn binh địch chạy trốn.

Việc sử dụng lực lượng được xác định lại: Trung đoàn 2 tiến công trên hướng chủ yếu, vượt sông Cỏ May theo trục đường số 15 đánh thẳng vào phía bắc thành phố, chiếm toàn bộ Núi Lớn. Trung đoàn 12 tiến công trên hướng quan trọng vượt qua eo biển Phước Tĩnh đánh vào phía đông-nam Vũng Tàu, chiếm Núi Nhỏ và khu hành chính. Trung đoàn 141 dùng một tiểu đoàn vượt vũng lầy Rạch Cá Đôi, đánh chiếm Núi Nưa ở đảo Long Sơn. hai tiểu đoàn còn lại làm lực lượng dự bị cho sư đoàn.

Suốt đêm 27 và ngày 28 các đơn vị bằng mọi phương tiện gấp rút hành quân đến những khu vực tập kết. Tuy có thấm mệt, khó khăn và giờ tiến công phải chậm lại, nhưng quyết tâm giải phóng Vũng Tàu trong thời gian ngắn nhất vẫn không thay đổi.

Chiều ngày 28 tháng 4, tại Sài Gòn, màn kịch sau chót của chế độ bù nhìn lại diễn ra cập rập và vội vã: TrầnVăn Hương buộc phải từ chức và Dương Văn Minh, kẻ đối đầu với Thiệu trước đây được cử lên thay thế. Với chính phủ mới của Minh, bọn Mỹ hy vọng một cách mỏng manh ta sẽ chấp thuận một giải pháp nào đó để chấm dứt chiến tranh trước ngưỡng cửa Sài Gòn. Nhưng bọn chúng đã không đạt được mục đích.

Lúc này, tình hình mặt trận Sài Gòn đang diễn ra mỗi lúc một sôi động. Ở hướng đông, Quân đoàn 2 đã đánh chiếm căn cứ Nước Trong, giải phóng chi khu Long Thành, Phước Tường, bao vây Long Tân, áp sát xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn. Ở hướng bắc, Quân đoàn 4 đánh chiếm chi khu Trảng Bom, tiến công quyết liệt vào Biên Hòa. Đặc công chiếm cầu xa lộ trên sông Sài Gòn. Hướng tây-nam sau khi đường số 4 bị cắt đứt, cô lập Sài Gòn với đồng bằng sông Cửu Long, đoàn 232 tổ chức bàn đạp tiến công vào Sài Gòn. Hướng tây-bắc, Quân đoàn 3 cắt đứt đường số 1 và đường 22 lên Tây Ninh. Hướng bắc, Quân đoàn 1 làm chủ đường số 16. áp sát Thủ Dầu Một.

Vòng vây mỗi lúc một thít chặt xung quanh Sài Gòn. Và đến đêm 28, Sài Gòn đã nằm trong tầm đạn của pháo chiến dịch. Sau khi kiểm tra lại các hướng, Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh quyết định sẽ tiến công trên toàn mặt trận vào rạnrg sáng ngày 29. Đêm hôm đó, mệnh lệnh cùng được gửi đến cho sư đoàn Sao Vàng: "Nhiệt liệt khen ngợi chiến thắng Bà Rịa, giải phóng Phước Tuy góp phần vào chiến thắng chung của chiến dịch lịch sử. Hiện nay đại quân ta đang tiến vào Sài Gòn để đập tan sào huyệt cuối cùng của địch. Các đồng chí hãy nêu cao tinh thần đoàn kết hợp đồng với lực lượng tại chỗ, nhanh chóng tiến vào giải phóng Vũng Tàu, triển khai các loại pháo bảo vệ bờ biển và thành phố. Chấp hành tốt các chính sách." Tiếp sau, củng cố lực lượng bảo vệ vững chắc vùng mới giải phóng và làm lực lượng dự bị đợi lệnh phát triển tiến công".

1 giờ sáng ngày 29, các trợ lý cơ quan được tung xuống tất cả các đơn vị. Từ trước đến nay, công tác động viên chính trị, giáo dục tư tưởng với nhiều hình thức phong phú đã được bộ tư lệnh sư đoàn đặc biệt quan tâm. Trong chiến dịch lịch sử này, công tác ấy giữ một vai trò hết sức quan trọng. Các trợ lý chính trị đã xuống từng tổ, từng mũi cùng với các chính trị viên đại đội, tiểu đoàn bồi dưỡng nhận thức và tình cảm cách mạng cho mỗi cán hộ và chiến sĩ sắp sửa vượt sông tiến vào Vũng Tàu. Ai cũng biết chỉ còn vài ngày nữa, thậm chí vài giờ nữa, chiến tranh sẽ kết thúc trên cả nước, chấm dứt những tháng năm chiến đấu tưởng như vô tận....; đứng trước mỗi chiến sĩ vẫn có thể là sự hy sinh. Hơn bao giờ hết, sự đấu tranh giữa cái sống vả cái chết lại hiện ra, rõ nét như trong trận quyết chiến cuối cùng sắp đến này. Người chiến sĩ sẽ nghĩ gì, sẽ hành động như thế nào trước làn đạn hấp hối của kẻ thù. Đó là tất cả những gì mà người cán bộ chính trị phải làm khi bước vào trận đánh và cả ngay trong quá trình trận đánh đang tiếp diễn.

*

* *

Cuộc chiến đấu vượt sông Cỏ May của trung đoàn 2 trên hướng tiến công chủ yếu gặp khó khăn ngay từ những phút đầu tiên. Địch bám chắc lấy đầu cầu bên kia, khống chế mặt sông rất chặt. Nhiều lần tiểu đoàn 3 tổ chức vượt sông nhưng không được.

3 giờ sáng ngày hôm ấy, lợi dụng nước thủy triều lên, địch phải lùi khỏi bãi sú bờ bên kia, tiểu đoàn trưởng Lê Đình Như bí mật cho hai đại đội và ĐKZ vượt sông để đánh chiếm bàn đạp cho trung đoàn. Nhưng khi bộ đội cập vào được bãi sú thì trời sáng. Nước thủy triều bắt đầu rút. Tình hình trở nên hết sức bất lợi. Phát hiện ra lực lượng ta đã sang sông, địch tung quân ra phản kích. Những chiếc xe tăng được giấu kín trong các hầm tránh pháo bắt đầu ngóc dậy vãi dạn xuống đội hình của tiểu đoàn 3 và bắn xối xả xuống mặt sông.

Trung đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn bám chắc trận địa, nhanh chóng đào công sự và đề nghị hỏa lực sư đoàn chi viện. Chỉ một lát sau, đạn pháo ta đã dồn dập dội xuống đầu cầu bên kia. Lợi dụng pháo bắn, đại đội còn lại của tiểu đoàn 3 tổ chức vượt sông tiếp những không được vì đạn đại liên địch đan dày trên mặt sông. Bám chắc vào bãi đất như rễ đước, rễ sú, các chiến sĩ đánh địch liên tục suốt bảy giờ đồng hồ. Máu của các chiến sĩ hy sinh loang đỏ trên mặt bùn. Đến trưa, đội hình vẫn không phát triển lên được mặt đường, nhưng bọn địch cũng không đánh bật được họ ra khỏi bãi sú.

Ở hướng vu hồi phía đông, tiểu đoàn 5 trung đoàn 12 được nhân dân giúp đỡ đãddùng thuyền bí mật vượt qua eo biển Phước Tĩnh, đổ bộ lên bãi cát phía đông, đang phát triển về phía nam thành phố. Trước tình hình đó, thường vụ đảng ủy sư đoàn họp quyết định phải lật cánh, chuyển hướng tiến công. Hướng chủ yếu sẽ là trung đoàn l2. Đây là một quyết định nhạy bén, kịp thời. Vì nếu cứ tập trung lực lượng để vượt cầu Cỏ May, thời gian tiến công sẽ chậm. Trong khi đó, mũi vu hồi Phước Tĩnh với yếu tố bí mật, bất ngờ cao sẽ là một đòn rất hiểm hóc trong tiến đánh Vũng Tàu. Địch tin chắc có eo biển, có đầm lầy án ngữ, hoàn toàn không ngờ sư đoàn sẽ đổ bộ lên hướng đó.

Việc đổi hướng tiến công chủ yếu dã kéo theo những thay đổi sử dụng binh hỏa lực của sư đoàn. Tiểu đoàn 7 đang chuẩn bị trên hướng cầu Cỏ May được điều gấp về Phước Tĩnh làm dự bị cho trung đoàn 12. Tiểu đoàn cao xạ 37 cũng được tăng cường cho hướng đó. Tham mưu trưởng Nguyễn Duy Thương được cử đi trực tiếp tổ chức chỉ huy hướng chủ yếu này.

Nhận được mệnh lệnh của sư đoàn, sở chỉ huy trung đoàn 12 quyết định huy động thêm thuyền của nhân dân, đưa ngay tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 6 vượt tiếp qua eobiển bám sát tiểu đoàn 5, thọc sâu vào Vũng Tàu đánh chiếm Núi Lớn, chia cắt thành phố và cản phía sau không để địch rút chạy ra biển. Trận địa pháo được bố trí thành ba tầng: tầng một gồm cối, DKZ, 12.8; tầng hai: pháo 105, 85; tầng ba: pháo 130 do phó trung đoàn trưởng trung đoàn 68 Nguyễn Văn Lưu chỉ huy, vừa yểm hộ trực tiếp cho bộ đội vượt sông, vượt biển, vừa chi viện chiến đấu.

Tình hình thay đổi rất nhanh khi trung đoàn 12 được chuyển thành mũi tiến công chủ yếu. 9 giờ 15 phút, các chiến sĩ đánh chiếm điểm cao 31 và ấp Chí Linh rồi tiến xuống tiêu diệt cụm quân địch ở trại nghỉ mát Thủy Vân. Để chi viện cho cuộc vượt sông Cỏ May của trung đoàn 2 lúc đó đã trở thành hướng quan trọng, sư đoàn ra lệnh cho đại đội 2 tiểu đoàn 6 băng qua gò cát rộng gần một ngàn mét, bất ngờ đánh chiếm ấp Phước Thành bên trục đường số 15, cô lập bọn địch ở cầu Cỏ May với trung tâm thành phố. Mũi chia cắt lợi hại này đã làm cho bọn địch đang chốt chặn ở cầu Cỏ May dao động. Nắm chắc thời cơ, trúng đoàn 2 mở đợt tiến công mới lên bờ bên kia sông. Sau một hồi chống cự tuyệt vọng, bộ bjnh và xe tăng địch rút chạy về cầu Cây Khế. Tiểu đoàn 3 trung đoàn 2 được lệnh truy kích. Địch ở cầu Cây Khế tan rã từng mảng, rút về Vũng Tàu nhưng vừa đến Phước Thành, chúng đã bị đại đội 2 tiểu đoàn 6, từ hai bên đường đổ ra đánh úp. Hàng loạt xe tăng, xe GMC bị bắn cháy, số còn lại đạp lên nhau chạy thục mạng về Vũng Tàu. Các chiến sĩ tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 6 gặp nhau trên mặt đường. Tiểu đoàn trưởng Lê Đình Như ôm chầm lấy phó chính trị viên tiểu đoàn 6 Nguyễn Trọng Ba: "Xin cám ơn tiểu đoàn 6. Nếu không có mũi tập hậu hiểm hóc của các anh thì bọn lính dù chưa chắc đã chịu rút chạy".

Nửa giờ sau, hai tiểu đoàn được lệnh phối hợp phát triển tiếp về phía thành phố. Bọn lính thủy đánh bộ định giật mìn phá cầu Rạch Bá nhưng không kịp. Đại đội 2 tiểu đoàn 3 đã xáp tới, dùng hỏa lực bắn nát các lô cốt hai bên đầu cầu. 18 giờ, tiểu đoàn 3 chiếm căn cứ hải quân Yên Thế trong tiếng reo mừng hoan hỉ của đồng bào phường Thắng Nhứt.

Lúc đó, toàn bộ đội hình trung đoàn 2 đã vượt qua sông Cỏ May, dùng xe địch thọc sâu vào trung tâm thành phố. Ở phía đông, trung đoàn 12 cũng chia thành nhiều mũi tiến thẳng vào thành phố.

Sau khi phân tích tình hình, sư đoàn trưởng ra lệnh cho pháo binh ngừng bắn các mục tiêu trong thành phố, chuyển ra bắn chặn tàu biển và khống chế các bến cảng. Cơ quan tham mưu sư đoàn quy định lại các ký, tín hiệu hiệp đồng khi đánh vào nội thành. Các bộ phận thu chiến lợi phẩm của cơ quan hậu cần được điều gấp xuống các hướng. Chủ nhiệm chính trị sư đoàn cũng kịp thời thảo một bức điện gửi các đơn vị động viên và hướng dẫn cán bộ. chiến sĩ những công việc phải làm khi làm chủ trong thành phố và phổ biến chính sách dân vận, tù hàng binh, chiến lợi phẩm, nhất là việc bảo vệ các trung tâm kỹ thuật và kho tàng quân sự.

Đã bao lần tiến công dứt điểm một trận đánh, đã bao lần cầm súng xông lên lô cốt cuối cùng của địch trên cứ điểm nhưng chưa khi nào cán bộ, chiến sĩ sư đoàn SaoVàng tại thấy lòng mình hăng hái và xúc động mạnh mẽ như đêm nay. Nắm chắc địch có âm mưu dùng một bộ phận cố thủ, ngăn chặn để đội hình lớn rút chạy, bộ tư lệnh sư đoàn ra lệnh cho các đơn vị đồng loạt tiến công vào trung tâm thành phố Vũng Tàu trong đêm 29 tháng 4 - đêm trước của buổi bình minh giải phóng hoàn toàn đất nước khỏi chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.

1 giờ 35 phút ngày 30, tiểu đoàn 4 nổ súng tiến công đánh chiếm trường huấn luyện công binh.

Ở phía nam, tiểu đoàn 5, mũi vu hồi của trung đoàn 12 tiến công Núi Bé vào 5 giờ sáng, chiếm gọn khu đèn biển và mỏm núi phía nam,. diệt và bắt sống hàng trăm tên, thu 30 xe quân sự, trong đó có sáu xe tăng, xe bọc thép.

4 giờ 30 phút ngày 30, trung đoàn 2 tiến công khu vực Núi Lớn, đánh thẳng lên trung tâm vô tuyến viễn thông, làm chủ đài ra đa, đánh chiếm Bến Đình và điểm cao 236. Đoán được hướng rút chạy của địch, một mũi vòng ra bến đá, đánh chiếm bãi xe bắt sống 500 tên địch, thu 29 xe, có bảy xe tăng.

Trận đánh kéo dài, quyết liệt nhất ở trung tâm thành phố là trận đánh vào khách sạn Pa-lát, và cũng là trận đánh sau chót của chiến dịch.

Khách sạn Pa-lát là một ngôi nhà cao chín tầng, đứng sừng sững ở mé biển phía nam thành phố. Bọn sĩ quan ác ôn hầu hết tập trung cố thủ ở đây, chờ tàu biển vào đón để rút chạy. Nhìn tòa nhà cao đồ sộ, phó tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 Lê Anh Kiên chưa nắm được lực lượng và bố phòng của địch ra sao lệnh cho đại đội 61 đào công sự vây ém, phục bắt tù binh. Gần sáng, một chiếc xe tăng dẫn đầu bốn chiếc GMC chở lính từ bãi biển chạy xộc vào đội hình bao vây của đại đội 61. Chính trị viên đại đội Nguyễn Viết Năng cho bộ đội xông ra bắt sống toàn bộ bọn địch, trong đó có tên thiếu tá Bình, Bình khai trong khách sạn có khoảng 450 đến 500 sĩ quan và lính. Chúng nhốt dân tỵ nạn ở tầng dưới làm lá chắn để cản sức tiến công của ta. Tình hình trên được báo về tiểu đoàn và trung đoàn. Chính ủy trung đoàn 12 Trần Hữu Biển ra lệnh: "Dùng tên Bình kêu gọi địch đầu hàng, nếu chúng ngoan cố thì đánh. Phải tìm mọi cách đưa dân ra trước"

Mờ sáng ngày 30 tháng 4 khi tiểu đoàn 6 điều chỉnh lại đội hình và tiến hành công tác binh vận, bọn giặc vẫn câm lặng, không chịu đầu hàng. Tiểu đoàn 6 được lệnh nổ súng. Bộ đội liên tục mở nhiều đợt tiến công nhưng đều bị địch dùng đại liên và lựu đạn đánh bật trở lại.

Trực tiếp chỉ huy trận đánh, phó trung đoàn trưởng Nguyễn Hồng Sơn cho hỏa lực bắn liên tục 30 phút, chi viện cho bộ đội vượt tường vào tiếp cận, dùng lựu đạn phá cửa tầng dưới đưa đồng bào ra ngoài, sau đó vòng xuống phía nam, luồn qua các đường hẻm của khu dân cư đánh vào bên sườn khách sạn. Đây là những thước đất đẫm máu. Trung đội trưởng trung đội 3 - đại đội 63 hy sinh, phó trung đội trưởng lên thay thế, trung đội trưởng trung đội 1 và trung đội 2 bị thương nặng nhưng vẫn tiếp tục chỉ huy đơn vị diệt các ổ đại liên địch. Chiến sĩ B.41 Đinh Sĩ Cương bắn bốn quả đạn vẫn chưa diệt được chúng ở tầng tư. Từ phía sau, một chiến sĩ mới của đại đội 62 nhanh nhẹn vác đại liên lên sườn đồi bên cạnh bắn chi viện cho đơn vị bạn. Hỏa điểm địch bị dập tắt nhưng người chiến sĩ trẻ dũng cảm đó đã hy sinh bởi một loạt đại liên khác của chúng.

Ở sở chỉ huy sư đoàn, giữa lúc mọi người đang căng thẳng theo dõi trận đánh vào khách sạn Pa-lát thì trưởng ban trinh sát Nguyễn Khác Vẽ thông báo về việc Dương Văn Minh đang kêu gọi ngừng bắn để bàn giao chính quyền. Anh bật công tắc mở đài Sài Gòn cho mọi người cùng nghe đoạn băng ghi âm chúng đang phát đi phát lại. Chính ủy sư đoàn Mai Tân trao đổi ý kiến trong thường vụ đảng ủy và ngay sau đó, một bức điện được gửi xuống các đơn vị: "Địch đang dùng thủ đoạn chính trị để hạn chế thắng lợi của ta. Lệnh của sư đoàn, bộ đội tiếp tục tiến công đập tan các ổ đề kháng cuối cùng của địch. Diệt gọn, bắt sạch. Tuyệt đối không được buông lỏng tay súng"

Lúc đó cũng là lúc trung đoàn 12 đang tổ chức đợt tiến công mới vào khách sạn Pa-lát. Các tầng khách sạn lần lượt bị các chiến sĩ Sao Vàng đánh chiếm. Cuối cùng, không chịu nổi sức ép ngày càng tăng của đạn hỏa lực và bộ binh ta, chúng phải kéo cờ trắng và phát loa xin đầu hàng. Hỏa lực ta ngừng bắn. Các chiến sĩ đứng chặn ở các cầu thang kiểm soát từng tốp địch đang lũ lượt từ mấy tầng trên cùng bước xuống. Hơn 400 tên xếp thành hàng dài từ thềm nhà khách sạn ra đến cổng chính.

Chiếm được khách sạn Pa-lát, tiểu đoàn 6 đã đập tan cụm quân đầu sỏ, ngoan cố nhất của bọn địch trong thành phố. Đến 11 giờ trưa, thành phố Vũng Tàu hoàn toàn giải phóng.

Lúc này, ở sở chi huy, không ai bảo ai, mọi người đều mở radio nhưng không tìm thấy làn sóng đài phát thanh Sài Gòn đâu cả. Ai cũng tin rằng các đơn vị bạn đang đánh vào trung tâm thành phố, phải sẵn sàng tư thế để tiến về Sài Gòn theo mệnh lệnh của Bộ. Nhưng chỉ một lát sau, mọi người lại bắt được làn sóng của đài phát thanh Sài Gòn. Song không phải là tiếng của nhân viên phát thanh mà là lời tuyên bố đầu hàng không điều kiện của tên tổng thống bù nhìn Dương Văn Minh.

"Sài Gòn giải phóng rồi,

Quân dân ta toàn thắng rồi"

Một lần nữa sở chỉ huy lại tưng bừng, nhộn nhịp. Ai cũng muốn nói thật to, muốn reo lên. Nhiều người ngồi lặng đi, bàng hoàng, nước mắt giàn giụa trên má. Với một giọng đầy xúc động, chính ủy sư đoàn ra lệnh cho các cán bộ tản đi thông báo ngay cho các đơn vị và đồng bào biết, mặc dù anh hiểu rằng, cũng như anh, nhân dân và bộ đội ở khắp mọi nơi trên thành phố này, trên cả nước đều đã biết tin vui ấy.

Những ngày sau đó, Vũng Tàu tràn ngập trong một niềm vui lớn. Trên các ngả đường của thành phố, ngườ iđi lại cuồn cuộn. Lại cờ, hoa, ảnh Bác, những cuộc mít tinh, những đêm liên hoan văn nghệ...Gió biển thổi lồng lộng. Sóng ào ạt xô vào thân những con tàu theo tiếng gọi của uỷ ban quân quản thành phố đã trở về đậu dày đặc trên các bến cảng.

Ngày 2 tháng 5, trong lúc các sư đoàn chủ lực miền Tây đang tiếp tục truy kích quân đoàn 4 ngụy ở đồng bằng sông Cửu Long thì các chiến sĩ tiểu đoàn 6 sư đoàn Sao Vàng cũng được lệnh lên tàu, cùng với các chiến sĩ hải quân vượt biển đi giải phóng những người tù chính trị ngoài Côn Đảo...

Tàu rời cảng Vũng Tàu lúc 19 giờ. Các chiến sĩ được thay mặt sư đoàn nhận nhiệm vụ vinh quang này đã hứa với đảng ủy và bộ tư lệnh sư đoàn sẽ chiến đấu thật dũng cảm để xứng đáng với những người đồng chí trên đảo, xứng đáng với truyền thống "Trung dũng kiên cường" của sư đoàn.

Nhưng khi con tàu cập vào bờ đảo, thì trước đó những người tù chính trị đã nổi dậy, phá tan các chuồng cọp, làm chủ đảo. Sáng ngày hôm ấy, một buổi lễ rước chân dung Bác lên đảo đã diễn ra trên cầu tàu 915. Hơn bảy ngàn tù chính trị và hơn ba ngàn dân trên đảo đã có mặt trong buổi lễ thiêng liêng đó. Nhiều người đã khóc nấc lên khi nhìn thấy ảnh Bác. Đêm qua, khi được tin đảo giải phóng, các đồng chí Trung ương điện hỏi đảo cần gì, thiếu gì, những người tù đã trả lời: chúng tôi không thiếu thứ gì, chúng tôi chỉ thiếu ảnh Bác.

Kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh, sư đoàn Sao Vàng đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu gần một vạn tên địch, giải phóng toàn bộ tỉnh Phước Tuy và đặc khu Vũng Tàu, thu toàn bộ phương tiện chiến tranh gồm hàng trăm xe, pháo, tầu chiến và hàng ngàn tấn quân trang, quân cụ khác

Chiến thắng Bà Rịa - Vũng Tàu đã ghi thêm một trang sáng chói trong lịch sử chiến đấu và trưởng thành của sư đoàn.

Tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, lần đầu tiên sư đoàn chỉ huy lực lượng binh chủng hợp thành lớn, có xe tăng, pháo tầm xa 130, 155, và đã sử dụng có hiệu quả các lực lượng đó, đưa tốc độ tiến công đạt kỷ lục cao nhất: 22 giờ giải phóng hoàn toàn một tỉnh, 29 giờ giải phóng một thành phố lớn, có nhiều căn cứ quân sự quan trọng. Cũng lần đầu tiên sư đoàn đánh vào thành phố, các chiến sĩ đã chiến đấu xuất sắc giữa những dãy nhà cao tầng và đường sá chằng chịt, diệt được địch, bảo vệ được dân, giữ được những cơ sở kỹ thuật quân sự quan trọng. Trong phạm vi sư đoàn, trước hết đó là kết quả về sự trưởng thành của công tác tổ chức, chỉ huy trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng của cán bộ chỉ huy các cấp.

Một điều đáng kể khác là sự nhạy bén, linh hoạt trong vận dụng chiến thuật. Trận tiến công vào Phước Tuy, từ phân tích địch ta đúng đắn, sư đoàn đã tiến hành một lúc cả hai bước thọc sâu và vây lấn ngoại vi, khiến đội hình địch rối loạn, đẩy nhanh tốc độ phát triển của trận đánh. Trong trận đánh vào đặc khu Vũng Tàu, khi mũi chủ yếu gặp khó khăn, không vượt được sông Cỏ May, sư đoàn đã nhanh chóng chuyển hướng, biến mũi tiến công quan trọng thành mũi tiến công chủ yếu, nhờ đó đã thay đổi rất nhanh cục diện trận đánh. Đặc biệt là mũi chia cắt của tiểu đoàn 6 đánh vào Phước Thành, sau lưng tuyến phòng thủ địch ở bờ nam sông Cỏ May là một mũi hết sức lợi hại. Trung đoàn 2 sẽ còn gặp nhiều khó khăn trước tuyến phòng thủ này nếu không có mũi chia cắt bất ngờ và sắc bén đó.

Nếu một chiến dịch có những trận đánh quyết định, một trận đánh có những mũi, những hướng quyết định, thì mũi đột phá thọc sâu vào Bà Rịa và mũi vu hồi ở Vũng Tàu là những mũi, hướng có tính chất quyết định như thế.

Bất kỳ hoạt động ở chiến trường nào, sư đoàn Sao Vàng cũng kết hợp chặt chẽ và hết sức coi trọng sự giúp đỡ của các lực lượng địa phương. Do có bộ phận dẫn dường của tỉnh đội Phước Tuy nên sư đoàn mới tổ chức được mũi thọc sâu qua rừng tre để bất ngờ và nhanh chóng đánh vào Bà Rịa. Các chiến sĩ trung đoàn 12 vẫn ghi nhớ mãi hình ảnh hai em thiếu niên ở Thắng Tam đã dẫn tiểu đoàn 6 đánh chiếm khách sạn Pa-lát và đã dũng cảm hy sinh. Rồi một bà mẹ ở Thắng Nhì không quản đêm tối đã vẽ sơ đồ và chỉ đường cho tiểu đoàn 4 đánh vào trường thiếu sinh quân. Đồng bào giáo dân ở Phước Tĩnh không quản ngại nguy hiểm, xung phong lái thuyền máy chở bộ đội vượt sông, vượt biển đánh vào Vũng Tàu...

Có biết bao nhiêu tấm gương như thế đã xuất hiện trong quá trình phát triển của chiến dịch.

Các chiến sĩ trong sư đoàn khi rời vùng căn cứ Hoài ân hồi tháng 3, không ai ngờ rằng mùa xuân này họ sẽ truy kích địch tới Vũng Tàu và cũng là mùa xuân chấm dứt 20 năm chiến đấu gian khổ của quân dân miền Nam. Cán bộ, chiến sĩ sư đoàn đều thấy tự hào vì đã góp phần xứng đáng của mình trong mùa xuân lịch sử ấy.

Suốt 56 ngày đêm (từ 4 tháng 3 đến 30 tháng 4) với quân số và trang bị rất hạn chế, sư đoàn đã đánh hơn 200 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn hai vạn tên địch. Trong đó bắt sống và gọi hàng một vạn rưởi tên, có một trung tướng, một chuẩn tướng, ba đại tá, chín trung tá, 32 thiếu tá và 719 sĩ quan cấp úy. Cùng các đơn vi bạn và quân dân địa phương tiêu diệt và làm tan rã sư đoàn 22, lữ dù 1, lữ dù 2, liên đoàn biệt động 31, trung đoàn 4 và 5 sư đoàn 2, hai liên đoàn bảo an, sư đoàn 6 không quân, đám tàn quân của sư đoàn lính thủy đánh bộ, ngụy quyền ở ba tỉnh Bình Định, Ninh Thuận, Phước Tuy và đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, một chiến công chưa từng có trong lịch sử 10 năm đánh Mỹ của sư đoàn. Công lao đó đã được Quốc hội và Chính phủ tặng thưởng ba huân chương Quân công từ hạng nhất đến hạng ba, được Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 tặng hai lá cờ mang dòng chữ: "Thần tốc, táo bạo, quyết chiến, toàn thắng" và "Đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử".

Vào những ngày sau đó, sư đoàn liên tiếp được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân đội tới thăm. Ngày 26 tháng 5, sư đoàn đón Đại tướng Văn Tiến Dũng. Ngày 29 tháng 5, đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ngày 30 tháng 6 đón thủ tướng Phạm Văn Đồng và ngày 12 tháng 10 đón Bác Tôn kính mến.

Cuối năm 1975, khi đang tiến hành chiến dịch gỡ bom mìn địch gài lại ở chiến trường Bình Định và truy quét bọn phỉ Phun-rô ở Đắc Lắc - Khánh Hòa thì một tin vui nữa đến với cán bộ và chiến sĩ sư đoàn. Ngày 8 tháng 9 năm 1975, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quyết định tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho các đơn vị "Lập được nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 giải phóng miền Nam, góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn" (Chú thích 1. Trích Quyết nghị của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số 39/NQ/QH/K5 ngày 8-9-1975.). Trong đó có sư đoàn 3 Sao Vàng và trung đoàn 141, trung đoàn thứ ba của sư đoàn được nhận danh hiệu cao quý ấy.

Trong những ngày tràn ngập niềm vui ấy các chiến sĩ trong sư đoàn càng biết ơn Đảng và thương nhớ Bác Hồ, thương nhớ biết bao đồng bào, đồng chí trên chiến trường Bình Định, Quảng Ngãi đã chiến đấu, hy sinh, chiến trường mà mỗi người dân, mỗi thước đất đã trở thành một phần xương thịt của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn. Mọi người đều nghĩ rằng từ nay họ sẽ được sống, lao động và học tập để xây dựng quân đội, xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoà bình, thống nhất, phồn vinh. Họ chưa biết được một kẻ thù mới đã xuất hiện, và những cuộc chiến đấu mới đang đợi họ ở phía trước.

Hết Chương 8
Thông tin sách