TRƯỚC VÀ SAU HIỆP ĐỊNH PARIS
1. GIỮ VỮNG BÀN ĐẠP HOÀI ÂN
Cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 của quân và dân miền Nam đã giáng một đòn nặng nề vào chiến lược "Việt Nam hóa" chiến tranh của đế quốc Mỹ. Từ tháng 3 đến tháng 5, các binh đoàn chủ lực ta đã đập tan ba tuyến phòng ngự kiên cố nhất của địch ở Quảng Trị, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, tiêu diệt và làm tan rã nhiều sư đoàn, trung đoàn quân chủ lực ngụy, "Xương sống" của chiến lược "Việt Nam hóa" chiến tranh của Mỹ.
Cũng bắt đầu từ tháng 5 năm 1972, vùng giải phóng đã mở ra bát ngát ở Quảng Trị, kéo dài từ vĩ tuyến 17tới bờ bắc sông Thạch Hãn, bao gồm cả thị xã Đông Hà và thị xã Quảng Trị. Ở Đức Tô, Tân Cảnh (Công Tum), Ở Hiệp Đức ( tây Quảng Nam), ở ba huyện phía bắc Bình Định và ở Bình Long (tây - bắc Sài Gòn). Tuyến giao thông của ta có thể tự do đi lại từ Đồng Hới đến Đông Hà, dọc theo đường số 9 (Đông Hà - Khe Sanh), vào tận Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.
Trước sự thất bại nặng nề đó, viên tướng Pháp Đờ Cát-tơ-ri kẻ 18 năm trước đây từng bị bắt sống ở lòng chảo Điện Biên Phủ đã hoan hỉ kêu lên rằng: (Người Việt Nam là những chiến sĩ tài giỏi nhất thế giới. Không có một nước châu Âu hoặc châu Mỹ nào có thể thắng được họ. Mỹ đã bị đánh bại. Người Mỹ không còn cách lựa chọn nào khác hơn là rút khỏi Việt Nam (AFP 6-6-1972). Còn đảng dân chủ, một đảng lớn từng cầm quyền ở Mỹ cũng phải thừa nhận: "Sự trống rỗng củaViệt Nam hóa, một khẩu hiệu lừa bịp có vẻ như hứa hẹn một thắng lợi ít tốn kém, đã bị phơi trần qua cuộc tiến công gần đây của Cộng sản".
Vấn đề cay đắng đối với Ních-xơn lúc này không chỉ là thất bại của cái học thuyết do y đề xướng mà còn kéo theo sự sụp đổ về mưu đồ chính trị mà chính quyền y đeo đuổi mấy năm nay ở Pa-ri. Chúng định thương lượng trên thế mạnh, định rút ra khỏi Việt Nam trong danh dự. Nhưng chúng không thực hiện nổi. Một lần nữa, Nhà trắng và Lầu năm góc lại đau đầu bàn mưu tính kế. Những cuộc tranh cãi gay gắt nổ ra và cuối cùng phe Ních-xơn đã thắng với chủ trương "Mỹ hóa" lại cuộc chiến tranh Việt Nam bằng không quân và hải quân. Chiến sự lại bùng lên ác liệt ở cả hai miền Nam, Bắc nước ta. .
Bắt đầu từ tháng 7 năm 1972. quân ngụy, dưới sự chi viện ồ ạt của không quân, hải quân Mỹ đã mở những cuộc hành quân lớn vào nhiều vùng địa bàn chiến lược mà Quân giải phóng đã mở ra trong tháng 5. Những trận đánh dai dẳng, khốc liệt chưa từng có lại diễn ra xung quanh Thành Cổ Quảng Trị, Quế Sơn, Đầm Dơi (Quảng Nam), ở ba huyện phía bắc Bình Định và những khu vực bao quanh thị xã An Lộc tỉnh Bình Long.
Riêng ở bắc Bình Định, nơi sư đoàn Sao Vàng đang hoạt động, quân ngụy đã tập trung 23 tiểu đoàn chủ lực, bảy tiểu đoàn bảo an, có bảy chi đoàn xe tăng, xe bọc thép và hàng trăm máy bay Mỹ yểm trợ. Chúng tính toán: "Chủ lực đối phương ở đây chỉ có sư đoàn 3 Bắc Việt với quân số còn khoảng 40 phần trăm đang tập trung củng cố ở thung lũng An Lão. Với tương quan lực lượng như vậy, bọn chỉ huy quân khu 2 ngụy khẳng định việc " tái chiếm bắc Bình Định là trong tầm tay". Chúng đặt kế hoạch: bước thứ nhất đánh chiếm bàn đạp bắc Phù Mỹ. Bước thứ hai, chiếm Bồng Sơn. Tam Quan, Hoài ân. Bước thứ ba, tiến hành "bình định" trở lại. Một thử thách mới đang đến với cán bộ, chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng.
Sau Xuân - Hè 1972, chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 5 chủ trương mở hoạt động Thu nhằm tiêu diệt, làm tan rã một bộ phận quân chủ lực và quân địa phương địch, giải phóng vùng nam Quảng Ngãi và tây -bắc Quảng Nam. tiếp tục tiến công để mở rộng và hoàn chỉnh vùng giải phóng Tây Nguyên. Trong kế hoạch cụ thể của chiến địch, sư đoàn Sao Vàng có hai nhiệm vụ:
- Trung đoàn 12 phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương, đánh đích phản kích bảo vệ bắc Bình Định.
- Sư đoàn (thiếu trung đoàn 12) hành quân ra nam Quảng Ngãi (hướng trọng điểm của quân khu), phối hợp với sư đoàn 2, tạo nên một vùng giải phóng hoàn chỉnh từ nam sông Vệ tới bắc Phù Mỹ nối đến với bắc Công Tum .
Trong lúc sư đoàn Sao Vàng đang khẩn trương chuẩn bị vào chiến địch mới thì địch đã tập trung ở phía nam tỉnh Bình Định, gồm toàn bộ sư đoàn 22 (4 trung đoàn), hai liên đoàn biệt động số 2 và số 6, bảy chi đoàn xe tăng, xe bọc thép, ba tiểu đoàn bảo an do tên chuẩn tướng Phan Đình Niệm, tư lệnh sư đoàn 22 chỉ huy.
Điều đặt ra khá căng thẳng và phức tạp đối với sư đoàn Sao Vàng và Bộ chỉ huy Mặt trận bắc Bình Định là ta có thể chặn đứng cuộc phản kích của địch được không ? Và chặn bằng cách nào trước thế địch đông như vậy? Lúc này lực lượng phòng ngự của ta chỉ có hai tiểu đoàn chủ lực, hai tiểu đoàn địa phương. Trung đoàn 12 còn đang ở phía nam đường số 19 chưa về kịp.
Ngày 5 tháng 7, cuộc họp liên tịch giữa bộ tư lệnh sư đoàn Sao Vàng, tỉnh đội Bình Định và các huyện đội Hoài ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ đã thống nhất chủ trương: Tổ chức một trận địa phòng ngự giữ đèo Phủ Cũ kéo dài về phía tây tới đèo ông Bộ, Hòn Bồ, phía Đông qua núi Chóp Chài tới đèo Phú Thứ (giáp biển). Đưa ngay tiểu đoàn 11 công binh có hỏa lực chi viện làm nhiệm vụ chốt tại đèo Phủ Cũ. Tiểu đoàn 4 trung đoàn 12, đại đội công binh trung đoàn 2 cùng các đại đội bộ đội địa phương huyện Phù Mỹ làm lực lượng cơ động đánh địch từ phía sau và cạnh sườn khi địch tiến công Phủ Cũ. Các đơn vị còn tại của sư đoàn và địa phương đảm nhiệm phòng ngự tại chỗ, đề phòng địch đổ quân xuống phía sau Hoài ân, Hoài Nhơn trước khi trung đoàn 12 về đủ
Đây là một phương án chính xác, tích cực nhưng do thời gian quá gấp, thế địch đông nên khi địch ồ ạt tiến công, các đơn vị trên trận địa phòng ngự đã phải chiến đấu hết sức khó khăn, ác liệt. Các chiến sĩ tiểu đoàn công binh đã chiến đấu kiên cường với trung đoàn 47 ngụy trên đèo Phủ Cũ, nhưng vì lực lượng quá chênh lệch nên cuối cùng phải lùi dần về Diên Khánh, Văn Công (nam Bồng Sơn) với quân số còn một phần ba.
Trước tình hình ấy, ngày 17 tháng 7, Bộ tư lệnh Quân khu 5 quyết định không đưa sư đoàn Sao Vàng ra nam Quảng Ngãi mà dùng toàn bộ lực lượng của mình cùng quân dân địa phương đánh địch giữ vững vùng giải phóng bắc Bình Định. Lúc nhận điện, sư đoàn đã hành quân được hai ngày. đang trên đường ra Quảng Ngãi. Các đơn vị nhận được lệnh hành quân gấp rút không kể ngày đêm trở về bắc Bình Định trước ngày 2 tháng 7. Sư đoàn dự tính, với lực lượng hiện có, ta có thể chặn đứng bước tiến của địch ít ra là một tuần lễ ở phía nam sông Lại Giang.
Thế nhưng, sau khi chiếm được bàn đạp Phủ Cũ , Phạm Văn Phú ra lệnh cho Phan Đình Niệm tung toàn bộ lực lượng đánh ồ ạt ra Hoài Nhơn nhằm khai thông đường số 1: Kết quả, chúng đã thực hiện được ý định đó trước khi sư đoàn Sao Vàng kịp tổ chức một trận địa phòng ngự đủ khả năng chặn đứng chúng lại.
Ngày 16 và 17, liên đoàn biệt động số 6 từ phía sau được đưa lên đánh chiếm điểm cao 285, 322, đèo ông Bộ, núi Đá Giang, trung đoàn 40 đánh chiếm Diên Khánh, Văn Công, cầu Vợi, sau đó thọc ra chiếm quận lỵ Bồng Sơn. Vượt qua được sông Bồng Sơn, trận địa ngăn chặn thứ hai bảo vệ Hoài Nhơn của ta, địch tung ba trung đoàn đánh chiếm Núi Kho, Hòn Đền, căn cứ Đệ Đức. Ngày 23 tháng 7, liên đoàn biệt động số 2 đánh chiếm thị trấn Tam quan, hoàn thành khai thông dường số 1 từ Bình Định ra Quảng Ngãi.
Trong những ngày này, các đơn vị của sư đoàn và lực lượng địa phương phòng giữ ở các khu vực trên đã chiến đấu rất kiên cường, dũng cảm trước thế địch đông và bom pháo dày đặc. Một vài đơn vị hết súng đạn buộc phải rút về phía sau.
Tuy địch chỉ chiếm được các vị trí then chốt dọc hai bên đường số 1 còn hầu hết vùng giải phóng vẫn được giữ vững, nhưng cán bộ, chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng cũng như quân dân địa phương đã rút ra cho mình một bài học đau xót về việc tổ chức lực lượng, xây dựng thế trận phòng ngự khi vùng giải phóng đã mở ra, về quan điểm đơn thuần tiến công và thiếu nhạy bén trước những thay đổi về địch. Những kẽ hở đó đã tạo cơ hội cho địch tiến quân nhanh chóng, cướp lại thành quả cách mạng một cách quá dễ dàng.
Thoả mãn với thắng lợi bước đầu, tên chỉ huy sư đoàn 22 ngụy tuyên bố trong vòng hai tuần lễ nữa chúng sẽ dự bữa tiệc lớn ở địa điểm hội quân cuối cùng là quận lỵ Hoài Ân. Và, sẽ hoàn tất kế hoạch tát chiếm bắc Bình Định vào đầu tháng 8. Còn Nguyễn Văn Thiệu đang đi đốc chiến cũng vội đáp máy bay đến Bồng Sơn, ra lệnh " tái chiếm Hoài ân bằng mọi giá ". Nhưng sự hoan hỉ của chúng quá sớm. Sư đoàn Sao Vàng và quân dân bắc Bình Định đã tổ chức lực lượng, dàn lại thế trận, có đủ ý chí và sức mạnh để giáng trả chúng.
Trong một bức điện trả lời sau khi sư đoàn Sao Vàng báo cáo địch đã "líp" đường số 1 ở Bình Định và xin nhận thiếu sót về việc đó, đồng chí Tư lệnh Quân khu 5 đã viết: Nếu nói khuyết điểm thì cái lớn nhất là ta đã để địch tiến quá nhanh và hầu như quá dễ. Còn việc không cho địch thông đường số 1 lúc này là không thực tế. Dù ngay từ đầu, toàn bộ sư đoàn 3 có sẵn thế trận phòng giữ thì việc thông đường của địch vẫn là tất yếu... Tây Nguyên đang bước vào mùa mưa, địch chịu bỏ phản kích ở Tây Nguyên để dồn lực lượng về đồng bằng là nhằm mục đích ấy. Hơn nữa, chính quyền Sài Gòn không chịu để các tỉnh duyên hải miền Trung bị cắt đôi ở Bình Định trong thế quân sự và chính trị hiện nay... Về nhiệm vụ tới bức điện nhấn mạnh: "Nhưng ở Hoài ân thì các đồng chí sẽ giữ được và phải quyết tâm bảo vệ bằng được. Đó là địa bàn rất quan trọng hiện nay và cho tuơng lai của ta nữa".
Lúc bấy giờ, các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng chưa biết hiệp định Pa-ri sẽ được ký kết trong thời gian tới. Ý thức bảo vệ Hoài ân là ý thức chấp hành mệnh lệnh, đồng thời là tình cảm và trách nhiệm đối với vùng giải phóng mà mình đã phải đánh đổi bằng bao xương máu mới giành được.
Sau một số trận tiến công, diệt một số sinh lực địch, thậm chí làm chủ thị trần Bồng Sơn một đôi ngày nhưng lại bị bật ra bởi sự phản kích quyết liệt của địch, bộ tư lệnh sư đoàn thấy với khả năng hiện nay, việc tiến công để thu hồi toàn bộ thắng lợi trong mùa xuân là không còn phù hợp. Trong cuộc họp ngày 30 tháng 7, thường vụ đảng ủy quyết định tập trung lực lượng để bảo vệ Hoài ân. Và, ngày hôm sau, sư đoàn trưởng Huỳnh Hữu Anh ra lệnh cho các đơn vị rút khỏi Hoài Nhơn Phù Mỹ về lập thế trận mới.
Cũng như bảy năm về trước, trong sư đoàn đã từng nổ ra những cuộc tranh luận : Có đánh thắng được Mỹ không, thắng bằng cách nào, thì bây giờ một câu hỏi mới lại được đặt ra : Có giữ vững Hoài ân được không và giữ bằng cách nào?. Hồi ấy, khái niệm phòng ngự là điều tối kỵ trong tư tưởng cán bộ chiến sĩ sư đoàn. Vì thế, chiến thuật phòng ngự không được huấn luyện trong chương trình quân sự. Chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt có dáng dấp phòng ngự trận địa nhưng múc đích của nó là tiêu diệt sinh lực địch chứ không giữ đất. Còn đợt hoạt động cắt giao thông của trung đoàn 12 ở đường số 19 hồi tháng 4 cũng chỉ nhằm cắt đường trong khoảng thời gian nhất định. Bây giờ sư đoàn phải bảo vệ cả một huyện trong điều kiện quân số, vũ khí thiếu thốn thì phải vận dụng phương thức hoạt động nào, đánh bằng chiến thuật nào để có thể hoàn thành nhiệm vụ? Đó là những suy nghĩ, tính toán của bộ tư lệnh sư đoàn.
Cùng với sư đoàn, tỉnh ủy và tỉnh đội Bình Định cũng nhận được chỉ thị của Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu phải bảo vệ bằng được Hoài ân. Trong những ngày nóng bỏng đó, thường vụ tỉnh ủy, ban chỉ huy tỉnh đội Bình Định thường xuyên cùng với bộ tư lệnh sư đoàn thảo luận thống nhất các chủ trương và phương án tác chiến. Một trong những ý kiến có giá trị là phải kết hợp tiến công với nổi dậy trong chiến đấu phòng ngự, do tỉnh ủy Bình Định đề xuất. Bởi vì, nếu kết hợp tốt sức chiến đấu của sư đoàn cùng lực lượng địa phương tại Hoài ân với phong trào tiến công. nổi dậy của các lực lượng địa phương ở khắp tỉnh thì việc bảo vệ Hoài ân sẽ thuận lợi hơn nhiều.
Sau khi thống nhất, phương án cơ bản bảo vệ Hoài ân của sư đoàn và các lực lượng vũ trang địa phương được xác định cụ thể: Sư đoàn Sao Vàng đảm nhiệm lập trận địa phòng ngự đối diện với địch ở những khu vực then chốt. Các lực lượng vũ trang Hoài ân bố trí xen kẽ với trận địa của chủ lực. Các huyện khác lấy bộ đội tỉnh1 (Chú thích 1. Lúc này bộ đội tỉnh Bình Định đã lập thêm d55. d56 hoạt động ở phía bắc, d50. d52 hoạt động ở phía nam. Huyện Hoài Nhơn thành lập tiểu đoàn, các huyện khác có từ 2 đến 3 đại đội tập trung) và một bộ phận của sư đoàn Sao Vàng làm nòng cốt đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, kết hợp với binh vận đánh vào sau lưng địch, chặn cắt giao thông, không để chúng chi viện cho Hoài ân.
Trước mắt, để giúp sư đoàn Sao Vàng nhanh chóng tăng cường lực lượng và lập thế trận, đảng bộ Bình Định đã động viên hàng ngàn thanh niên nam nữ vào bộ đội, huy động mọi tầng lớp nhân dân thay nhau đi dân công hỏa tuyến, đào hầm hào, thiết bị trận địa. Đêm đêm, trên con đường từ An Lão xuống Bình Hòa. Mỹ Thành và những đường ngang dọc xung quanh quận lỵ Hoài ân rầm rập xe cộ chở gỗ, đá, cột nhà, cánh cửa do đồng bào ủng hộ làm trận địa chốt, làm hầm trú ẩn cho nhân dân1 (Chú thích 1. Trong đợt này, nhân dân Bình Định đã tham gia đào 178 ki-lô-mét đường hào, làm 103 ki-lô-mét hàng rào, đào 1.247 công sự chiến đấu. 170 hầm chốt, gài 1.879 quả mìn tự tạo. Động viên 1700 thanh niên gia nhập các đơn vị và cơ quan, thu mua 1200 tấn gạo. .) Bộ binh địch chưa tới, nhưng bom pháo chúng không lúc nào ngớt giội xuống các ngã ba đường, bến sông, các làng mạc. Tuy vậy, chúng vẫn không sao ngăn nổi những dòng người, dòng xe đang đổ về các cụm chốt Hòn - Bồ, Đầu Tượng, Núi Chéo. Hố Da. Núi Bụt... Mọi người đều hiểu rằng: chiến đấu phòng ngự sẽ gian khổ, ác liệt và phức tạp hơn nhiều so với tiến công.
Ngay sau khi đánh thông đường số 1, tên chỉ huy sư đoàn 22 ngụy đưa toàn bộ bảy tiểu đoàn bảo an ra đóng giữ các mục tiêu thay cho quân chủ lực lên phía trước, tạo thế bao vây Hoài ân. Ngày 27 tháng 7, hắn dùng trực thăng đổ một tiểu đoàn biệt động đánh chiếm Hòn Bồ, một điểm cao khống chế nằm sâu trong vùng giải phóng. Nhưng chúng đã bị tiểu đoàn 5 trung đoàn 12 và một bộ phận trung đoàn 2 đánh phủ đầu. Sau một ngày chiến đấu, ta diệt hàng trăm tên, khống chế máy bay, khiến bọn tàn quân phải chạy bộ qua đèo Cây Sung về đường số 1.
Từ ngày 6 đến 10 tháng 8, chúng đánh vào Lại Khánh, Phú Văn (bắc, đông-bắc quận) nhằm hút lực lượng ta ra đó. Khi chiến sự dang diễn ra ác liệt, chúng đổ một tiểu đoàn xuống Hòn Bồ định tạo mũi vu hồi bất ngờ đánh vào quận. Nhưng cả hai hướng, chúng đều bị ta đánh bật ra.
Từ 11 đến 16 tháng 8, cùng một lúc, chúng đánh chiếm các mỏm cao Hố Da, Núi Chéo, Du Tự nhưng bị trung đoàn 12, trung đoàn 21 chặn đánh thiệt hại nặng. Phối hợp với sư đoàn, bộ đội địa phương và du kích Hoài Nhơn đã tiến công mạnh ở Bồng Sơn, Đệ Đức, Tam Quan. khiến địch phải dùng hai liên đoàn biệt động và một trung đoàn bộ binh kéo ra càn quét giải tỏa. Tiểu đoàn 4 trung đoàn 12 cùng tiểu đoàn 55 và lực lượng vũ trang địa phương Phù Mỹ đánh mạnh ở bắc Đèo Nhông, buộc địch phải rút trung đoàn 41 về Trà Quang giữ quận lỵ Phù Mỹ. Thực tế đó khẳng định việc lập thế trận sử dụng chiến thuật và vận dụng phương thức hoạt động của sư đoàn và tỉnh đội Bình Định là chính xác, có hiệu quả. Tuy nhiên, mọi người đều hiểu những trận phản kích vừa qua chỉ là bước đầu, sư đoàn 22 ngụy sẽ không dừng lại ở đó.
Lúc này trên chiến trường miền Nam, các lực lượng vũ trang ta bắt đầu hoạt động mạnh, buộc bộ tổng tham mưu ngụy phải rút liên đoàn biệt động số 6 đang tăng cường cho sư đoàn 22 vào miền Tây Nam Bộ. Mỗi ngày qua đi lúc này là một bất lợi cho kế hoạch của Niệm. Bởi vậy, ngày 21 tháng 8, hắn quyết định tung toàn bộ sư đoàn của hắn, có chiến đoàn 22 làm dự bị. . cùng một lúc đánh trên nhiều hướng nhằm chiếm bằng được quận lỵ Hoài ân.
Phán đoán ý định của địch, bộ tư lệnh sư đoàn SaoVàng đã có phương án tác chiến cụ thể cho lần phản kích này: Sư đoàn sẽ đánh sáu trận liên tiếp bằng các hình thức chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt, phục kích, tập kích và bao vây tiến công liên tục quy mô tiểu đoàn đến trung đoàn thiếu xung quanh quận ly.
Trên hướng phản kích chủ yếu của địch ở phía nam quận lỵ trung đoàn 41, trung đoàn 42 ngụy đã gặp trung đoàn 2 - trung đoàn mạnh của sư đoàn Sao Vàng. Ngày đầu tiên, chúng bị diệt 200 tên ở thung lũng Ân Tường. Những ngày tiếp theo, hơn hai chục trận đánh đã diễn ra liên tiếp trên dẫy núi Đầu Tượng, Hòn Bồ, Đá Giang. Trưa ngày 26, lợi dụng lúc cơn mưa bất ngờ ập xuống, khí núi ngùn ngụt bốc lên, một bộ phận địch lén lút đánh thẳng lên cụm điểm cao Đầu Tượng, nằm sát phía nam quận ly. Nhưng đến đêm, một trận tập kích hợp đồng binh chủng của trung đoàn 2 đã tiêu diệt gọn bọn địch này. Toàn bộ số quân còn lại của địch phải rút chạy về đường số 1.
Ở hướng bắc và đông-bắc quận ly, trung đoàn 12 và trung đoàn 21 cùng các đơn vị hỏa lực, đặc công, bộ đội địa phương cũng chặn đứng cuộc tiến công của hai trung đoàn 47 và 40 ngụy. Bị tổn thất nặng trên tất cả các hướng. Chúng vội vàng lui quân, chuẩn bị cho đợt tiến công kép, đồng thời giải tỏa vùng đông Phù Mỹ khi đó đang bị các lực lượng vũ trang địa phương tiến công và nổi dậy uy hiếp trực tiếp quận ly Phù Mỹ.
Mặc dù quân số có hạn, súng đạn bị hao hụt nhưng trận địa của sư đoàn Sao Vàng vẫn được giữ vững, kinh nghiệm tổ chức phòng ngự được bổ sung. Bộ tư lệnh sư đoàn nhận thấy nếu cứ chờ địch tiến công để đánh trả thì sẽ bị động. Sau khi phân tích tình hình và tính toán lực lượng, sư đoàn quyết định dùng một số đơn vị chuyển sang tiến công vào các căn cứ xuất phát hành quân của sư đoàn 22 ngụy và cắt giao thông phía sau lưng chúng.
Mục tiêu chính của đợt tiến công này là cụm quân của trung đoàn 47 ngụy ở Đèo Phủ Cũ, do tiểu đoàn 40 đặc công sư đoàn đảm nhiệm.
Đêm 2 tháng 9, tiểu đoàn hành quân xuyên rừng, vượt qua khu vực phòng ngự của địch trên đường số 1, vòng ra bờ biển Phú Thứ rồi ngược lên tập kết ngay sát phía đông đèo Phủ Cũ, nơi bọn địch không thể ngờ tới. 3 giờ sáng, các chiến sĩ đặc công lách giữa các chốt ngoại vi, bất ngờ đánh thẳng vào trận địa pháo và cụm quân gần một tiểu đoàn địch. Sau 20 phút chiến đấu, tiểu đoàn đặc công diệt gọn hai đại đội lính cộng hòa, một trận địa pháo sáu khẩu 105 và hai kho đạn.
Bị tiến công bất ngờ và tổn thất nặng ở phía sau, tên Niệm phải bỏ dở cuộc càn ở vùng đông Phù Mỹ để ra giải tỏa Phủ Cũ. Nhưng cánh quân này bị trung đoàn 12, tiểu đoàn 14 công binh và tiểu đoàn 55 của tỉnh chặn đánh tơi tả ở xã Mỹ Lộc. Diệt 400 tên, bắn cháy 10 xe bọc thép, cắt đứt đường số 1. Trước tình thế ấy, Niệm lại phải ra lệnh cho trung đoàn 42 và trung đoàn 47 đang chuẩn bị tiến công Hoài ân quay về giải tỏa bắc Phù Mỹ.
Đợt tiến công thứ nhất, sư đoàn Sao Vàng đã thành công trong việc điều lực lượng địch quay lại phía sau để cải thiện thế trận phòng ngự. Sang đợt hai, phù hợp với chiến trường quân khu trong chiến dịch Thu, sư đoàn được lệnh cùng với các lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt ngụy quân, ngụy quyền, mở rộng vùng giải phóng ở phía nam tỉnh, đánh thẳng vào hậu phương an toàn của chúng. Một bài tính khá phức tạp đặt ra trong bộ tư lệnh, bởi tiến vào phía nam tỉnh, sư đoàn phải rời khu vực phòng ngự của mình hơn 50 ki-lô-mét. Trong khi đó sư đoàn 22 ngụy vẫn còn ngấp nghé trước quận ly Hoài ân. Nếu chúng tiến công Hoài ân, liệu lực lượng còn lại của sư đoàn có giữ được thế trận hay không? Sau khi dự kiến mọi khả năng và tình huống, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định : Sử dụng hai phần ba lực lượng gồm trung đoàn 2 và trung đoàn 21 làm lực lượng tiến công. Trung đoàn 12, một đơn vị có kinh nghiệm chiến dấu phòng ngự cùng với các đơn vị trực thuộc ở lại bảo vệ Hoài ân. Một lần nữa yếu tố bí mật trong chuyển quân lại được đặt ra nghiêm ngặt cho tới khi khu vực phía nam nổ súng.
Cuộc hành quân tiến xuống phía nam của hai trung đoàn 2 và 21 vừa được tiến hành thì ngày hôm sau, địch tổ chức đánh vào Hoài ân. Được quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, các lực lượng bảo vệ Hoài ân đã chiến đấu hết sức quả cảm và mưu trí. Tiểu đoàn 5 đánh lui bảy lần tiến công của hai tiểu đoàn địch có xe bọc thép yểm trợ tại các thôn Năng An, Đại Định. Địch tăng cường thêm hai tiểu đoàn và một chi đội xe bọc thép định chọc thủng trận địa tiểu đoàn 5, nhưng tiểu đoàn 4 đã kịp thời đến chi viện. Cuộc chiến dấu diễn ra suốt tám ngày đêm xung quanh khu vực Năng An, Đại Định, điểm cao 82, 400 tên địch bị diệt. Lúc này chúng mới phát hiện phần lớn lực lượng sư đoàn Sao Vàng đã hành quân vào phía nam. Chúng vội vàng tổ chức năm tiểu đoàn đánh thẳng vào quận lỵ Hoài ân.
Được sự chi viện đắc lực của pháo binh và hợp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn. trung đoàn 12 đã chặn đứng cánh quân này của địch ngay ở phía bắc đồi Du Tự. Ở sườn đông Núi Bụt, khẩu đội cối 60 của Lê Thị Nguyệt, huyện đội Hoài ân đã chi viện thường xuyên cho tiểu đoàn. Không chỉ các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng và bà con Hoài ân biết tiếng "đã bắn là trúng đích" của khẩu đội này mà ngay cả bọn lính ngụy cũng truyền nhau "vào hướng Núi Bụt coi chừng khẩu cối bà Nguyệt đó nghe". Chúng đã dùng nhiều bom pháo nhưng vẫn không sao diệt được khẩu đội cối kiên cường ấy.
Chiến sự diễn ra được hai ngày ở Hoài ân thì Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định ra lệnh nổ súng trong toàn tỉnh. Ở phía nam, trung đoàn 2, 21 và các tiểu đoàn 50, 52 của tỉnh cùng các lực lượng vũ trang huyện, xã tiến đánh hàng loạt chốt điểm địch từ Phù Cát đến An Nhơn, Tuy Phước giáp thị xã Quy Nhơn. Các thị trấn Đập Đá, An Thái được giải phóng. Hàng chục "ấp chiến lược" bị nhân dân nổi dậy phá bung. Đường số 1 đoạn Phù Cát - Quy Nhơn bị uy hiếp nghiêm trọng.
Ở phía bắc tỉnh, các lực lượng địa phương cùng nhân dân tiến công và nổi dậy ở Hoài Thanh, Hoài Hảo, Hoài Châu uy hiếp thị trấn Tam Quan. Tình hình đó đã làm cho tiểu khu Bình Định hốt hoảng yêu cầu sư đoàn 22 đưa quân giải tỏa. Lúc đó cũng là lúc sư đoàn Sao Vàng được lệnh đưa trung đoàn 2 và trung đoàn 21 về lại Hoài ân để trung đoàn 12 tiến vào nam đường số 19 nhận nhiệm vụ mới.
Qua hai đợt chủ động tiến công vào sau lưng địch, sư đoàn Sao Vàng đã rút được những kinh nghiệm trong chiến đấu phòng ngự bảo vệ vùng giải phóng. Muốn phòng ngự tốt, không chỉ tổ chức lực lượng hợp lý, bố trí trận địa hiểm hóc vững chắc mà còn phải nắm thời cơ, chủ động tiến công, đánh những đòn hiểm vào sau lưng địch. Đương nhiên sử dụng lực lượng tiến công, thời gian tiến công và độ sâu của các trận tiến công phải được tính toán kỹ tùy vào tương quan lực lượng địch ta ở khu vực tác chiến. Thực tế cho thấy, tiến công vào hậu phương trực tiếp bao giờ cũng có hiệu quả lớn hơn, nhanh hơn so với tiến công vào hậu phương sâu của chúng.
Sau gần năm năm đấu tranh kiên trì và quyết liệt, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính tri và ngoại giao, cuối tháng 9 năm 1972 , hội nghị bốn bên họp ở Pa-ri về Việt Nam đang đi vào giai đoạn cuối, thông qua các văn kiện chính thức để ngày 26 tháng 10 tiến hành ký kết. Nhưng đế quốc Mỹ đã lật lọng, vì ở miền Nam, quân ngụy vẫn chưa thực hiện được kế hoạch tái chiếm và cục diện chiến trường vẫn đang trong tình trạng hết sức bất lợi đối với chúng.
Trước khi Hiệp định được ký kết, bọn giặc điên cuồng dồn mọi sức lực cho chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ" ở khắp bốn quân khu, hy vọng có thể xóa sạch thế "da báo" ở đồng bằng, chiếm giữ được các vị trí then chốt trước giờ ngừng bắn có hiệu lực. Nguyễn Văn Thiệu đã nói với các chỉ huy quân khu của chúng: "Để đạt tới hòa hình, chúng ta phải diệt hết Cộng sản đến tên cuối cùng". Những trận đánh đã diễn ra khốc liệt ở Thành Cổ Quảng Trị, Ở Quế Sơn, Cấm Dơi, ở đường số 13 và ở ngoại vi các thành phố thị xã lớn. Cũng như mọi nơi khác, Hoài ân là một trong những mục tiêu then chốt phải đánh chiếm của quân ngụy trên chiến trường Trung Trung Bộ.
Sư đoàn Sao Vàng sau ba tháng chiến đấu liên tục, đánh bại năm lần phản kích của gần hai sư đoàn địch, giờ đây đang đứng trước một thử thách mới. Các kho súng, đạn chiến lợi phẩm đã cạn. Riêng số đạn pháo 105 thì đặc biệt hiếm, quí. Các pháo thủ đã phải thu vén tất cả thuốc đạn rời, dùng vỏ đồ hộp đong lường làm liều mới, lập bảng bắn mới nhưng độ chính xác không cao. Chính vì thiếu đạn trầm trọng như vậy nên một vài trận, bộ đội đành phải rút lui. Chưa bao giờ như lúc này, muốn bắn một quả đạn cối 82 cũng phải thông qua trung đoàn trưởng.
Súng đạn đã thiếu, quân số còn thiếu nghiêm trọng hơn. Đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày một hao hụt. Mặc dù đã được tỉnh ủy Bình Định rút du kích và bộ đội huyện bổ sung cho sư đoàn, tuyển thêm các nữ thanh niên vào phục vụ các cơ quan, đơn vị phía sau để đưa chiến sĩ nam về đơn vị chiến đấu, nhưng quân số của mỗi đại đội bộ binh vẫn không vượt quá hai chục. Có đại đội cả chỉ huy, nuôi quân, y tá chỉ vẻn vẹn 12 đồng chí, vừa đủ hai mâm cơm.
Trong khi ấy, sư đoàn 22 ngụy, sau năm lần thất bại vẫn không ngừng mở những đợt phản kích lớn vào trận địa của sư đoàn. Ngày 6 tháng 10, chúng tiến đánh Hoài ân trên một quy mô lớn hơn. Cánh thứ nhất (ba tiểu đoàn) đánh cắt đường số 5 từ Bình Hòa đến Thành Giá, con đường tiếp tế lớn nhất của Khu 5 cho chiến trường Bình Định. Cánh thứ hai (ba tiểu đoàn và một chi đoàn xe bọc thép) đánh từ phía bắc xuống bằng thủ đoạn gặm dần, lấn dần từng khu vực. Cánh quân này đánh dai dẳng liên tục suốt 10 ngày liền nhằm thu hút toàn bộ lực lượng ta về phía đó. Cho tới ngày 16 tháng 10 , đang đêm, chúng lặng lẽ dùng trực thăng đổ ba tiểu đoàn xuống điểm cao 321 , núi Đất Sét và Hòn Nác ở phía tây quận ly Hoài ân. Từ các điểm cao này, chúng bí mật xuyên rừng, lách qua khu vực phòng ngự của sư đoàn và bộ đội địa phương, bất ngờ đánh chiếm đồi 75, áp sát Du TỰ và Núi Bụt. Các điểm cao gần nhất trực tiếp khống chế quận lỵ cũng bị địch đánh chiếm. Quận lỵ Hoài ân bị vây từ ba mặt và trong tầm đạn bắn thẳng của chúng.
Tình hình trở nên căng thẳng. Nhưng với phương án sẵn có, sư đoàn nhanh chóng tổ chức lực lượng bao vây quân địch. Tối ngày 21, không chịu nổi những viên đạn bắn ra và linh cảm thấy một trận đánh tiêu diệt sắp chụp xuồng đầu chúng, bọn chỉ huy các như bất chấp mệnh lệnh cấp trên, dẫn đơn vị của chúng men theo sườn núi Lại Khánh rút về đường số 1 , kết thúc đợt phản kích thứ sáu.
Sau đợt phản kích của địch, những bài học sâu sắc về ý thức cảnh giác. về đánh giá địch, về bố trí trận địa... .được rút kinh nghiệm trong toàn sư đoàn. Mọi người đều thấy rõ Hoài ân đang là mục tiêu sinh tử của địch. Muốn bảo vệ Hoài ân vững chắc, một mặt phải củng cố thế trận ở phía sau, đồng thời phải cắm thêm một số chốt từ xa, uy hiếp trực tiếp hậu phương của chúng.
Thực hiện phương án đó, đêm 1 tháng 11, lợi dụng trời tối, các chiến sĩ đại đội 4 tiểu đoàn 40 đặc công lặng lẽ vượt sông An Lão đánh chiếm điểm cao 174 ở phía bắc quận lỵ Hoài ân, tiêu diệt gọn một đại đội cộng hòa, giao lại trận địa cho tiểu đoàn 3 chốt giữ.
Mất điểm cao 174, sư đoàn 22 ngụy lập tức tung toàn bộ trung đoàn 47 vào chiếm lại. Suốt năm ngày đêm, điểm cao 174 không lúc nào ngớt tiếng bom đạn. Cuộc chiến trở nên khốc liệt. Các chiến sĩ tiểu đoàn 3 mỗi ngày phải đánh trung bình bảy đợt tiến công của địch. Đêm nào các chiến sĩ cũng sửa sang hầm hào, chôn lấp những xác chết địch bỏ lại, để rồi ban ngày chính bom pếao của chúng lại quật những xác chết ấy lên.
Hôm ấy, sau bảy lần xung phong không chiếm được chốt, chúng ném bom dữ dội xuống trận địa 174. Khẩu đội đại liên do phó đại đội trưởng Nguyễn Minh Thóc chỉ huy nổ súng quyết liệt, bắn rơi một máy bay phản lực nhưng sau đó, một quả bom dù đã rơi trúng trận địa. Cả khẩu đội anh dũng hy sinh. Trận địa chỉ còn lại chính trị viên Lê Đức Vầy với bốn loại súng trong tay và bốn chiến sĩ. Trước mắt họ là một tiểu đoàn ngụy đang ào ạt xông lên. Giữa lúc Vầy và các chiến sĩ đánh trả địch quyết liệt thì lực lượng cơ động do phó tiểu đoàn trưởng Mùng Viết Hòa và chính trị viên Nguyễn Văn Nhi chỉ huy từ đồi Cây Xanh đánh tạt sang chi viện. Sự xuất hiện đúng lúc của bộ phận cơ động làm cho đội hình địch bị ép từ trên xuống, từ dưới lên, khiến chúng không thể chạy thoát khỏi làn đạn bắn thẳng trên sườn đồi trọc. Bọn địch phía sau buộc phải lùi xuống, cuốn đội hình ra xa.
Không chiếm được điểm cao 174, ngày hôm sau, bọn chỉ huy sư đoàn 22 ngụy đành cho trung đoàn 47 khi đó đã bị thiệt hại nặng hai tiểu đoàn, âm thầm rút lui.
Bảy ngày đêm bảo vệ điểm cao 174, các chiến sĩ tiểu đoàn 3 không những thể hiện tinh thần chấp hành mệnh lệnh triệt để mà còn tỏ rõ tinh thần dũng câm vô song của người chiến sĩ cách mạng. Mỗi lần lên chốt, các chiến sĩ lại hiểu rằng mình có thể hy sinh nhưng không một ai thoái thác nhiệm vụ. Bảy ngày đêm chốt giữ điểm cao 174 của tiểu đoàn 3 mãi mãi là một bài ca hùng tráng trong nhiệm vụ bảo vệ vùng giải phóng Hoài ân của sư đoàn Sao Vàng.
Địch rút chạy khỏi khu vực 174, nhưng ở các hướng khác, chúng vẫn gây cho sư đoàn nhiều khó khăn mới. Ngày 15 tháng 11 , sư đoàn mất chốt Du Tự. Các khu vực Núi Bụt, Thanh Tú cũng đang bị uy hiếp. Một lần nữa. sư đoàn 22 ngụy lại tiến sát tới quận ly.
Ngay buổi tối hôm ấy, tiểu đoàn đặc công sư đoàn như một mũi dao nhọn, không cho địch kịp nghỉ ngơi đã tiếp cận bất ngờ tiêu diệt gọn đại đội cộng hòa đóng giữ điểm cao này, khôi phục trận địa, giao lại cho đại đội 1 tiểu đoàn 2 chốt giữ. Lúc này, để tạo điều kiện cho các đơn vị bộ binh có thời gian củng cố, xốc lại đội hình, chuẩn bị cho những trận tập kích hợp đồng binh chủng sắp tới, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định dùng tiểu đoàn đặc công làm nhiệm vụ tập kích liên tục các chốt vừa mất để ghìm chân địch lại Đây là một khó khăn lớn đối với các chiến sĩ đặc công, vì đánh như vậy thời gian chuẩn bị ngắn, có khi vừa chuẩn bị vừa đánh trong một đêm, yếu tố bất ngờ rất hạn chế. Nhưng hiểu được tình hình và nhiệm vụ bảo vệ Hoài ân, các chiến sĩ đặc công đã chiến đấu xứng đáng với danh hiệu "đặc biệt tinh nhuệ" của mình. Màu ngụy trang luôn phải thay đổi trên da thịt sau mỗi trận chiến đấu.
Càng gian khổ, ác liệt, tình cảm giữa cán bộ và chiến sĩ, sự gắn bó giữa đơn vị này và đơn vị khác, giữa phía trước, phía sau càng bền chặt. Trong những ngày này, không đêm nào cán bộ sư đoàn, trung đoàn và các cơ quan không xuống với chiến sĩ bàn bạc cách đánh, cõng đạn, vác gỗ, đào hầm, khiêng thương... Đội phẫu trung đoàn 2, với hai quân y sĩ và một số y tá, hộ lý có ngày tiếp nhận 88 ca thương. Bác sĩ chủ nhiệm quân y Nguyễn Linh, y sĩ đội trưởng Phạm Khuynh đứng bên bàn mổ suốt 24 tiếng đồng hồ trong ngày, hai chân sưng phù. Có tuần lễ. các đồng chí phải thức trắng để xử lý nhiều ca thương vượt xa giới hạn của một trạm phẫu tiền phương, giành lại sự sống cho từng chiến sĩ. Các phân đội vận tải cũng quyết tâm làm việc bằng hai, bằng ba để bớt người bổ sung cho đơn vị chiến đấu. Các chiến sĩ hậu cần không bao giờ kêu ca phàn nàn điều gì. Khẩu hiệu của họ là "hướng ra phía trước, tất cả vì thắng lợi của phía trước". Những phẩm chất cao đẹp đó đã tăng thêm sức mạnh và niềm tin của sư đoàn trong những ngày thử thách tới.
*
* *
Không giành được thế mạnh trong cuộc đàm phán ở Pa-ri. Ních-xơn đi đến một quyết định liều lĩnh: Mở cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 vào thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Bằng biện pháp đó đế quốc Mỹ hy vọng có thể buộc phía ta phải ký kết Hiệp định Pa-ri có lợi cho chúng.
Bắt đầu từ ngày 17 tháng 12 năm 1972, song song với việc dùng B.52 đánh phá dã man miền Bắc, những cuộc phản kích chiếm lại vùng giải phóng trên toàn miền Nam cũng được Mỹ ngụy đẩy đến nấc thang cuối cùng.
Ở khu vực Hoài ân, từ sau những ngày giành giật quyết liệt với địch ở đồi 174, Du Tự, sư đoàn trải qua những khó khăn, tổn thất lớn, lực lượng cơ động bị giảm, nhiều đơn vị phải chiến đấu trong trạng thái chốt giữ đơn thuần. Trong khi đó, quân ngụy càng tập trung lực lượng tiến công áp sát vào quận ly.
Ngày 20 tháng 12, hai tiểu đoàn địch đánh vào mỏm 1 Đầu Tượng, dãy núi bao bọc phía nam quận ly Hoài ân. 12 chiến sĩ đại đội 2 tiểu đoàn 3 và một khẩu đội 12,8 đã chiến đấu suốt ngày với bộ binh và máy bay địch. Hết đạn, các chiến sĩ đánh bằng lưỡi lê, báng súng và đã anh dũng hy sinh. Mỏm 1 Đầu Tượng rơi vào tay địch. Sau đó chúng chiếm các mỏm 2, 3, 4 của dãy Đầu Tượng. Ngày 7 tháng 1, địch chiếm chốt Núi Bụt, một vị trí then chốt, ở phía bắc quận ly một ki-lô-mét.
Như vậy, ba cái chân kiềng Du Tự, Núi Bụt, Đầu Tượng bao quanh quận ly Hoài ân đã mất. Số phận Hoài ân không chỉ tính bằng tuần mà đang phải tính từng ngày, từng giờ.
Thường vụ đảng ủy và bộ tư lệnh sư đoàn Sao Vàng họp suốt đêm 7 tháng 1 thảo luận chủ trương và lập phương án tác chiến giữ quận ly Hoài ân. Vấn đề căng thẳng là nên lập trận địa phòng ngự mới hay tổ chức tiến công. Mọi người hiểu rằng Hoài ân là địa bàn duy nhất ta còn giữ được trong các huyện đồng bằng miền Trung. Không chỉ quân dân Bình Định mà cả Khu 5 đang tự hào về địa bàn này. Sau khi phân tích, tính toán khả năng của đơn vị, thường vụ đảng ủy chủ trương tập trung lực lượng chốt chặt ngay tại quận lỵ, cản phá các hướng tiến quân quan trọng của địch. Đồng thời dồn hết binh hỏa lực cho các tiểu đoàn, đại đội tiến hành tập kích, tiến công quân địch ngay từ nơi xuất phát của chúng. Một phương án tác chiến cụ thể được thông qua.
Bộ tư lệnh sư đoàn và cán bộ chỉ huy trung đoàn 2 tập trung mọi ưu tiên cho trận đánh chủ yếu ở mỏm 4 đãy Đầu Tượng của tiểu đoàn 2. Tiểu đoàn dồn quân số cho hai đại đội. Đại đội 1 đảm nhiệm hướng chủ yếu, đại đội 2 hướng thứ yếu.
Giữa lúc cán bộ chỉ huy trung đoàn còn đang cân nhắc lựa chọn cán bộ đại đội chỉ huy hướng chủ yếu thì Đỗ Văn Đạo xuất hiện với một khẩu AK quàng chéo sau lưng. Nguyện vọng của Đạo là được tham gia trận đánh sắp tới của tiểu đoàn. Sau những trận đánh diệt ác, phá kèm nổi tiếng vào cuối năm 1970. Đõ Văn Đạo được gửi đi học ở trường quân chính quân khu. Khi Đạo trở về, thấy Đạo là một cán bộ vừa có năng lực vừa có đạo đức, thường vụ đảng ủy trung đoàn 2 quyết định giữ Đạo ở lại cơ quan để đi học tiếp: Lúc đó, Đạo đang điều trị sốt rét ở bệnh xá của trung đoàn. Vì thế, việc Đạo đến thẳng trung đoàn xin được đi chiến đấu khiến mọi người ngạc nhiên. Sau khi cân nhắc, nguyện vọng của Đạo được chấp nhận. Tối hôm ấy, Đạo về làm đại đội trưởng đại đội 1 đơn vị cũ của anh. Và ngày hôm sau (8-11 ) , anh đã đưa đơn vị hành quân chiếm lĩnh.
Nằm ở phía nam quận lỵ Hoài ân, dãy Đầu Tượng gồm bốn mỏm kéo dài hơn một ki-lô-mét, mỏm 4 đổ xuống sát quận. Nửa đêm ngày 8, tên tư lệnh sư đoàn 22 ngụy điện cho các trung đoàn của hắn ở Đầu Tượn,. Du Tự và Núi Bụt biết trưa ngày 9 tháng 1, hắn sẽ có mặt tại trung tâm quận lỵ và sẽ khen thưởng hậu hĩ cho đơn vị nào tới quận lỵ trước tiên.
5 giờ sáng. Giữa lúc bọn địch đang chuẩn bị tràn xuống quận lỵ thì một trận tập kích bất ngờ của các chiến sĩ Sao Vàng đã nổ ra ở mỏm 4 Đầu Tượng. Bọn địch đã chậm hơn các chiến sĩ Sao Vàng. Sau một loạt đạn cối, DKZ và súng 12,8 từ trên cao dội xuống mỏm 4, tiểu đoàn 2 chia thành bốn mũi đánh thốc lên, ở hướng tiến công chủ yếu, địch chưa hết bàng hoàng vì trận pháo kích, các chiến sĩ đại đội 1 đã bật dậy xung phong như gió lốc.
"Tạt nhanh sang phía trái". Đại đội trưởng Đỗ Văn Đạo cầm khẩu M.79 vừa chạy vừa khoát tay về phía sở chỉ huy tiểu đoàn địch. Cùng với Đạo, phó đại đội trưởng cũng dẫn mũi thứ hai đánh tràn lên, dồn địch ra một bãi trống. Tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng Lê Hồng Bá và bốn sĩ quan trong sở chỉ huy của nó bị bắn chết, hàng chục tên lính và sĩ quan khác bị bắt sống.
Chưa đầy 30 phút, sở chỉ huy sư đoàn, trung đoàn đã nhận được điện của Đỗ văn Đạo: " Báo cáo. đại đội 1 đã hoàn thành nhiệm vụ, xin phép chi viện cho đại đội 2". Bức điện đã làm cho không khí sở chỉ huy vui hẳn.
Lúc đó, ở hướng thứ yếu, đại đội 2 không phát triển được vì địch chống cự quyết liệt. Nhận được lệnh của trung đoàn trưởng, Đạo chia đại đội thành hai mũi, lợi dụng thế cao đánh thốc xuống chi viện cho đại đội bạn... Đang chạy, bỗng Đạo đứng sững lại một lát rồi lảo đảo ngã vật xuống. Một dòng máu từ lồng ngực Đạo chảy ra ướt loang cả mặt đất. Tiếng súng phản kích của địch ở phía đại đội 2 vẫn nổ dồn dập. Đạo chống tay, từ từ ngồi dậy, bàn tay run run cài lại khuy áo trên ngực:
- Anh Thảo chỉ huy thay tôi. Phải kịp thời chi viện ngay cho bạn. Đi ngay đi! Nghỉ một lát đỡ mệt tôi sẽ đi sau. Đừng lo gì cho tôi cả!
Những tiếng cuối cùng Đạo nói qua hơi thở rất mỏng. Khuôn mặt của anh trở nên tái nhợt.
Nửa giờ sau, khi chi viện cho đại đội 2 giải quyết xong trận địa, các chiến sĩ quay trở lại thì Đỗ văn Đạo đã hy sinh.
6 giờ sáng ngày 9, sở chỉ huy sư đoàn nhận được đầy đủ báo cáo về diễn biến và kết quả của trận đánh mỏm 4 Đầu Tượng. Tại mỏm đồi này. hơn 200 tên địch bị tiêu diệt và bắt sống, trong đó có một ban chỉ huy tiểu đoàn. Tiểu đoàn đặc công 40 cũng diệt gọn một đại đội lính biệt động trên núi Du Tự, phá hủy toàn bộ công sự địch.
Ngày hôm ấy, những trận đánh dai dẳng vẫn diễn ra ở làng Du Tự. Suốt trong 15 tiếng đồng hồ. 12 chiến sĩ đại đội 1 tiểu đoàn 3 kể cả nuôi quân, y tá, liên lạc đã chiến đấu anh dũng tới người cuối cùng chặn đứng một tiểu đoàn địch ở phía đông-bắc quận lỵ.
Đợt tiến công của các chiến sĩ Sao Vàng chỉ diễn ra trong vòng một ngày, nhưng đã phá vỡ hoàn toàn kế hoạch hội quân tại quận lỵ của địch. Nhưng một tổn thất không tránh khỏi đã đến với sư đoàn : Đỗ Văn Đạo và hàng trăm chiến sĩ thương vong. Sau ngày hy sinh không lâu Đỗ Văn Đạo được Quốc hội và Chính phủ tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
*
* *
Ngày 23 tháng 1 năm 1973, bộ tư lệnh sư đoàn nhận được một bức điện của quân khu, đại ý: Hiệp định Pa-ri về Việt Nam sẽ được ký kết vào một ngày sắp đến. Để giành thắng lợi cho cách mạng miền Nam nói chung và cho chiến trường quân khu nói riêng, Bộ tư lệnh Quân khu ra lệnh cho sư đoàn 3 và Mặt trận Bình Định tập trung mọi lực lượng giải phóng bằng được các khu vực: cửa biển Tam Quan, Đề Gi, các đoạn đường số 1 ở nam và bắc Bồng Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát... Bức điện nhấn mạnh: Đây là một nhiệm vụ lịch sử trong một thời điểm lịch sử. Bất kể trong tình huống nào, sư đoàn cũng phải hoàn thành nhiệm vụ.
Bí thư đảng ủy sư đoàn triệu tập hội nghị thường vụ đảng ủy ngay trong đêm. Chưa ai hiểu hết, lường hết những diễn biến cụ thể sau thời điểm lịch sử đó ra sao, nhưng lúc này, mọi người đều hiểu rằng giành thêm được một người dân, một thước đất là cứu thêm một con người, một mảnh đất khỏi sự nô dịch của chủ nghĩa thực dân mới.
Vấn đề được bàn bạc nhiều là sử dựng lực lượng. Địch đã bị chặn đứng ở Đầu Tượng, Du Tự, Núi Bụt nhưng chúng chỉ cách quận lỵ Hoài ân chưa đầy một ki-lô-mét, chưa thể khẳng định chúng sẽ không tiếp tục lấn thêm trong thời điểm lịch sử sắp đến. Vì thế trong tình trạng quân số, vũ khí có hạn, sư đoàn phải sử dụng bao nhiêu lực lượng vào nhiệm vụ tiến công, bao nhiêu lực lượng phòng giữ là việc phải tính toán, cân nhắc hết sức kỹ lưỡng.
Sau một đêm làm việc căng thẳng, cuối cùng thường vụ đi đến quyết định: Dùng lực lương ít nhưng tinh nhuệ để phòng giữ, còn toàn bộ lực lượng sẽ dồn cho tiến công. Yếu tố bí mật, bất ngờ trong việc điều động các đơn vị được coi như một bộ phận cấu thành sức mạnh của sư đoàn và được đặt ra gắt gao. Việc giáo dục nhận thức, động viên nỗ lực cao độ để hoàn thành nhiệm vụ cũng như việc đề phòng tư tưởng do dự trước ngày thắng lợi phải được quán triệt tới từng cán bộ chiến sĩ.
Theo phương án tác chiến, trung đoàn 2 (thiếu 1 tiểu đoàn) đảm nhiệm việc phòng giữ Hoài ân. Trung đoàn 21, trung đoàn 12, các tiểu đoàn trực thuộc thực hành tiến công vào bốn khu vực ở bắc Bình Định và đường số 19. cùng với các lực lượng địa phương tạo thế cài cắt về chiến địch.
Những ngày cuối cùng của tháng 1 vừa ngắn lại vừa dài. Dài bởi khát vọng sớm chấm dứt chiến tranh, ngắn bởi ham muốn có thời gian chuẩn bị thêm để giành thắng lợi lớn. Ngày 24, các đoàn cán bộ gấp rút lên đường. Công tác đảng, công tác chính trị được tiến hành song song với tổ chức chiến đấu.
Đêm ngày 27, trời lất phất mưa bụi. Các chiến sĩ trên các hướng khoác súng đạn và mang thêm cả những bó cờ Mặt trận hăm hở vào chiếm lĩnh trận địa. Biết chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa là sẽ có hòa bình, có thể sẽ tạm thời chấm dứt đổ máu nhưng không ai do dự, hoặc tỏ ra mệt mỏi.
Với tinh thần đó, cán bộ và chiến sĩ sư đoàn đã thực hiện chiến dịch X10 (mật danh của đợt tiến công trước ngày Hiệp định Pa-ri được ký kết vượt qua dự tính ban đầu. Quận lỵ Hoài ân vẫn được giữ vững. Các mũi tiến công ở nam và bắc tỉnh phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương và đồng bào làm chủ nhiều vị trí, giải phóng thêm nhiều vùng đất đai rộng lớn. Trung đoàn 21, tiểu đoàn 1 (trung đoàn 2) các tiểu đoàn đặc công, công binh, trinh sát, cao xạ, pháo mặt đất... đã đánh chiếm một tuyến dài bảy ki-lô-mét trên đường số 1 từ bắc đèo Phủ Cũ đến nam Bồng Sơn, đường liên huyện từ cầu Giáo Ba đến Lại Khánh. Trung đoàn 12 đánh chiếm đèo Bình Đê và cửa biển Trường Xuân. Một bộ phận của trung đoàn 2 cùng với bộ đội huyện Hoài Nhơn đánh chiếm ga Bồng Sơn, trụ sở xã Hoài Tân. Tiểu đoàn 5 (trung đoàn 12) tác chiến độc lập ở phía nam đường số 19
Đất trời Bình Định mới hôm qua còn căng thẳng đến ngột ngạt bởi những cuộc tiến công man rợ của bom đạn Mỹ và quân ngụy, hôm nay đột ngột mở bung trước mắt mọi người mênh mông một biển cờ Mặt trận, biến các vùng địch còn kiểm soát chơ vơ như những hòn đảo. Nhiều cuộc hành quân, vận chuyển của chúng bị mắc kẹt giữa vùng giải phóng. Một vài xe quân sự cố vượt qua đoạn đường ta kiểm soát liền bị các chiến sĩ giữ lại tịch thu.
Ở khu vực Hoài ân, ngày 28 tháng 1, một đại đội cộng hòa trên đường từ Du Tự rút về Bồng Sơn thay quân đã bị ba chiến sĩ ta chặn lại và bắt sống toàn bộ tại cầu Giáo Ba. Ở các khu vực khác, các chiến sĩ chủ lực và dân quân du kích cũng không để cho địch lấn thêm một bước. Nhưng cũng trong ngày đầu tiên thi hành.hiệp định ấy, các chiến sĩ Sao Vàng đã hiểu ngay rằng: Khó có thể có ngừng bắn thực sự, khi quân nguỵ còn đầy dẫy ra đó. Khó có thể buộc chúng nằm im trước những thua thiệt đến cay cú bởi đòn tiến công bất ngờ của ta trước giờ ngừng bắn.
Một cuộc chuẩn bị ráo riết, căng thẳng để trừng trị bọn lấn chiếm vi phạm hiệp định lại bắt đầu.
Kết thúc 220 ngày đêm phòng gĩư gian khổ, ác liệt, sư đoàn Sao Vàng đã cùng quân dân Bình Định đánh bại chín lần phản kích của địch với lực lượng tương đương hai sư đoàn bộ binh cùng năm chi đoàn xe bọc thép và khối lượng hỏa lực chi viện rất lớn của pháo binh và không quân Mỹ.
Trong 220 ngày đêm ấy. sư đoàn Sao Vàng đã chiến đấu gần hai nghìn trận lớn nhỏ, tiêu diệt và bắt sống gần bảy nghìn tên địch, bắn rơi 62 máy bay, phá hủy 34 xe quân sự, trong đó có 79 xe bọc thép.
Tên Phan Đình Niệm, tư lệnh sư đoàn 22 ngụy trong báo cáo với cấp trên của hắn đã không hiểu vì sao giữa những khó khăn chồng chất và bom pháo ác liệt như vậy, các đơn vị thuộc sư đoàn Sao Vàng có thể trụ bám đánh sư đoàn hắn trung bình mỗi ngày chín trận trong quãng thời gian 220 ngày đêm ấy.
Đối với cán bộ chiến sĩ Sao Vàng, bảy tháng đánh địch phản kích bảo vệ thắng lợi vùng giải phóng Hoài ân sẽ không bao giở phai mờ trong ký ức họ. Đó là thắng lợi về ý thức chấp hành triệt để mệnh lệnh của cấp trên, là sự nhất trí cao đối với nhiệm vụ, là tình cảm của mỗi người trước thành quả cách mạng đã phải đánh đổi bằng xương máu của chiến sĩ và đồng bào. Những ngày bảo vệ Hoài ân, ý chí chiến đấu của mỗi chiến sĩ thể hiện sự quán triệt sâu sắc chân lý " Không có gì quý hơn độc lập tự do " của Bác Hồ kính yêu. Suốt từ đầu đến cuối, từ bộ đội đến nhân dân không một ai bàn lùi Có lực lượng bao nhiêu đánh bấy nhiêu. Không tổn thất, hy sinh nào lay chuyển được ý chí đó. Có thể nói, trong từng thước đất trên các trận địa bảo vệ Hoài ân đểu có một phần máu thịt của cán bộ, chiến sĩ sư đoàn. Họ gian nan với mảnh đất ấy và cũng tự hào với mảnh đất ấy.
Từ ý chí, tình cảm đó. Ở Hoài ân, sư đoàn đã dần dần tìm được cách đánh có hiệu quả cao. Bảy tháng giữ vùng giải phóng Hoài ân, tuy chưa thật bài bản và đầy đủ nhưng có thể nói đó là một đợt chiến đấu phòng ngự trận địa có chiều rộng, chiều sâu, có thế trận hiểm hóc, kết hợp chặt chẽ giữa. phòng ngự và tiến công. Đặc biệt đã kết hợp tốt giữa tiến công và nổi dậy trong chiến đấu phòng ngự. Sư đoàn sẽ còn gặp khó khăn hơn nếu không có những đợt tiến công và nổi dậy của quân dân địa phương đánh vào sau lưng địch trong các lần phản kích thứ hai, thứ ba, thứ năm, thứ sáu, thứ chín của địch. Sự thống nhất trong lãnh đạo và chỉ huy giữa sư đoàn với tỉnh ủy, tỉnh đội Bình Định đã phát động được phong trào toàn dân bảo vệ vùng giải phóng. Nó không những tạo được nguồn nhân, vật lực đồi dào cho sư đoàn mà điều có ý nghĩa sâu sắc là tinh thần trụ bám của nhân dân đã có tác động lớn đến tư tưởng và tình cảm đốivới chiến sĩ. Nhân dân Hoài ân trong những ngày gian khổ, ác liệt đó không ai muốn rời xa quê hương mình. Điều ấy làm cho mọi người thấy rất cụ thể họ đang chiến đấu và hy sinh vì mục đích gì. Thành công này phải nói đến sự lãnh đạo, giáo dục của đảng bộ và chính quyền các cấp tỉnh Bình Định.
Vùng giải phóng Hoài ân căn bản được giữ vững, nhưng lẽ ra thành quả còn có thể lớn hơn nếu như ngay sau chiến thắng Xuân - Hè 1972, ta nhậy bén và đánh giá địch một cách dùng đắn, khách quan hơn, để tập trung lực lượng, lập thế trận chiến đấu phòng ngự vững chắc ngay từ đầu. Chính vì kẽ hở đó mà chỉ trong 23 ngày phản kích, địch đã "líp" được con đường số 1 dài 50 ki-lô-mét. Lại cũng do đánh giá địch chưa đúng nên trong lần phản kích thứ sáu, một tiểu đoàn địch đã hành quân an toàn ngay giữa hậu phương sư đoàn và quận lỵ Hoài ân suýt bị địch chiếm lại. Do vậy, đối với kẻ thù, ta không sợ, không đề cao chúng, nhưng tuyệt đối không được xem thường hoặc hạ thấp chúng. Đó là một kết luận đã được lịch sử nói nhiều, còn với sư đoàn Sao Vàng, điều đó vừa qua là một bài học hết sức thiết thực.
Trong điều kiện địch, ta lúc đó, việc bảo vệ được vùng giải phóng Hoài ân là một thắng lợi lớn cả về các mặt quân sự, chính trị và kinh tế. Địch cay cú vì không chiếm lại được Hoài ân. Và, quân dân ta có thể tự hào về điều đó
Sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973 đứng trên các điểm cao Lại Khánh, Đầu Tượng, Hòn -Bồ, phóng tầm mất ra xa, các chiến sĩ không khỏi bồi hồi xúc động khi nhìn những biển cờ đang mở ra trước mắt mình. Hoài ân, một căn cứ đầu cầu của chiến trường Khu 5, nơi chôn nhau cắt rốn của sư đoàn Sao vàng, nơi hàng ngàn chiến sĩ đã hy sinh trong bảy năm chiến đấu gian khổ đang hồi sinh, đang bước sang một thời kỳ không thể nào quên của cách mạng miền Nam - thời kỳ sau Hiệp định Pa-ri, cái bản lề cực kỳ quan trọng để bước sang năm 1975, năm đất nước toàn thắng.
2. KHI KẺ THÙ CÒN ĐÓ
Hiệp định Pa-ri được ký kết đánh đấu một bước ngoặt quan trọng trong so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường miền Nam. Ngày 15 tháng 3 năm 1973, quân đội Mỹ âm thầm làm lễ hạ cờ trên sân bay Tân Sơn Nhất, chấm dứt vĩnh viễn sự có mặt của chúng trên chiến trường miền Nam. Những tên tù binh giặc lái lần lượt được trao trả tại sân bay Gia Lâm, nơi mà chính đồng bọn chúng đã tàn phá trong 12 ngày đêm khốc liệt ở Hà Nội.
Quân Mỹ rút đi nhưng cố vấn Mỹ, chính sách và viện trợ Mỹ vẫn tiếp tục duy trì. Chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ vẫn tồn tại ở miền Nam và chiến lược "Việt Nam hóa" chiến tranh được đẩy lên nấc thang sau chót với công thức: viện trợ và cố vấn Mỹ + quân đội ngụy.
Để chuẩn bị cho âm mưu này, ngay từ năm 1972, Mỹ đã dự tính sau Hiệp định Pa-ri, quân đội Sài Gòn phải có, 11 sư đoàn bộ binh, một sư đoàn dù, bảy liên đoàn biệt động, 00 thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép, 33 tiểu đoàn biệt động biên phòng, 41 tiểu đoàn pháo 105, 15 tiểu đoàn 155... Đến tháng 10 năm 1972, Mỹ lại chi thêm tiền cho một kế hoạch mới để hiện đại hóa quân ngụy. Trong kế hoạch này, mỗi quân khu của ngụy có thêm ba phi đoàn A.37, hai phi đoàn F.5A, ba phi đoàn UH1 và một số máy bay trinh sát điện tử... đưa tổng số máy bay A.37; lên 249 chiếc, F.5A, F.5B 53 chiếc, trinh sát điện tử 33 chiếc.
Một bộ chỉ huy quân sự (DAO) trá hình dưới dạng dân sự được thành lập ở Sài Gòn gồm hàng ngàn cố vấn do thiếu tướng Mua Ray cầm đầu để tiếp tục chi huy cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam.
Mỹ không thể không rút quân vì quyền lợi sống còn của nước Mỹ. Điều này đã làm cho chính quyền Sài Gòn hết sức cay đắng.
Trong một cuộc họp với tư lệnh các quân khu, qluân đoàn trước ngày ngừng bắn, Nguyễn Văn Thiệu đã chua chát nói: "Người Mỹ đã bỏ rơi chúng ta. Trước mắt chúng ta chỉ có hai con đường: chiến thắng hay là chết, Không có hiệp định nào trọi mà phải tiêu diệt bằng hết Cộng sản ".
Sáng ngày 28 tháng 1 , ngày Hiệp định Pa-ri có hiệu lực, Thiệu còn nói trắng ra rằng: "Ngừng bắn không có nghĩa là có hòa bình thực sự, chúng ta phải chuẩn bị và chúng ta không thể ngồi đợi Cộng sản làm mà chính chúng ta phải làm cho Cộng sản nể sợ trước cái phản ứng mạnh mẽ, dứt khoát của chúng ta".
Như vậy là ngay từ trước khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, đáp lại mong muốn hoà bình của nhân dân cả nước, sau bao nhiêu năm đổ xương máu, gian khổ. Thiệu đã điên cuồng kêu gào chiến tranh, tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh. Hiệp định Pa-ri đã bị Thiệu xé toang ngay từ khi chữ ký của Mỹ và đại diện chính quyền Sài Gòn còn chưa ráo mực.
Tiếng súng vẫn tiếp tục nổ từ sau 7 giờ sáng ngày28 tháng 1, giờ ngừng bắn có hiệu lực trên toàn chiến trường miền Nam. Ngày hôm ấy, Thiệu đã ra lệnh cho quân nguỵ mở hơn 400 cuộc tiến công vào các vi trí thuộc nhiều vùng kiểm soát của chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, chủ yếu tập trung vào việc khai thông các con đường chiến lược, chiếm lại các cửa biển quan trọng.
Nhưng Thiệu dù có cố gắng đến đâu, việc quân đội Mỹ và chư hầu rút đi vẫn để lại một lỗ hổng quá lớn trên chiến trường mà chúng không sao bù đắp được. Chúng không còn khả năng tổ chức những cuộc hành quân lấn chiếm lại những vùng đất rộng lớn như trước và điều cay đắng hơn, ngay đến bom, pháo chúng cũng đã bắt đầu phải tính toán và sử dụng một cách hạn chế; việc này hầu như rất xa lạ và khó khăn đối với chúng.
Trong khi ấy; các sư đoàn chủ lực quân giải phóng không ngừng được bổ sung và lớn mạnh. Các cơ quan chỉ huy đã dời xuống sát đồng bằng, các tuyến đường chiến lược được mở rộng nối liền các chiến trường với hậu phương lớn. Các cơ sở hậu cần tại chỗ được thiết lập vững chắc với việc thành lập các nông trường, các cơ sở chăn nuôi cũng như việc doanh thu các lâm sản quý.
Cũng như ở khu vực khác. trên khu vực của sư đoàn Sao Vàng, chiến sự vẫn tiếp diễn sau giờ ngừng bắn có hiệu lực.
Sáng ngày 28 tháng 1 tên Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh quân đoàn 2 ngụy đã ra lệnh cho sư đoàn 22, một liên đoàn biệt động cùng với năm chi đoàn xe bọc thép, bốn tiểu đoàn pháo binh và toàn bộ lực lượng không quân ở ba sân bay trong tỉnh Bình Định mở đợt tiến công ồ ạt vào ba khu vực nam Bồng Sơn - ốăc Phù Mỹ, bắc BồngSơn - nam Đệ Đức và bắc Tam Quan - Bình Đê nhằm khai thông đường số 1 và giành lại hai cửa biển Tam Quan và Đề Gi. Ở các khu vực nằm sát trong vùng giải phóng của ta như Mỹ Thành, Du Tự và ở những vị trí lực lượng ta mạnh, Toàn ra lệnh cho bọn lính dựng nhà hòa hợp, sẵn sàng mở những cuộc tiếp xúc với ta, gắng giữ không để xảy ra tác chiến ở những khu vực đó.
Như vậy là từ 28 tháng 1, sư đoàn Sao Vàng phải tổ chức chiến đấu dưới hai hình thái: Một là tiếp tục củng cố thế trận phòng ngự, đấu tranh với địch bằng pháp lý Hiệp định Pa-ri. Hai là chiến đấu giữ vững vùng giải phóng và những khu vực trọng điểm địch có lợi thế đánh phá, lấn chiếm.
Những ngày cuối năm 1972, sư đoàn đã phải tính từng người, từng khẩu súng, viên đạn. Giờ đây trung bình mỗi đại đội của ta phải đánh với từng tiểu đoàn, trung đoàn địch có 10 đến 18 xe tăng, xe bọc thép, có máy bay, pháo binh yểm trợ.
Trước sự điên cuồng đánh phá của địch, nhiều vấn đề cụ thể day dứt trong tư tưởng cán bộ, chiến sĩ: "Địch không thi hành Hiệp định, ta nên đánh thế nào? Có tiến công không? Tiến công thế nào để không vi phạm hiệp định?". "Kết hợp đấu tranh chính trị, binh vận ra sao?", v. v. Những phân vân trong nhận thức dẫn tới không rõ ràng dứt khoát về tư tưởng chỉ đạo tác chiến và vận dụng phương thức hoạt động. Bộ đội chiến đấu dũng cảm nhưng đánh trong hình thái be bờ, chống đỡ nên lần lượt mất trận địa vì tổn thất, hy sinh, hết súng. đạn hoặc sập nát công sự. Trong 40 ngày đêm sau hiệp định. quân số thương vong lên tới gần 250 người. Địch khai thông được đường số 1, chiếm tại cửa biển Tam Quan. Bên kia đèo Bình Đê (nam Quảng Ngãi), sau những trận đánh đẫm máu với trung đoàn 141 sư đoàn 2 của ta, bọn lính thủy đánh bộ và sư đoàn 2 ngụy chiếm cửa biển Sa Huỳnh. Không dừng lại đó, chúng tiếp tục đánh lên con đường Bồng Sơn - Du Tự, tiền đồn xa nhất, sâu nhất của chúng ở Hoài ân. Ngày 23 tháng 2, đảng ủy sư đoàn Sao Vàng triệu tập hội nghị bất thường mở rộng tới các trung đoàn trưởng. Hộinghị nhất trí kết luận: Địch phá hiệp định là âm mưu có từ trước, xuất phát từ bản chất của chúng. Trong hình thái xen kẽ hiện nay, chúng càng sợ hiệp định được thi hành, hòa bình được củng cố. Vì như vậy, chúng sẽ nguy khốn về nhiều mặt: quân số sẽ tan rã do ảnh hưởng của ta. Vùng giải phóng sẽ được yên ổn xây dựng, thực lực cách mạng sẽ mạnh lên. Tuy vậy, việc chúng chỉ đánh vào những khu vực có tính chất sinh tử đối với chúng, những nơi lực lượng ta mỏng hoặc sơ hở, còn các nơi khác chúng sẵn sàng đối thoại, ve vãn... chứng tỏ khả năng có hạn của chúng, mặc dù đó cũng là một thủ đoạn thâm hiểm. Đây là kết luận quan trọng về đánh giá kẻ thù để củng cố lòng tin và quyết định phương hướng hoạt động, tác chiến của sư đoàn trong giai đoạn sắp đến.
Hội nghị biểu dương tinh thần chiến đấu của bộ đội trong thời điểm lịch sử của đất nước đã không tính toán, do dự trước ác liệt, hy sinh, không chao đảo trong hình thái phức tạp hiện nay: phía trước là chiến tranh, phía sau là hòa bình. Hội nghị cũng nghiêm túc kiểm điểm những lệch lạc, mơ hồ, trong ảo tưởng trong nhận thức của cán bộ chiến sĩ, nhất là lãnh đạo.
Căn cứ vào chỉ thị của quân khu, qua thực tế địch ta trên chiến trường, hội nghị xác định tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt (sau này được đánh giá là đúng đắn, nhạy bén) là: Hiệp định Pa-ri là thắng lợi to lớn của quân và dân ta, trách nhiệm của lực lượng vũ trang là phải tiếp tục chiến đấu để bảo vệ thành quả đó. Phải tích cực củng cố và xây dựng lực lượng, nâng cao sức mạnh chiến đấu, kiên quyết trừng trị quân địch lấn chiếm, buộc địch phải thi hành hiệp định, giữ vững hòa bình, đưa cách mạng tiến lên. Về tác chiến, đảng ủy xác định: Chủ động tổ chức đánh đau, diệt gọn từng đơn vị địch làm cho chúng khiếp sợ, đồng thời cùng địa phương tổ chức đấu tranh chính trị và binh vận mạnh mẽ, khơi động tình cảm dân tộc, làm tan rã hàng ngũ địch. Sự kết hợp này không chỉ ở cấp chiến dịch mà từng khu vực, từng trận đánh đểu phải tiến hành chặt chẽ. Không chỉ có nhân dân mà từng đơn vị, từng cán bộ, chiến sĩ đều làm công tác chính trị và binh vận.
Vào lúc hội nghị sắp kết thúc, đồng chí Tư lệnh Quân khu tới thăm và nói chuyện. Đồng chí tỏ ý hài lòng với cách nhìn nhận, đánh giá tình hình một cách nghiêm túc của đảng ủy sư đoàn. Đồng chí nói đại ý: Mỹ rút nhưng vẫn duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Ngụy còn 60 - 70 vạn quân và sẽ tăng lên nữa. Xuất phát từ tương quan lực lượng tại chỗ, ta chưa hơn hẳn địch, cộng với bản chất phản động và âm mưu chiến lược của Mỹ, việc chúng nống lấn một số nơi ta đã có dự kiến, nhất là những vùng ảnh hưởng trực tiếp tới ý đồ chiến lược chiến địch của chúng. Khu vực chiến đấu vừa mở ra của sư đoàn Sao Vàng là một khu vực như thế.
Tinh thần cơ bản nghị quyết Khu ủy, Quân khu ủy hiện nay là:
- Ta không chủ động xung dột vũ trang, nhưng kiên quyết đánh địch lấn chiếm bằng mọi hình thức tác chiến: phòng ngự, tiến công. Tiến công triệt để, diệt nhanh, diệt gọn từng đơn vị, từng cánh quân địch.
Quán triệt tư tưởng nhỏ thắng lớn, tinh nhuệ thắng đông, khi cần, tập trung hợp lý trong những trận then chốt, diệt những vị trí xuất phát tiến công của địch.
Kết hợp chặt chẽ đánh địch và đấu tranh chính trị, binh vận, đưa đấu tranh chính trị và binh vận lên mạnh mẽ, rộng khắp hơn trước.
Tác chiến và xây dựng, huấn luyện và chiến đấu phải kết hợp thường xuyên, tích cực, nâng dần từng bước thật khẩn trương. Hiện nay ta có điều kiện để làm điều đó.
Ý kiến đồng chí đã giải đáp cơ bản những băn khoăn trước đây trong cán bộ, chiến sĩ, làm cơ sở cho sư đoàn vạch phương hướng hoạt động trong thời gian tới.
*
* *
Đầu tháng 3 năm 1973, sau khi thông được đường số 1 từ Quy Nhơn đi Quảng Ngãi, Lại Khánh - Gò Vàng tiếp tục trở thành khu vực nóng bỏng. Địch dồn lực lượng liên tục tiến công bứt trung đoàn 21 khỏi Lại Khánh - Gò Vàng để mở đường lên Du Tự, điểm cao 322 làm đầu cầu chuẩn bị cho kế hoạch lấn chiếm lâu dài của chúng.
Sư đoàn Sao Vàng, sau hội nghị đảng ủy đã triển khai ngay kế hoạch tác chiến mới. Toàn bộ trung đoàn 21 lên phía bắc sông Kim Sơn, dựa thế sông lập trận địa phòng ngự ở Phú Văn, Thế Thành. Đồng thời tập trung lực lượng tăng cường củng cố cụm chốt Lại Khánh, dãy điểm cao án ngữ đông - nam quận ly Hoài ân. Dự đoán trước tình hình, bộ tư lệnh sư đoàn và huyện ủy Hoài ân đã động viên lực lượng, tập trung xây dựng cụm chốt này thành trận địa khá vững chắc. Các hệ thống địa đạo, hầm kèo, hào giao thông, ụ chiến đấu được xây dựng kiên cố. Trung đoàn 2 đảm nhiệm chốt giữ ở đây, thường xuyên tập dượt các phương án tác chiến. Các cơ quan sư đoàn, trung đoàn được lệnh ra phía trước bám sát đơn vị, theo dõi, hướng dẫn cụ thể thực hiện nhiệm vụ.
Ngày 15 tháng 3, sau khi khai thông được đoạn đường Bồng Sơn - Du Tự, sư đoàn 22 ngụy chuyển sang đánh chiếm dãy núi Lại Khánh. Trung đoàn 2 chủ trương giãn mỏng lực lượng ở chốt, tăng cường lực lượng cơ động đánh vào các cụm xuất phát tiến công của địch. Phó trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu Quang trực tiếp tổ chức tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 thực hiện kế hoạch này.
Ngày 22 tháng 3, tiểu đoàn 1 và hỏa lực trung đoàn tập kích vào một tiểu đoàn ngụy khi chúng đang chuẩn bị đánh lên điểm cao 200, diệt gọn một đại đội và tiểu đoàn bộ gồm 79 tên. Ngày 26 tiểu đoàn 1 lại tập kích vào bọn địch ở xung quanh điểm cao 200, diệt gần hết một tiểu đoàn. Địch đưa hai tiểu đoàn khác vào thay thế và đã chiếm được điểm cao 200.
Đêm hôm ấy, sở chỉ huy sư đoàn điện xuống trung đoàn 2 cho phép sử dụng tiểu đoàn 2, tiểu đoàn cơ động của trung đoàn, chậm nhất sáng ngày 5 tháng 4 phải chiếm lại bằng được điểm cao 200.
5 giờ 10 phút sáng ngày 5, giữa lúc bọn địch đang triển khai đội hình chuẩn bị lấn lên điểm cao 251 thì hỏa lực sư đoàn, trung đoàn dồn dập dội xuống. Hỏa lực vừa dứt quân ta đã tràn lên. Chỉ 15 phút sau, các chiến sĩ tiểu đoàn 2 đã làm chủ điểm cao 200.
Mất điểm cao 200 là mất một bàn đạp quan trọng để tiến đánh các điểm cao khác. Vì thế, sau một ngày dội bom, pháo, đến tối, lợi dụng bóng đêm. một đại đội trinh sát địch lén lút bò lên đánh chiếm lại điểm cao 200. Tin đó dội về tiểu đoàn 2 làm mọi người sửng sốt. Không ai bảo ai, các chiến sĩ trong tiểu đoàn đều hiểu trách nhiệm giành lại điểm cao ấy một lần nữa lại thuộc về họ.
Đêm ngày 6, đại đội 3 tiểu đoàn 2 được chọn vào trận đánh. Mặc dù trời rất tối, đại đội trưởng Lâm Minh Hán vẫn chọn lối đường rừng độc nhất để hành quân vì là hướng địch ít chú ý nhất. 4 giờ 30 phút đại đội đã vào cách địch 50 mét chờ giờ nổ súng. Trước mặt các chiến sĩ bọn giặc vẫn ngủ im lìm.
Bóng đêm tụt dần xuống các thung lũng, điểm cao 200 hiện tờ mờ trong ánh sáng bàng bạc của buổi sớm. Đúng lúc đó, tiểu đoàn trưởng Võ Thành Khuê ra lệnh nổ súng.
Đúng như nhận định của tiểu đoàn. Ở hướng tiến công chủ yểu, địch rất sơ hở. Chúng không ngờ đối phương lại chọn nơi địa hình dốc đứng, không thể triển khai được hỏa lực làm hướng đột phá chính. Vì thế, khi bị tiến công mạnh ở hướng này, địch trở nên lúng túng phải điều lực lượng ở hướng khác tới đối phó, nhưng vẫn không sao xoay chuyển được tình thế.
Trận chiến đấu diễn ra hơn một giờ đồng hồ thì kết thúc: Toàn bộ đại đội trinh sát của trung đoàn 41 ngụy bị tiêu diệt.
Những trận đánh giành đi, giật lại như vậy diễn ra cho đến hết tháng 4. Trung đoàn 41 ngụy mất sức, phải rút ra củng cố. Trung đoàn 42 vào thay, cuối cùng cũng phải rút lui. Đầu tháng 5, địch phải dừng tiến công ở Hoài ân, chuyển lực lượng về đối phó ở đông, tây Hoài Nhơn. Ở đó phong trào đấu tranh chính trị và binh vận của quần chúng kết hợp với trung đoàn 12 và lực lượng vũ trang địa phương đang uy hiếp hàng loạt đồn bót địch bằng một phương thức mới: công khai trực diện tuyên truyền Hiệp định Pa-ri và đòi chúng thực hiện đúng những cam kết đó.
*
* *
Ngay từ những ngày đầu tiên của giai đoạn sau hiệp định, nắm chắc tinh thần và tư tưởng của binh lính địch, bộ tư lệnh sư đoàn đã chỉ đạo cho các hướng đẩy mạnh công tác binh vận, kết hợp với đấu tranh vũ trang, đặc biệt là đấu tranh chính trị của quần chúng.
Trong lúc những trận đánh ác liệt đang diễn ra ở cầu Vợi, Lại Khánh, ở các cửa biển thì trên đồi 9, đồi 10, Núi Chéo, Du Tự... bọn giặc vẫn tỏ ra " chấp hành nghiêm túc" Hiệp định Pa-ri. Ở những khu vực đó, sư đoàn chủ trương mở những đợt tiếp xúc giữa ta và địch, dựng cổng chào, nhà hòa hợp. Qua đó phân phát cho địch văn bản Hiệp định Pa-ri và thư tố cáo những hành động lấn chiếm của chúng ở các khu vực khác, cảnh cáo những trò hề di chuyển cổng chào, cột cờ phân định ranh giới hai bên, buộc chúng phải đem về chỗ cũ.
Điều mà bọn sĩ quan tâm lý địch hết sức tức tối là ở những nơi đó, bản chất hai chế độ đã bộc lộ không lời lẽ nào của chúng có thể che giấu nổi. Ngày này qua ngày khác, các chiến sĩ ta với trình độ nhận thức, trình độ văn hỏa cao, kể cho bọn lính ngụy nghe về cuộc sống ở miền Bắc, của gia đình, đơn vị, tuy còn gian khó nhưng sĩ quan, chiến sĩ cùng chia sẻ. Chuyện đồng bào miền Bắc coi đồng hào miền Nam như ruột thịt, mong đất nước mau thống nhất. Chuyện đồng bào miền Nam coi bộ đội như con đẻ... Những điều được trông thấy, nghe thấy ấy dần dần trở thành nỗi ám ảnh, thành sự so sánh day dứt trong tư tưởng bọn lính ngụy.
Ở khu vực đồi 9, đồi 10 thuộc xã Hoài Châu, các cuộc tiếp xúc của đồng bào không dừng lại ở các nhà hòa hợp với mấy tên sĩ quan tâm lý chiến do chúng cử ra mà kéo thẳng vào cứ điểm địch đòi giải thích Hiệp định Pa-ri với binh lính. Khi bọn sĩ quan cản lại, đồng bào nói: Tụi tôi đi làm điều nhơn, điều nghĩa chớ có đi lấy chốt mấy ông đâu. Toàn đàn bà tay không, có súng ống đâu mà mấy ông sợ!". Đồng bào còn kéo đến bao vây các đồn lẻ, bắt chúng nhận thư tay gửi bọn chỉ huy trung đoàn, sư đoàn, đòi không được bắn pháo, cối xuồng đồng, không được lấn chiếm và phải cho nhân dân hai vùng tự do đi lại, tự do tiếp xúc với binh lính.
Chỉ sau một thời gian ngắn. bọn lính chốt ở đồi 9, đồi 10 đã ngán ngẩm, bỏ bễ công việc. Và cũng như ở Du Tự, Núi Chéo, bọn chỉ huy hết sức lo lắng, vội vã đổi lính mới đến thay.
Để hỗ trợ cho mũi đấu tranh chính trị của quần chúng, nhiều hệ thống truyền thanh, loa pin, loa tay được đưa lên phía trước, thường xuyên phát đi tiếng nói chính nghĩa của dân tộc.
Bằng sức mạnh của lẽ phải, những cuộc tiếp xúc của chiến sĩ, đồng bào đã làm cho bọn chỉ huy ngụy hết sức lúng túng, hoảng hốt. Cuối tháng 7 năm 1973, bọn chúng trở mặt đơn phương cắt đứt quan hệ, đình chỉ các cuộc tiếp xúc và tình hình ở Hoài ân, Hoài Nhơn lại trở nên căng thẳng. Nhưng những gì mà bọn lính ngụy đã nghe, đã thấy trong những cuộc tiếp xúc đó thì vĩnh viễn không bao giờ bọn chỉ huy chúng có thể tẩy rửa đi được.
Mùa hè năm ấy, đất trời như cũng rạo rực chia sẻ niềm vui với người dân Bình Định, ánh nắng tràn trề chiếu sáng khắp nơi, tưởng chừng như bao năm nay nó cũng bị giam hãm sau những tầng mây đục. Trên các ngả đường liên huyện, liên xã ở Hoài Nhơn, Hoài ân, Phù Mỹ... nón trắng chấp chới chen nhau ở các ngã ba, ngã tư, ở các bến sông. Xe đạp, xe máy chạy như thoi dệt trên những con đường đá, đường đất chưa kịp tu sửa còn đầy những hố đạn. Người dân Bình Định đang được sống lại không khí tưng bừng của những ngày đồng khởi 1964, những ngày đầu giải phóng 1972. Cờ mặt trận rợp bóng khắp nơi. Cổng chào khẩu hiệu tươi rói ở lối rẽ vào các thôn ấp. Những nếp nhà khang trang bắt đầu mọc lên trên những nền nhà cũ.
Giữa tháng 4, sư đoàn Sao Vàng tổ chức đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua lần thứ năm. Đây là một đại hội lịch sử, không chỉ đánh giá thắng lợi to lớn của sư đoàn trong năm 1972, đầu năm 1973 mà còn là đại hội mừng đất nước sạch bóng quân xâm lược.
Trong đại hội này, trung đoàn 2 được tặng thưởng huân chương Quân công hạng 2. Trung đoàn 12 được tặng thưởng huân chương Quân công hạng 3. Tập thể sư đoàn được tặng huân chương Quân công hạng nhất và cờ " Diệt chiến đoàn ngụy " của quân khu. Đây là tấm huân chương lớn thứ hai từ khi sư đoàn được thành lập
Trong những ngày tràn ngập niềm vui đó, đồng chí Tư lệnh Quân khu 5 lại đến với sư đoàn. Trong một cuộc họp liên tịch giữa tỉnh ủy tỉnh đội. sư đoàn Sao Vàng và huyện ủy hai huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, đồng chí Tư lệnh Quân khu nhấn mạnh tầm quan trọng của vùng giải phóng Bình Định mà Hoài ân là trọng điểm, đồng chí nói Hoài ân phải trở thành một căn cứ quan trọng không những của tỉnh mà của cả khu 5. Nếu hòa bình giữ được thì sẽ là một trung tâm kinh tế chính trị. Nếu xảy ra chiến tranh từng phần, nó sẽ trở thành khu vực phòng ngự vững chắc, khu tập kết lực lượng để nếu xảy ra chiến tranh lớn sẽ là nơi xuất phát tiến công của những binh đoàn chủ lực cơ động, những binh chủng kỹ thuật hiện đại, nhanh chóng đập tan tuyến phòng ngự của địch, cùng chiến trường toàn khu, toàn miền giành thắng lợi hoàn toàn.
Cuối tháng 6, theo Nghị quyết Quân ủy Trung ương về củng cố tổ chức biên chế lực lượng vũ trang, Quân khu 5 giải thể sư đoàn 711, trung đoàn 21 (thuộc sư đoàn Sao vàng) và thành lập lữ đoàn 52. Trung đoàn 141 (thuộc sư 2) đang ở nam Quảng Ngãi được lệnh về đội hình sư đoàn Sao Vàng thay thế trung đoàn 21.
Vốn là một trung đoàn của sư đoàn Chiến Thắng (312), thành lập cuối năm 1950 , trung đoàn 141 đã tham gia các chiến dịch lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp như chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ, đã lập những chiến công vang dội ở ba huyện Tràng Bạch, Thu Cúc, Lai Đồng, điểm cao 600 (Ba Vì), được Bộ Tổng tư lệnh tặng danh hiệu " Ba Vì anh dũng ". Tiếp sau là chiến thắng Sài Lương, Ba Lay, Xốp Hào và mở đầu chiến địch lịch sử Điện Biên Phủ với trận thắng Him Lam oanh liệt, có anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai... Đầu năm 1968, khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân của quân dân miền Nam nổ ra, trung đoàn được lệnh cấp tốc hành quân bằng cơ giới vào chiến trường miền Trung. Từ đó đến nay, trên các mặt trận Quảng Đà, Đường 9-Nam Lào, Hạ Lào, Công Tum, Quảng Ngãi, trung đoàn đã vượt qua những chặng đường ác liệt, khó khăn, tiếp tục ghi thêm vào truyền thống của đơn vị những chiến công mới ở Thượng Đức, Ba Khe, Túy Loan, Núi Lở, Bà Nà, điểm cao 723, Tân Canh, Sa Huỳnh... làm rạng rỡ thêm danh hiệu "Ba vì anh dũng".
Với những chiến công đó, trung đoàn 141 đã góp vào lịch sử sư đoàn Sao Vàng thêm phong phú và sức chiến đấu của sư đoàn cũng tăng lên rõ rệt. Trung đoàn do đồng chí Phan Thanh Dư làm trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Ngọc San làm chính ủy.
Cùng với việc hoàn chỉnh phương án phòng ngự, các lớp tập huấn ở sư đoàn, trung đoàn cũng liên tiếp được tổ chức. Các tiểu đoàn bộ binh đều có thao trường ở hậu cứ và ở ngay bên cạnh trận địa chốt.
Song song với việc sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, sư đoàn còn cùng với nhân dân Bình Định hoàn thành gấp con đường chạy dọc phía tây huyện Hoài Ân nối liền với quân khu, với hành lang trung ương... Sản xuất, tự túc lương thực cũng là một trong những công việc hàng đầu của sư đoàn. Đơn vị sân xuất đã được tổ chức chu đáo theo phân vùng canh tác của cơ quan hậu cần. Từ sư đoàn trưởng đến chiến sĩ nuôi quân đều có chỉ tiêu sản xuất. Trong những ngày hè đó, đi dọc theo bờ sông An Lão, sông Kim Sơn, chỗ nào cũng thấy nghi ngút khói đốt cỏ tranh, cũng thấy bóng dáng các chiến sĩ đang cày cuốc và tiếng xe nước rào rào đưa nước lên cao.
Công việc bề bộn ngày đêm nhưng ai nấy đều thanh thản, tin tưởng. Khẩu hiệu "chốt là nhà, trận địa là quê hương" được kẻ đậm nét trên vách hầm chốt. Xung quanh các công sự các hào giao thông là những ruộng lúa xanh rờn. Đồng bào Hoài ân còn gửi cho các chiến sĩ cả gà, vịt để phát triển chăn nuôi tại trận địa. Có chiến sĩ khi xa chốt đã làm thơ tả lại nỗi nhớ của mình:
Ta về ta nhớ Đá Giang
Chốt thân yêu đứng hiên ngang giữa trời
Giặc thua giặc chạy tơi bời
Thắng lo ta đứng ta cười hả hê
Một ngày xa chốt nhớ ghê!
Như vậy là sau những ngày quần đánh quyết liệt chống địch lấn chiếm và tranh thủ củng cố lực lượng, đến tháng 7 năm 1973, sư đoàn Sao Vàng đã có thế đứng khá vững chắc trên trận địa phòng ngự của mình. Sư đoàn 22 ngụy bị chặn đứng trước địa phận Hoài ân và các vùng giải phóng bắc Bình Định. Đến đây, sư đoàn Sao Vàng đã có thể khẳng định được những vấn đề cơ bản về tư tưởng chỉ dạo, phương thức hoạt động và thủ đoạn tác chiến của mình trong giai đoạn mới của cách mạng
Địch dùng vũ trang đánh phá lấn chiếm là thuộc về bản chất và mưu đồ của chúng, nhằm gỡ thế cài răng lược hết sức bất lợi cho chúng, đồng thời làm ta không ổn định về mọi mặt. Bởi vậy, muốn giữ vững hòa bình, đưa cách mạng tiến lên, ngoài việc đẩy mạnh đấu tranh chính trị của quần chúng. lực lượng vũ trang ta phải trừng trị âm mưu và hành động lấn chiếm của địch, giữ vững vùng ta, duy trì bằng được thế cài răng lược chiến thuật hiện nay. Cuộc chiến đấu này không chỉ một thời gian ngắn mà còn lặp đi lặp lại.
Do thắng lợi của Hiệp định Pa-ri, cuộc chiến đấu của lực lượng vũ trang đặc biệt gắn rất chặt với đấu tranh chính trị và binh vận.
Muốn bảo vệ vững chắc vùng ta, trong tác chiến phải có phương án chủ động tiến công tiêu diệt địch, phải đánh gọn; đánh trúng, đánh đau vào hậu phương trực tiếp lấn chiếm của chúng ; trong phòng giữ phải xây dựng vững chắc trận địa, đồng thời vận dụng nhiều hình thức tác chiến để tạo bất ngờ đối với địch.
Trong tình hình hiện nay, việc tranh thủ xây dựng trong tác chiến đã thuận lợi hơn trước. Địch tuy cố tình lấn chiếm nhưng không phải chúng muốn thế nào cũng được bởi những suy yếu do quân Mỹ rút đi. Phương hướng của lực lượng vũ trang ta là phải xây dựng vững mạnh để khi có thời cơ là tiến công giành thắng lợi hoàn toàn.
Công tác chính trị, tư tưởng ngoài việc quán triệt nhiệm vụ quân sự, chính trị, trước mắt phải tiến hành giáo dục những vấn đề cơ bản về giai cấp và đấu tranh. giai cấp, về mục tiêu, lý tưởng cách mạng để mọi cán bộ, chiến sĩ có nhận thức đúng đắn, có quan điểm vững vàng trước những biến đổi của cách mạng.
3. TRÊN VÙNG CÁT HOÀI CHÂU .
Cuối tháng 7 nghĩa là sau ba tháng tạm thời hòa hoãn, địch đột nhiên đơn phương tuyên bố cắt đứt tiếp xúc với ta ở Hoài Nhơn.
Qua phân tích, sư đoàn đã đi đến kết luận: địch bỏ tiếp xúc khu vực nào, chúng nó sẽ lấn chiếm khu vực ấy. Đó là một kết luận chính xác, không chỉ dựa vào kinh nghiệm mà còn là kết quả của việc theo dõi nắm địch rất sát của cơ quan tham mưu sư đoàn.
Trong thời gian hòa hoãn, dưới sự hướng dẫn của các cố vấn Mỹ, các đơn vị chủ lực nguỵ đã hoàn thành việc củng cố và huấn luyện. Chúng tăng cường biên chế, thay đổi trang bị và phát triển quân địa phương. Song song với việc củng cố, phát triển lực lượng vũ trang, địch dốc sức phát triển các bộ máy kìm kẹp ở thôn ấp: Chúng đưa bọn sĩ quan ngụy về thay thế những tên ác ôn bị nhân dân căm ghét để xoa dịu. Biện pháp bao vây kinh tế được chúng coi như một mũi vu hồi. Chúng quy định mỗi gia đình chỉ được để trong nhà 50 ki-lô-gam gạo. Các cửa khẩu ở vùng giáp ranh bị bao vây chặt chẽ. Địch hy vọng bằng cách đó, kết hợp với càn quét, lấn chiếm có thể xóa dần thế "da báo" ở đồng bằng.
Đầu tháng 8, toàn bộ quân chủ lực ngụy đang chốt giữ trên phòng tuyến Hoài ân được lệnh rút ra, giao lại cho lính bảo an. Chi đoàn 2 và 3, thiết đoàn 4 kéo về tập kết ở căn cứ Đệ Đức. Trên bầu trời bắc Hoài Nhơn không lúc nào ngớt tiếng máy bay OV.10, L19. Tất cả những hiện tượng ấy cộng với việc địch đột ngột tuyên bố cắt đứt những cuộc tiếp xúc là bằng chứng cho thấy chúng đang chuẩn bị một cuộc tập kích lớn vào phía bắc Hoài Nhơn, nơi trung đoàn 12 sư đoàn Sao Vàng đang tổ chức chốt giữ.
Có thể trên những chặng đường chiến đấu trong tương lai của mình, các chiến sĩ Sao Vàng sẽ còn đi qua nhiều vùng dân nhiều vùng đất, nhưng những năm tháng sống, chiến đấu ở chiến trường Bình Định, đặc biệt là ở các xã phía bắc Hoài Nhơn đã mãi mãi khắc sâu vào tâm trí họ. Người dân ấy, miền đất ấy không bao giờ chịu lùi bước trước quân thù. Người chiến sĩ đã khóc khi trở về và cũng đã khóc khi phải xa những người dân sống trên vùng đất ấy
Có người chiến sĩ nào trong sư đoàn lại không có một người mẹ, một người chị, người em ở vùng đất Hoài Châu, Hoài Thanh... Hầu hết cán bộ, chiến sĩ đã chiến đấu trên vùng đất này từ những ngày đầu tiên của cuộc "chiến tranh cục bộ". Những ngôi mộ của các chiến sĩ nằm rải rác, xen kẽ với mộ của đồng bào hy sinh trong chiến đấu ở khắp mọi nơi. Nhân dân đã dành tất cả cho sư đoàn và người chiến sĩ cũng đã hiến dâng xương máu của mình để gìn giữ tự do cho vùng đất này.
Qua những năm tháng đấu tranh vật lộn với kẻ thù, người dân ở đây trở nên dày dạn, thông minh, cảnh giác. Đồng bào hiểu khá rõ tâm địa phản trắc của địch như họ vẫn thường nói: " Tụi tôi đi guốc trong bụng chúng nó". Năm 1972, sau khi giải phóng ba huyện phía bắc tỉnh, nhân dân ở đây nói: "Các chú đánh tới đi, đánh bây giờ là thiệt ngon đó. Tụi nó chưa kịp đối phó đâu". Nhưng lúc ấy sư đoàn đã dừng lại và chiến dịch B10 ta gặp khó khăn đã xác minh những lời nói của nhân dân là đúng. Sau ngày hiệp định Pa-ri được ký kết, nhân dân ở đây lại nói: "Mình phải lo chuẩn bị thôi. Bọn nó nói hòa bình giả, làm chiến tranh thật đó". Và khi những cuộc hòa hoãn, tiếp xúc diễn ra dưới chân đồi 9, đồi 10, đồng bào lại xác định: "Làm nhà ở là tạm thời, làm hầm kèo là cơ bản". Những gì chắc nhất, tốt nhất bà con đều dành cho công sự chốt của bộ đội, cho phía trước.
Ban ngày trực tiếp tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, ban đêm, nhân dân vùng bắc Hoài Nhơn lại cùng các chiến sĩ sửa sang lại công sự, cấy cày trên những khoảnh ruộng còn bỏ giở. Các đội thiếu nhi tổ chức đi lượm pháo lép đem về nộp cho xưởng quân giới của huyện và sư đoàn Sao Vàng để sản xuất các loại mìn chống tăng, bộc phá phóng. Các đội du kích tập trung thì tiếp tục hoạt động "đệm" giữa hai trận đánh của bộ đội chủ lực.
Ngày và đêm ở vùng cát bắc Hoài Nhơn rộn rịp, khẩn trương, căng thẳng. Nhà bị bom pháo đánh sập, người dân vùng cát lại dựng lên trên nền nhà cũ một ngôi nhà khác nhỏ hơn. Lần sau nhỏ nữa, cuối cùng chỉ còn thu về một góc và sau rốt chỉ còn là một căn hầm. Mỗi người dân ở đây đều là một chiến sĩ và tất cả các xóm, thôn ở miền đất này đều trở thành trận địa phòng ngự vững chắc với những đường hào, ụ súng chằng chịt dọc ngang.
Người dân vùng cát bắc Hoài Nhơn rất nghèo. Nhưng dù chỉ một củ khoai, một tấm bánh tráng, một bát nước chè khô, bà con cũng để phần cho bộ đội.
Đất Hoài Nhơn toàn cát, mênh mông. Hầm trú pháo nằm sâu trong cát, công sự chốt nằm trong lòng cát. Vậy mà cây cỏ vẫn lên xanh. Lúa vẫn trổ đòng bên những hố bom, hố pháo. Càng ác liệt, gian khổ, người dân vùng cát càng quả cảm, đảm đang, càng thương yêu chiến sĩ gấp bội.
Đồng chí chính ủy trung đoàn 12 thường nói với các chiến sĩ "Để mất một thước đất đã day dứt đau xót. Nhưng điều day dứt hơn là chúng ta sẽ không biết ăn nói thế nào với nhân dân?". Còn trung đoàn trưởng thì nói thẳng: "Đồng bào ở sau lưng chúng ta, bên cạnh chúng ta, dẫu có chết cũng phải nằm tại chiến hào mà chết".
Đứng trên đãy núi Hưng Nhượng nhìn xuống Hoài Châu, Hoài Hảo, Tam Quan, Hoài Thanh chỉ thấy những thân dừa cụt ngọn vươn thẳng lên trời trên một nền cát trắng đến lóa mắt. Cát và dừa là biểu tượng cho tấm lòng kiên trung của miền đất này.
Sư đoàn 22 ngụy công khai mở cuộc hành quân lấn chiếm các xã giải phóng tây-bắc huyện Hoài Nhơn vào rạng sáng ngày 7 tháng 8 năm 1972 Trung đoàn 41 ngụy và thiết đoàn 14 bị đẩy lên phía trước làm lực lượng xung kích. Mục tiêu then chốt của chúng là chiếm bằng được bàn đạp Quy Thuận để giải tỏa cho thị trấn Tam Quan và từ bàn đạp đó tiến tới đẩy bật trung đoàn 12 ra khỏi vùng cát bắc Hoài Nhơn.
T
rước khi xảy ra cuộc hành quân này một tuần, bộ tư lệnh sư đoàn Sao Vàng đã phát lệnh chiến đấu cho trung đoàn 12 và báo động chiến đấu trên toàn trận địa phòng ngự. Sở chỉ huy tiền phương sư đoàn do phó sư đoàn trưởng Lê Chí Thuận chỉ huy cấp tốc xuống thẳng trung đoàn 12. Tiểu đoàn 2, lực lượng cơ động của sư đoàncũng được lệnh chuẩn bị hành quân chiến đấu. Các đại đội tên lửa, cối 120 của sư đoàn cũng gấp rút chiếm lĩnh các trận địa ở tây - bắc Hoài Nhơn.
Sáng hôm ấy, ba cánh quân có 18 xe học thép yểm trợ đánh vào tiểu đoàn 4 và đại đội trinh sát trung đoàn 12 đang phòng giữ ở Quy Thuận.
Sau khi pháo ngừng bắn, bộ binh và xe tăng địch dàn hàng ngang tiến vào. Thoạt đầu, chúng tiến lên một cách dè dặt, nhưng khi đã vào trong tầm bắn của đạn B.40, B.41 mà vẫn thấy trận địa của đối phương lặng ngắt, chúng vội vã hò hét tràn tới. Còn 30 mét rồi 20 mét, nhưng chúng đã không thể vượt qua được cái giới hạn ngắn ngủi ấy. Từ các hầm kèo, các chiến sĩ đại đội 4 tiểu đoàn 4 bí mật trườn ra các hầm râu mực. Hai quả đạn B.41 cùng một lúc nổ trên tháp pháo chiếc M.48A.3 đi đầu. Khẩu pháo 90 trên xe đang nhả đạn bị đổ gục. Chiếc thứ hai cũng trúng một quả B.40 bốc cháy. M.48 cháy, xe M113 chỉ còn là những chiếc bia sắt. Chúng vội vã quay đầu. tháo chạy.
Buổi chiều, địch lại dồn hết lực lượng mở liên tiếp ba đợt tiến công nữa hòng đột phá trận địa của đại đội 4 nhưng đều bị đánh bật trở lại.
Ngày hôm sau, chúng tung một tiểu đoàn và 1 xe bọc thép đánh mạnh vào Quy Thuận định hút toàn bộ lực lượng ta vào đó, đồng thời cho xe tăng dẫn hai đại đội bộ binh đánh vòng về phía Gia ân, toan thọc vào sườn sở chỉ huy tiểu đoàn 4 ở Quy Thuận. Nhưng cánh quân vu hồi này đã bị đại đội 63 tiểu đoàn 6 và đại đội 42 tiểu đoàn 4 chặn đứng lại ở những vườn mía và gò bãi dưới chân đồi cọ. Đại đội trưởng Oánh và chính trị viên đại đội 42 Nguyễn Hữu Ba, mỗi người dẫn một mũi đánh tạt vào sườn địch. Xạ thủ B.41 Nguyễn Hồng Sánh vừa vận động vừa bắn cháy liền hai xe tăng. Những chiếc còn lại bị vây chặt đã hoảng loạn chà lên bộ binh chúng để tháo chạy.
Vào những ngày 15, 16, 17 tháng 8, chúng thay đổi thủ đoạn tăng cường mật độ phi pháo, chuyển hướng tiến công vào tây-nam Quy Thuận. Nhưng ở đây, chúng đã bị hai trận tập kích đẫm máu trên bãi cát An Quý, hai đại đội chỉ còn sống sót 6 tên tháo chạy thục mạng về thị trấn Tam Quan.
Cách đồi 10 không xa, nhà thờ Quy Thuận vẫn đứng sừng sững. Địch đã dập hàng ngàn quả pháo, hàng chục tấn bom xuống ngôi nhà này, nhưng tháp chuông nhà thờ, dù bị tróc lở, đổ vỡ từng mảng vẫn ngạo nghễ vươn lên trời như một mũi dao nhọn.
Những trận đánh dai dẳng, quyết liệt kéo dài cho đến đầu tháng 9, sư đoàn 22 ngụy buộc phải đưa trung đoàn 47 vào thay trung đoàn 41 đã quá rệu rã.
Cũng trong những ngày tháng 9 sôi động và nóng bỏng đó, Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống ngụy quyền Sài Gòn lại có mặt ở Bồng Sơn, Tam Quan trực tiếp ra lệnh cho sư đoàn 22 ngụy phải chiếm cho được nhà thờ Quy Thuận.
Lần này, sư đoàn 22 ngụy đã dồn toàn bộ sức 1ực vào khu vực Quy Thuận. Nhưng hơn bốn tuần lễ điều quân như đèn cù, hết đánh từ An Quý lên lại đưa quân đánh từ Bình Đê xuống, hết thọc từ Chương Hòa, đồi 10 vào lại vu hồi từ Gia An sang với tất cả các thủ đoạn bắn phá có trọng điểm, hủy diệt từng khu vực bằng pháo lân tinh, hóa học, bom đào, bom xăng, gí súng bắn chết hàng chục tên lính không chịu xung phong, nhưng cuối cùng. địch cũng chỉ lấn thêm được một số vùng rìa phía đông Quy Thuận với một tổn thất nặng nề: 860 tên chết và bị thương.
Nhà thờ Quy Thuận còn lại một bức tường cao mảnh mai vẫn còn quá xa so với các vị trí tiền tiêu của sư đoàn 22 ngụy. Còn chiếc chuông đồng khổng lồ, một công trình văn hóa quý giá, đã được các chiến sĩ trung đoàn 12 và du kích Hoài Châu tổ chức khiêng về phía sau cất giấu ở một vị trí an toàn.
Nhận thấy trung đoàn 47 không làm gì được, lại bị tổn thất quá nặng nề, sư đoàn 22 nguỵ buộc phải rút ra, thay thế bằng liên đoàn biệt động số 4. Mục tiêu then chốt vẫn là chiếm cho được nhà thờ Quỵ Thuận.
Lại Quy Thuận, hai tiếng Quy Thuận bỗng nhiên trở thành nỗi lo sợ khủng khiếp đối với quân ngụy. Ngay buổi sáng nhận lệnh, tên liên đoàn trưởng đã cau có nói với Phan Đình Niệm rằng Quy Thuận là một khúc xương mà trung đoàn 41, 47 không gặm được, bây giờ lại nhả ra cho liên đoàn của hắn. Cái tâm lý đó ngấm sâu vào từng tên lính ngụy và ngày đầu tiên xuất quân, đã có hai sĩ quan trong liên đoàn này tuyên bố thà ngồi tù còn hơn là bỏ xác tại Quy Thuận
Nắm chắc lực lượng địch, trung đoàn 12 xốc lại đội hình, tổ chức liên tiếp hai trận phủ đầu lính biệt động ở đông Quy Thuận và Hội An buộc chúng phải co lại. Năm đó, đồng bằng Hoài Nhơn bị mưa lụt lớn. Nước từ trên núi tràn về mênh mông trên các cánh đồng. Bộ đội, du kích suốt ngày dầm mình trong mưa, tát nước, sửa sang lại hầm hào. Người dân ở Quy Thuận, Gia An đã đem những tấm ván cuối cùng còn lại trong nhà mình cho bộ đội lát hầm, củng cố lại trận địa.
Gắn bó với dân, với đất Hoài Nhơn, các chiến sĩ trung đoàn 12 thấy mình có được một nguồn sinh lực lớn lao, họ đã viết vào các vách hầm những dòng chữ tâm huyết: "Quyết sống chết không phụ nghĩa đồng bào Hoài Nhơn", "Quyết không để một người dân, một tấc đất Hoài Nhơn rơi vào tay giặc". Họ đã nghĩ và làm đúng như vậy. Chính trị viên đại đội 42 tiểu đoàn 4 Nguyễn Hữu Ba, trên đường vận động chi viện chốt bị đạn pháo làm mắt không nhìn thấy gì, anh nhờ y tá dìu mình ra trận địa với lập luận: "Mắt không nhìn thấy nhưng tai còn nghe được". Ba đã lên chốt giữa lúc gay cấn nhất và sự có mặt của anh đã cổ vũ các chiến sĩ đẩy lùi các đợt tiến công của địch. Sau này, nhiều lần trung đoàn yêu cầu Ba đi điều trị nhưng Ba kiên quyết xin ở lại tập nhìn, tập đi. Phải xa người dân Hoài Nhơn lúc đó, đối với Ba không gì đau khổ và ân hận bằng.
Những ngày cuối tháng 10 là những ngày nặng nề và hết sức căng thẳng đối với liên đoàn biệt động số 4. Chúng đã ba lần thay đổi hướng tiến công, bắn tới 2.000 quả pháo mỗi ngày, thường xuyên có từ 12 đến 18 xe tăng, xe bọc thép chi viện, nhưng vẫn không sao nhích lên được. Ngày nào cũng có hàng chục tên lính bị chết, bị thương vì bắn tỉa. Ngày nào cũng có lính bỏ trốn, chống lệnh hành quân. Rồi mưa lũ tràn về cuốn trôi một lúc gần một đại đội biệt động ở Tân Thành.
Giữa lúc tinh thần quân dịch đang hoang mang, tan rã, huyện ủy Hoài Nhơn quyết định đưa mũi đấu tranh chính trị và binh vận xuất hiện. Từng tốp bà con Hoài Châu, Hoài Hảo, Hoài Thanh... đi thẳng vào vùng địch kiểm soát, chặn xe chở lính, chở thương vận động phản chiến: "Tội chi mà dấn thân vô Quy Thuận mấy con! Cứ ở đây hòa hợp có phải đỡ cực hơn không", " Má nói thiệt nghe con, mấy con vô đó chết chứ mấy ông lớn đâu có chết. Cứ xách súng về vùng giải phóng mà làm ăn. Rồi má biểu con Hai nó viết thơ báo cho ba má con biết...".
Đồng bào nói với địch ở chợ Tam Quan, ở căn cứ Đệ Đức, ở giữa đường số 1. Từ Quy Thuận, tiếng súng vẫn không ngớt dội lại. Tiếng súng đội cả vào giường bệnh của bọn lính bị thương ở các bệnh viện dã chiến. Đồng bào đem truyền đơn gặp người nhà của binh lính vận động đòi bồi thường, đòi bọn chỉ huy không đưa con em họ vào lấn chiếm Quy Thuận...
Sự xuất hiện đúng lúc, kịp thời của đội quân chính trị, binh vận có sức mạnh như một trận đánh vu hồi. Chỉ trong 10 ngày đầu tháng 10, đã có 56 binh lính, sĩ quan ngụy mang súng ra vùng giải phóng. Hàng trăm tên khác tự thương hoặc bỏ trốn về ẩn náu ở các thành phố.
Cuộc hành quân đánh chiếm Quy Thuận sau ba tháng không đem lại kết quả gì, lại bị tổn thất hơn 2.000 tên lính, 38 xe tăng, xe bọc thép. Cuối tháng 10, sư đoàn 22 ngụy lặng lẽ lui quân, giao lại toàn bộ trận địa "cái khúc xương mà chúng
không gặm được" cho liên đoàn biệt động số 4.
Vùng giải phóng Hoài Nhơn được bảo vệ, trận địa phòng ngự của ta vẫn vững chắc. Điều làm cho mọi người vui mừng, tin tưởng là kẻ thù đã chứng tỏ những suy yếu rõ rệt của chúng qua đợt lấn chiếm này. Việc một trung đoàn ta phòng ngự đánh bại lực lượng địch tương đương một sư đoàn chủ lực ngay giữa đồng bằng, sát căn cứ, trục giao thông chiến lược của chúng đã phản ánh sự trưởng thành vượt bậc về khả năng chiến đấu phòng ngự của bộ đội, và phương thức hoạt động trong thời kỳ mới.
Nếu như cuối năm 1972, ở Hoài ân, sư đoàn Sao Vàng chỉ mới rút được kinh nghiệm trong chiến đấu phòng ngự ở vung đồng bằng xen kẽ rừng núi thì ba tháng ở Hoài Nhơn, có thể nói sư đoàn đã thắng lợi trong tổ chức chiến đấu phòng ngự ở đồng bằng trống trải. Địch chủ động tiến công nhưng không làm chủ được tình huống và dần dần rơi vào tình trạng bị động đối phó trước thế trận và cách đánh của ta. Tại dây trung đoàn 12 đã vận dụng khá linh hoạt các chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt, vận dụng tiến công và tập kích hợp đồng binh chủng kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa phòng ngự trận địa và tiến công vào sau lưng, cạnh sườn địch.
Để thực hiện tốt những trận đánh đó, trung đoàn 12 luôn được sự che chở và giúp đỡ của nhân dân Hoài Nhơn. Nhân dân là rừng cây bất tận giữa đồng bằng, che mắt bịt tai quân địch, nhân dân là tường đồng vách sắt, chỗ dựa vững chắc để cho bộ đội chiến đấu thắng lợi.
Cũng tại đây, sự phối hợp giữa chủ lực và bộ đội địa phương, giữa tiến công quân sự và đấu tranh chính trị, binh vận của quần chúng đã đạt tới đỉnh cao. Mọi hoạt động đều nằm trong phương án thống nhất, được tổ chức chặt chẽ, ra quân nhịp nhàng, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng làm cho hiệu quả từng mũi tiến công được nhân lên gấp bội.
Đợt đánh địch lấn chiếm lần này đã tỏ rõ khí thế toàn dân, toàn quân cùng bảo vệ vùng giải phóng. Đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm Quy Thuận của địch, sư đoàn Sao Vàng nói riêng, quân dân Bình Định nói chung có thể khẳng định: Giai đoạn khó khăn nhất đã qua rồi, từ đây ta có đủ khả năng bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình, xây dựng mọi mặt tiến lên giành những thắng lợi mới.
4. HÈ - THU 1974
Tháng 10 năm 1973, Bộ tư lệnh quân khu 5 triệu tập hội nghị tổng kết kinh nghiệm chiến đấu năm 1972 và giai đoạn đánh địch sau Hiệp định Pa-ri. Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 đã được phổ biến, quán triệt trong hội nghị. Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 nêu rõ: "Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công". Tinh thần chung của nghị quyết 21 là: Địch không thi hành Hiệp định Pa ri mà vẫn tiếp tục tiến hành chiến tranh "Việt Nam hóa" thực chất là tiến hành cuộc chiến tranh thực dân mới hòng chiếm cứ lâu dài miềnNam thì ta không còn con đường nào khác là phải tiến hành chiến tranh cách mạng, tiêu diệt chúng đề giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Tháng 12 năm 1973, Đảng ủy Quân khu 5 chính thức phát động cuộc vận động: "Nâng cao chất lượng chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu" nhằm đưa kỹ năng chiến đấu của bộ đội và khả năng chỉ huy của cán bộ tiến lên một bước mới, có chất lượng cao. Mục tiêu cuối cùng là đánh bại đội quân ngụy do Mỹ huấn luyện, trang bị và cố vấn.
Đối với sư đoàn Sao Vàng, quân khu xác định mục tiêu cụ thể là "đánh quỵ sư đoàn 22 ngụy", đây là một yêu cầu cao. Với biên chế và trang bị của sư đoàn lúc đó nếu đánh bại sự lấn chiếm của một sư đoàn địch thì có thể thực hiện được, nhưng nói tiến công đánh quỵ hẳn một sư đoàn địch thì còn là một mục tiêu phải phấn đấu gian khổ.
Ngay từ những ngày đầu sau hiệp định, sư đoàn đã xác định được vị trí của mình ở tuyến trước, cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao. Vì thế, khi cuộc chiến tranh tiếp diễn trên một quy mô ác liệt hơn. trong một tình hình phức tạp hơn, cán bộ chiến sĩ đã nhanh chóng nhất trí với nhiệm vụ chiến đấu của mình. Điều này nói lên tính chủ động, nhạy bén, nắm bắt tình hình và ý thức triệt để chấp hành các chủ trương của Quân khu ủy, của đảng ủy và bộ tư lệnh sư đoàn.
Chính nhờ sự nắm bắt tình hình nhanh, chính xác, sư đoàn đã từng bước củng cố vững chắc thế trận phòng ngự, bảo vệ vùng giải phóng với quy mô ngày càng hoàn chỉnh. Song song với nhiệm vụ trừng trị bọn địch lấn chiếm, sư đoàn đã xây dựng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ ý thức coi vùng giải phóng như một phận đất thiêng liêng bất khả xâm phạm, khác với tính chất chiến đấu giải phóng trước đây. Từ đó, bên cạnh quyết tâm xây dựng. và bảo vệ trận địa, ý thức xây dựng hậu phương chiến lược đã biến thành ý chí, tình cảm của tất cả mọi cán bộ, chiến sĩ. Đây là thời kỳ sư đoàn phát triển toàn diện cả về chiến đấu, huấn luyện và xây dựng, làm cơ sở vững chắc cho những cuộc tiến công lớn sau này.
Năm 1973 kết thúc với những cuộc chiến đấu dai dẳng, gian khổ của trung đoàn 2, trung đoàn 141 ở khu vực Hoài ân, của trung đoàn 12 ở Hoài Nhơn. Sư đoàn 22 ngụy bị đánh thiệt hại nặng nề. Bước sang năm 1974, nhiệm vụ của sư đoàn Sao Vàng không còn là việc đánh bại sư đoàn 22 ngụy trong lấm chiếm nữa mà phải đánh quỵ hẳn sư đoàn cơ động này trong thế phòng ngự chiến lược của chúng.
Để thực hiện mục tiêu trên, vấn đề cơ bản đặt ra trước mắt sư đoàn là phải nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật và chuẩn bị cơ sở vật chất trong một thời gian hết sức ngắn. Đây là một vấn đề khoa học chứ không thể chỉ giải quyết bằng lòng căm thù và quyết tâm, vì ở mỗi thời điểm, tính chất của đối tượng tác chiến và tình hình đơn vị mỗi khác. Vào thời kỳ đánh Mỹ ác liệt trước năm 1970 ai cũng nghĩ loại được quân Mỹ ra vòng ngoài thì đội quân ngụy sẽ không có gì đáng kể. Nhưng khi quân Mỹ ngừng tham chiến và tiến hành chiến lược "Việt Nam hóa" thì đội quân ngụy không phải như trước năm 1970 nữa. Năm 1972, sư đoàn đã diệt gọn chiến đoàn địch trong và ngoài công sự nhưng mấy tháng qua, tuy đánh bại mọi cuộc phản kích của địch nhưng vẫn không tiêu diệt gọn được tiểu đoàn nào của chúng. Phát hiện vấn đề này, bộ tư lệnh sư đoàn thấy phải tính toán rất nhiều trong công tác xây dựng chất lượng đơn vị sắp đến.
Cuối tháng 12 , sư đoàn rút thêm hai tiểu đoàn của trung đoàn 12 ở bắc Hoài Nhơn ra huấn luyện, thay thế bằng tiểu đoàn 53 của tỉnh và hai đại đội của huyện Hoài Nhơn. Như vậy trong tay sư đoàn lúc đó có một trung đoàn và hai tiểu đoàn cơ động. Thời gian chỉ còn trên dưới ba tháng, nhưng công việc quá nhiều: chiến đấu, phòng giữ, xây dựng trận địa, xây dựng kho tàng, làm đường, sản xuất tự túc, chuẩn bị lương thực, thực phẩm... Để giải quyết những vấn đề cấp thiết trước mắt, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định thành lập ban chỉ huy cửa khẩu, điều khiển chiến dịch lấy gạo, thực phẩm ở vùng ven biển song song với việc thành lập ban chỉ huy công trường làm đường nối liền hậu cứ sư đoàn với hành lang Trường Sơn. Cán bộ từ đại đội trở lên được tập trung về sư đoàn tập huấn chiến thuật, nghiên cứu chiến dịch. Trong khi đó, bộ đội thay nhau huấn luyện, làm đường, làm kho, làm thao trường, lấy gạo... Một không khí thi đua học tập huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu dấy lên khắp các đơn vị
Do tổ chức chặt chẽ và khoa học, các đơn vị tập huấn cán bộ, huấn luyện bộ đội, tiến hành nhịp nhàng khẩn trương và đúng kế hoạch. Con đường từ Hoài ân nối liền với đường hành lang Trường Sơn dài hơn 30 ki-lô-mét được hoàn thành trong ba tháng. Rồi các xưởng may, các xưởng quân giới, lò rèn từ sư đoàn đến trung đoàn đã sản xuất, chế tạo được hàng vạn lựu đạn, bộc phá, thủ pháo, dao, cuốc, xẻng, may hàng vạn bộ quần áo.
Giữa tháng 3 năm 1974, khi mọi việc đã chuẩn bị chu tất, các trung đoàn, tiểu đoàn trực thuộc tiến hành đại hội đảng. Trong đại hội, đơn vị nào cũng xác định quyết tâm xây dựng thành đơn vị tiên tiến. Nhiều đơn vị đăng ký quyết tâm phấn đấu trở thành những tập thể anh hùng.
Bị đòn đau trong những cuộc hành quân càn quét từ cuối năm 1973, bước sang năm 1974, địch ở Khu 5 tuy vẫn tiếp tục đánh phá dai dẳng nhưng chiều hướng chung đang đi vào phòng ngự chiến lược. Chúng ra sức củng cố các tuyến chốt đối diện với tuyến chốt của chủ lực ta. Mặt khác, thường xuyên mở các chiến dịch tảo thanh ở các vùng chúng kiểm soát để "bình định" trở lại. Hàng trăm khu dồn lại chen chúc mọc lên dọc hai bên đường số 1 và ở vùng ven các thị xã, các thành phố.
Đầu tháng 4 năm 1974, đảng ủy Quân khu 5 họp, đánh giá thực chất chất lượng chiến đấu của bộ đội sau thời gian dừng lại củng cố và đề ra chủ trương tác chiến mới. Hội nghị nhất trí mở liên tiếp các đợt hoạt động trên toàn quân khu, sử dụng ba thứ quân, ba mũi giáp công, trên ba vùng chiến lược. Một kế hoạch tiến công tỷ mỉ được thông qua. Kế hoạch chia làm hai đợt: Hè từ ngày 21 tháng 4 đến ngày 10 tháng 6. Thu từ ngày 17 tháng 7 đến ngày 2 tháng 9.
Chiến trường Bình Định là một trong những hướng tiến công quan trọng của quân khu do sư đoàn Sao Vàng làm nòng cốt
Lúc bấy giờ, trên chiến trường Bình Định, địch vẫn chiếm ưu thế về binh hỏa lực, nhất là phương tiện và binh khí kỹ thuật. Chúng có thể nhanh chóng tập trung từ 20 đến 25 khẩu pháo 105, 155, từ 40 đến 60 xe tăng, 40 đến 50 lần chiếc máy bay phản lực, 20 đến 30 trực thăng trên một hướng chiến dịch.
Để giành thế chủ động và luôn tạo được ưu thế về binh hỏa lực trong từng trận chiến đấu, sư đoàn chủ trương kéo giãn địch ra hai phía nam và bắc tỉnh rồi nhanh chóng tập trung lực lượng đánh vào khu vực trọng điểm. Với phương án đó, bộ đội phải cơ động đi về hàng trăm ki-lô-mét, nhưng do được xác định và rèn luyện tốt nên phương án được quân khu phê chuẩn và đánh giá cao. Một yêu cầu quan trọng trong chiến dịch là phải đánh đúng chiến thuật đã xác định, phấn đấu tiểu đoàn diệt gọn đại đội địch, trung đoàn diệt gọn tiểu đoàn địch trong và ngoài công sự.
Cùng với sư đoàn Sao Vàng, lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định sẽ mở khu vực tác chiến riêng, vừa căng kéo địch trong đợt "rộ", vừa đánh "đệm" giữ thế chiến trường khi sư đoàn Sao Vàng cơ động chiến dịch. Phương án tiến công và nổi dậy của quần chúng cũng xác định rõ: Đồng bào trong các khu vực chiến đấu chủ yếu tham gia phục vụ bộ đội chiến đấu tại chỗ. Đồng bào các vùng kế cận, tổ chức tiến công vả nổi dậy tiến hành binh vận bức rút các chốt điểm, phá khu dồn, "ấp chiến lược".. Đồng bào các thị trấn, thị xã. chủ yếu đấu tranh chính trị làm rối loạn hậu phương địch. Đồng bào vùng giải phóng vừa tham gia tiến công, nổi dậy vừa phục vụ chiến đấu.
Trên cơ sở những kinh nghiệm trước đây, phương án hoạt động và tác chiến lần nay được hoàn chỉnh cả về chủ lực, địa phương, về quân sự, chính trị, binh vận trên qui mô toàn tỉnh. Chưa ra quân, nhưng niềm phấn chấn, lòng tin tưởng thắng lợi đã biểu lộ trên từng nét mặt của mọi người.
Giữa tháng 4, trung đoàn 2 và phần lớn các đơn vị trực thuộc sư đoàn bí mật rời căn cứ Hoài ân, vượt qua vùng rừng núi phía tây Phù Cát, luồn xuống đồng bằng đông Bình Khê, bất ngờ tiến công hàng loạt chốt điểm, "ấp chiến lược" được coi là vùng trọng điểm "bình định" của địch ở sát sân bay Gò Quánh và bắc thị xã Quy Nhơn. Phối hợp với bộ binh, các đơn vị hỏa lực của sư đoàn đã bắn vào sân bay Gò Quánh, trận địa pháo và quận lỵ Bình Khê. Sân hay Gò Quánh hoàn toàn bị tê liệt.
Bọn chỉ huy tiểu khu Bình Định nhốn nháo, khẳng định sư đoàn Sao Vàng đã chuyển xuống phía nam. Chúng vội và rút liên đoàn biệt động số 4 vào đối phó. Nhưng lính biệt động vừa rút, khu vực phía bắc cũng bắt đầu nổ súng. Trung đoàn 12 cùng với các lực lượng bộ đội địa phương, du kích tiến công, thu hồi toàn bộ tuyến chốt địch lấn chiếm cuối năm 1973 từ Cự Tài Đông lên An Quý đến đông Quy Thuận, áp sát thị trấn Tam Quan, vây chặt đồi 9, đồi 10, uy hiếp trực tiếp đường số 1, đoạn từ Tam quan đi đèo Bình Đê.
Giữa lúc chủ lực địch đang phải căng ra đối phó với sư đoàn Sao Vàng ở phía bắc và phía nam tỉnh, các lực lượng vũ trang tỉnh, huyện đồng loạt tiến công vào các chốt kẹp dân ở Phù Mỹ, Bình Khê, Phù Cát và Hoài Nhơn. Hơn một vạn năm nghìn nhân dân Phù Mỹ nổi dậy phá khu dồn Gò Rộng, Vạn Ninh. Hàng nghìn quần chúng ở Hoài Nhơn kéo đến bao vây bức rút chốt nhỏ, kêu gọi hàng trăm dân vệ ra hàng. Địch lo sư đoàn SaoVàng sẽ phát triển tiến công, cắt đứt đường số 19, giải phóng ba huyện phía bắc như mùa hè năm 1972. Để đối phó với khả năng theo chúng rất có thể xảy ra đó, chúng điều tiếp trung đoàn 47 vào Bình Khê hỗ trợ liên đoàn biệt động số 4 phản kích quyết liệt ở các khu vực xung quanh sân bay Gò Quánh. Hai tiểu đoàn bảo an của Khánh Hòa, Phú Yên cũng được lệnh hành quân ra phía bắc cùng với liên đoàn biệt động 6, liên đoàn bảo an 214 giữ các khu vực còn lại ở phía bắc tỉnh.
Cuối tháng 6, khi đã buộc địch phải phân tán lực lượng ở phía bắc và phía nam tỉnh, sư đoàn Sao Vàng bí mật bàn giao các khu vực vừa mở ra cho các lực lượng địa phương tiếp tục hoạt động, kìm chân địch để trở lại Hoài ân, chuẩn bị chuyển qua bước hai của chiến dịch. Trung đoàn 12 lặng lẽ rút khỏi khu vực Hoài Nhơn, luồn xuống vùng đông Phù Mỹ. Trung đoàn 2 và các đơn vi trực thuộc ngược trở ra tập kết phía đông Hoài ân chuẩn bị làm nhiệm vụ chủ yếu ở tây Phù Mỹ. Trung đoàn 141 , từ phòng ngự chuyển sang tiến công, đẩy lùi trận địa phòng ngự của địch qua phía đông sông Kim Sơn, sông An Lão.
Để tăng cường chỉ huy cho các hướng, thường vụ đảng ủy sư đoàn cử đồng chí Thân Trọng Sơn, quyền sư đoàn trưởng đi với trung đoàn 12, đồng chí Nguyễn Khắc Hào, phó chính ủy sư đoàn đi với trung đoàn 141
Theo kế hoạch của cơ quan tham mưu sư đoàn, các đơn vị vừa hành quân vừa làm công tác chuẩn bị và ôn luyện kỹ chiến thuật. Các trưởng trạm quân giới làm việc suốt ngày đêm, sản xuất thêm lựu đạn, thủ pháo, bộc phá, mìn. Các đơn vị công binh, vận tải khẩn trương làm đường, thiết bị trận địa cho pháo cơ giới, lót đạn. Tất cả đều gấp rút chuẩn bị cho đợt tiến công chính của sư đoàn.
Công việc bề bộn nhưng chỉ được phép giải quyết gọn trong 15 ngày. Nhân dân các xã ven biển Phù Mỹ đã huy động hơn 300 dân công cõng gạo lên, cõng đạn xuống cho trung đoàn 12, 4000 nhân dân Hoài ân tình nguyện tham gia phục vụ chiến dịch. Bí thư huyện ủy Hoài ân, Chủ tịch xã Ân Tín, xã Ân Phong dẫn đầu bà con đi vận chuyển, làm đường và xây dựng các trận địa hỏa lực.
Điều đáng phấn khởi là trước khi bước vào đợt tiến công lớn này, quân khu đã bổ sung cho sư đoàn tiểu đoàn pháo cao xạ 37. Sự có mặt của tiểu đoàn này đánh dấu một bước phát triển đáng kể của lực lượng pháo binh sư đoàn.
Ngày 17 tháng 7 chiến trường khu 5 nổ súng. Theo kế hoạch của quân khu, đợt hoạt động Thu sẽ có năm khu vực mở ra không đồng đều nhằm làm cho địch bị động, phải phân tán lực lượng đối phó và không phán đoán nổi khu vực nào là khu vực chủ yếu.
Ở Quảng Đà, sư đoàn 2, sư đoàn 304 tiến công các căn cứ lớn: Nông Sơn, Trung Phước, Thượng Đức, giải phóng bốn vạn dân. Các sân bay Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Phù Cát, Nha Trang bị pháo kích dữ dội.
Một tuần lễ sau, sư đoàn Sao Vàng nhận được điện của tư lệnh quân khu: "Sư đoàn 3 nổ súng đúng kế hoạch".
Đêm ngày 25 tháng 7, các trung đoàn được lệnh hành quân vào chiếm lĩnh trận địa. Lúc đó, bọn địch ở Bình Định vẫn chưa phán đoán được hướng tiến công chủ yếu của sư đoàn, vì lúc này các lực lượng vũ trang địa phương vẫn đánh rất mạnh ở phía nam Phù Mỹ - bắc Phù Cát, nhổ hàng loạt chốt kẹp dân, giải phóng liên hoàn bảy xã, thu hút toàn bộ trung đoàn 47 và liên đoàn biệt động số 4 vào giải tỏa.
Rạng sáng ngày 26, các đơn vị của sư đoàn Sao Vàng đồng loạt tiến công, tiêu diệt, bức rút 10 vị trí trên tuyến phòng thủ của địch ở Phù Mỹ và đông Hoài ân.
Trực Đạo, một cứ điểm kiên cố, án ngữ tây-bắc quận lỵ Phù Mỹ sau khi bị hỏa lực của sư đoàn bắn phá, các chiến sĩ đại đội 3 tiểu đoàn 3 đã xông lên san bằng cứ điểm này trong 12 phút.
Ở điểm cao Du Tự, vị trí tiền tiêu của địch trên phòng tuyến Hoài ân, được pháo 105 bắn thẳng của sư đoàn chi viện, các chiến sĩ tiểu đoàn 7 trung đoàn 141 đã diệt gọn một đại đội biệt động quân, làm chủ hoàn toàn trận địa.
Đại đội bảo an đóng ở Núi Nùng, một điểm cao nằm án ngữ bên đường số 1 cũng bị tiểu đoàn 2 trung đoàn 2 tiêu diệt gọn trong 15 phút, v.v.
Trận mở màn nổ đồng đều và gọn. Địch bị bất ngờ cả về quy mô và híơng tiến công. Tiểu khu Bình Định kêu cứu nhưng tên trung tướng Nguyễn Văn Toàn chỉ huy quân khu 2 ngụy cho biết phải đến mùa mưa mới có thể chi viện cho chúng được. Trước tình thế nguy ngập đó, một mặt bọn địch vội bỏ giở những cuộc giải toả ở đông Phù Cát, đưa liên đoàn biệt động số 4 và thiết đoàn 19 về Phù Mỹ đánh từ phía nam ra. Mặt khác lệnh cho liên đoàn biệt động số 6 tổ chức một cánh quân đánh từ phía bắc vào. Riêng điểm cao Du Tự ở Hoài ân, chúng chỉ phản ứng bằng hỏa lực, không có dấu hiệu nào cho thấy chúng sẽ dùng bộ binh chiếm lại như những đợt hoạt động trước.
Bộ tư lệnh sư đoàn nhận định: địch đã bị động về chiến dịch. Chúng bỏ Du Tự chứng tỏ không còn quân để rải rộng ra nữa. Thời cơ để tạo trận then chốt đã đến. Phải kéo bọn biệt động vào khu vực đã định, đánh đau, diệt gọn, đúng chiến thuật.
Để thúc địch giải toả nhanh, sư đoàn ra lệnh cho các đơn vị hỏa lực uy hiếp Đèo Nhông, Mồ Côi, Bình Dương. Các đoàn dân công, vận tải khi lên xuồng đường số 1 tiếp viện cho trung đoàn 12 được lệnh không cần xóa dấu vết. Tất cả những hoạt động đó làm cho bọn địch ở Phù Mỹ cuống quýt đòi bọn tiểu khu Bình Định phải giải tỏa nhanh, giải tỏa mạnh khu vực Núi Nùng, Diêm Tiêu, cửa ngõ vào quận lỵ Phù Mỹ.
Sáng ngày 27, từ căn cứ Trà Quang, liên đoàn biệt động số 4 có một chi đoàn xe bọc thép yểm trợ, chia làm hai mũi, mũi thứ nhất theo trục đường số 1 ra DiêmTiêu, Trà Lương đánh thẳng lên Núi Nùng, gò Mả Vôi, mũi thứ hai theo đường sắt tiến công vào cứ điểm Trực Đạo.
Sau một ngày đánh trả những đợt phản kích của bọn biệt động, các chiến sĩ giữ chốt được lệnh phá hủy toàn bộ các công sự rồi để ngỏ cho địch lên Núi Nùng và cứ điểm Trực Đạo lúc mặt trời sắp lặn.
19 giờ tối ngày hôm đó, trưởng ban trinh sát sư đoàn báo cáo điểm đứng ổn định của địch như sau: Tiểu đoàn 42 đứng ở khu vực Núi Nùng, gò Mả Vôi. Ban chỉ huy tiểu đoàn và một đại đội đứng ở thôn Trà Lương trên trục đường số 1. Tiểu đoàn 43 đứng ở Trực Đạo và dọc theo đường sắt về phía nam. Ban chỉ huy liên đoàn cùng xe bọc thép và lực lượng dự bị đứng ở bắc quận lỵ Phù Mỹ. Địch triển khai đội hình hai trước, một sau theo hình chữ V.
Sau khi phân tích, cân nhắc, bộ tư lệnh sư đoàn nhận thấy không thể một lúc diệt cả hai cánh quân địch ở phía trước mà phải kìm tiểu đoàn 43 biệt động ở hướng Trực Đạo, tập trung trung đoàn 2 và tiểu đoàn 5 tiêu diệt cụm quân chủ yếu từ Núi Nùng đến Trà Lương bằng chiến thuật vận động bao vây tiến công liên tục.
Dạo đó đang giữa mùa nắng. Đồng ruộng Phù Mỹ khô khốc. Bộ đội trên các hướng băng đồng vào vị trí chiếm lĩnh. Phân đội pháo cơ giới sau một ngày nằm chờ ở phía tây đèo Măng Lăng bắt đầu vượt đèo kéo pháo vào trận địa. Căng thẳng và hào hứng nhất là việc đưa khẩu pháo 105 lên núi Vùng Thoa để bắn thẳng. Khẩu pháo được tháo rời từng bộ phận, lặng lẽ chuyển lên đỉnh núi. Trên đó, một trận địa kiên cố đã được xây dựng từ mấy đêm trước. Công việc nặng nhọc, vất vả nhưng mọi người đểu tuyệt đối im lặng vì chốt địch chỉ cách đấy vài trăm mét.
Sau khi đưa được khẩu pháo đồ sộ, nặng hàng tấn lên trận địa an toàn, các pháo thủ mới thở phào, nhẹ nhõm. Trước nòng pháo, Núi Nùng hiện ra rõ dần. Đại đội trưởng Bích kiểm tra lại các liều phóng. Sự khủng khiếp của những viên đạn pháo bắn thẳng mà sức công phá của nó như những quả bom cỡ nhỏ đang được các pháo thủ chuẩn bị để trút xuống đầu bọn lính của liên đoàn biệt động số 4.
Nằm sừng sững bên đường số 1, cách quận lỵ Phù Mỹ sáu ki-lô-mét về phía bắc, Núi Nùng là một mắt xích quan trọng trong tuyến phòng thủ cơ bản của quân ngụy ở Bình Định. Mất Núi Nùng, Bình Định sẽ bị cắt làm đôi ở quãng giữa. Vì vậy sau khi một đại đội của tiểu đoàn bảo an 209 đóng trên núi bị tiêu diệt, bọn địch dã có sống cố chết đưa một tiểu đoàn biệt động ra líp lại khu vực này. Nhưng chúng không thể ngờ được rằng, đối phương đã chủ động bỏ ngỏ Núi Nùng và khu gò Mả Vôi để chuẩn bị tiêu diệt chúng lần thứ hai đau hơn, hiểm hơn.
Rạng sáng ngày 28. khẩu đội pháo 105 bắn thẳng đặt ở núi Vùng Thoa được lệnh nổ phát súng đầu tiên. Núi Nùng bị rạch nát bởi những tia chớp và tiếng nổ của đạn pháo bắn thẳng, bắn vòng cầu và đạn cối các loại. Qua sóng điện hai oát, tiếng bọn địch gào lên: "hãy dập tắt khẩu ca nông của địch ở tọa độ... đang bắn kinh khủng vào con cái tôi ở điểm cao 178'. Nhưng không một trận địa nào có thể cứu nổi chúng. Trận địa pháo Trà Quang đang bốc lửa và nổ dậy trời bởi kho đạn 105 trúng hỏa tiễn A12. Cứ điểm Đèo Nhông gần đó cũng đang bị súng 12.8 khống chế không ngóc đầu lên được. Tất cả các căn cứ khác trong khu vực nằm im thin thít trong lo lắng và sợ hãi.
Nửa giờ sau, hỏa lực ngừng bắn. Các đơn vị bộ binh được lệnh xuất kích.
Trận đánh kéo dài hơn một giờ. Đại đội 1 lần lượt quét sạch bọn địch trên các mỏm Núi Nùng. Ở các công sự còn lại, bọn giặc bung ra tháo chạy. Một toán hơn 30 tên cắm đầu lao vào trận địa của đội dự bị, bị tiêu diệt và bị bắt gần hết.
Dưới chân Núi Nùng, tại khu gò Mả Vôi, một trận đánh giữa các chiến sĩ đại đội 52 tiểu đoàn 5 với một đại đội biệt động cũng diễn ra quyết liệt. Vừa nghe tin Núi Nùng bị mất, bọn địch ở khu gò Mả Vôi đã hốt hoảng tháo chạy, nhưng các chiến sĩ ta đã bám sát sau lưng chúng. diệt và bắt gần hết.
Như vậy là trong hai giờ đồng hồ, ba đại đội của tiểu đoàn 42, lực lượng xung kích của liên đoàn biệt động số 4 đã bị tiêu diệt. Đại đội còn lại vả tiểu đoàn bộ vẫn còn đứng ở thôn Trà Lương. Tên liên đoàn trưởng vẫn chưa hết hy vọng chiếm lại Núi Nùng. Hắn ra lệnh cho tiểu đoàn 42 đào công sự trụ lại ở Trà Lương, đồng thời thúc xe bọc thép và cho bộ binh từ Phù Mỹ ra, kết hợp với tiểu đoàn 43 ở Trực Đạo đánh vào lưng đối phương, tạo điều kiện cho tiểu đoàn 42 chiếm lại Núi Nùng. Nhưng tất cả đều đã quá muộn. Tiểu đoàn 43, lực lượng mà hắn hy vọng và trông đợi đang bị tiểu đoàn 4 trung đoàn 12 bao vây làm cho khốn đốn ở Trực Đạo. Cầu Diêm Tiêu từ Phù Mỹ đi Trà Lương đã bị đánh sập.
Bộ tư lệnh sư đoàn đang tính toán nên đánh Trà Lương bằng cách nào tốt nhất thì nhận được điện của Tư lệnh Quân khu: "Sư đoàn 3 phải diệt và bắt gọn cụm quân địch ở Trà Lương. Tại đó có ban chỉ huy nhẹ liên đoàn 4 biệt động".
Nhận lệnh, tham mưu trưởng trực tiếp cầm máy làm việc ngay với trung đoàn 2 - trung đoàn được giao nhiệm vụ dứt điểm quân địch ở Trà Lương: Phải tổ chức chốt chặn thật chắc ở hướng nam. Thế nào địch cũng cho xe bọc thép từ Phù Mỹ ra tăng viện. Cần chú ý kiểm tra kỹ hai bên bờ sông, phục sẵn ở những nơi xe có thể vượt qua. Tổ chức tiến công càng nhanh càng tốt.
Đúng như dự đoán của sư đoàn, 8 giờ sáng ngày 29 tháng 7, bọn giặc tức tốc điều quân viện từ hai đầu. Ở phía nam, 12 xe bọp thép chở đầy lính định vượt sông Diêm Tiêu vào Trà Lương nhưng bị đại đội công binh trung đoàn 2 phục sẵn bắn cháy năm xe, phá tan đội hình cánh quân này. Ở phía bắc, tiểu đoàn 35 ngụy tấn công lên điểm cao 176 nhưng bị phân đội vệ binh sư đoàn chặn đứng lại. Bọn địch ở Trà Lương vẫn hoàn toàn bị cô lập.
Để nhanh chóng dứt điểm Trà Lương, sư đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 5 trung đoàn 12 và trung đoàn 2 đánh chiếm bàn đạp vào Trà Lương.
Ở hướng tiến công chủ yếu, được sự chi viện của hỏa lực, các chiến sĩ đang vận động qua những cánh đồng trống tiến vào Trà Lương. Trên đầu họ, những chiếc trực thăng vũ trang liên tiếp phục rốc két xuống đội hình tiến công của đơn vị. Trước tình hình đó, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn cao xạ Đinh Xuân Hòa ra lệnh nổ súng, tuy có xa nhưng ít nhất cũng kéo được trực thăng lại, giảm bớt khó khăn cho đơn vị bạn.
Phát hiện cao xạ ta bắn, bọn trực thăng vội vã lảng ra xa, nhường cho một tốp phản lực lao lới. Bầu trời Trà Lương, Trung Hội phút chốc rung chuyển trong tiếng gầm rít của những chiếc A.37 và AD.6. Nắng tháng 8 nóng rực trên mâm pháo, nhưng các pháo thủ vẫn bám sát mục tiêu.
Ngọn cờ trên tay tiểu đoàn trưởng Hòa vừa quật chéo xuống, những nòng pháo đã rung lên. Chiếc A.37 vừa lao xuống bỗng lật nghiêng bốc cháy. Những chiếc khác vội vã chuồn thẳng
Lúc này, bất chấp pháo địch bắn dữ đội xung quanh, các chiến sĩ tiểu đoàn 1, tiển đoàn 3 đang thọc vào Trà Lương như hai mũi dao nhọn. Cùng với tiểu đoàn 5, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 tạo thế bao vây chặt tiến công mãnh liệt vào Trà Lương. Quân địch ở Trà Lương bị tiêu diệt, nhưng do một số chiến sĩ thiếu cảnh giác nên tên trung tá phó liên đoàn trưởng biệt động đã cải trang, chạy thoát về Phù Mỹ.
Trận địa phòng ngự cơ bản của địch dài hơn 10 ki-lô-mét ở bắc quận lỵ Phù Mỹ hoàn toàn bị phá vỡ.
Cuối tháng 8, sư đoàn được lệnh dứt chiến.
Kết thúc đợt hoạt động sư đoàn đã đánh 105 trận, diệt hơn 3.500 tên địch (có 38 tên giặc lái máy bay; diệt gọn 19 đại đội, đánh thiệt hại nặng tám tiểu đoàn, bắn cháy 22 xe bọc thép, 42 máy bay các loại, phá hủy 22 pháo 105, bảy cối 106.7, 10 kho xăng, đạn.
Tổng két chiến dịch Hè - Thu, đảng ủy và bộ tư lệnh sư đoàn thống nhất đánh giá: Sư đoàn đã đánh đúng đối tượng chủ lực ngụy, tiêu diệt được một số lượng sinh lực và phương tiện đáng kể, đánh đúng chiến thuật với quy mô hợp đồng binh chủng có pháo xe kéo là một tiến bộ, đúng với phương hướng của một sư đoàn chủ lực. Qua tác chiến, bộ tư lệnh đã khẳng định khả năng phòng ngự cũng như khả năng tiến công của sư đoàn. Trinh độ tổ chức, chỉ huy của cán bộ, kỹ năng chiến đấu của chiến sĩ được nâng lên một bước mới.
Sư đoàn đã thu hút kìm giữ hầu hết lực lượng cơ động ngụy ở Bình Định, tạo điều kiện cho các lực lượng địa phương thực hiện tiến công và nổi dậy. Ngược lại, những hoạt động của bộ đội địa phương và lực lượng đấu tranh chính trị cũng như khả năng bảo đảm tuyệt vời về cơ sở vật chất của đảng bộ và nhân dân Bình Định là những việc quyết định sức mạnh và thắng lợi của sư đoàn
Hoạt động trên một hướng chiến dịch khá dài (ba tháng), phạm vi hoạt động rộng (từ bắc đến nam tỉnh), sâu trong vùng địch đã tiến hành "bình định", có hệ thống phòng ngự vững chắc, nhưng sư đoàn đã tập trung trí tuệ nghiên cứu kỹ chiến trường, lập phương án , xác định mục tiêu then chốt. huấn luyện bộ đội sát với yêu cầu, ý đồ tác chiến, tổ chức bảo đảm hậu cần chiến dịch, chiến đấu chu đáo. Mặc dù lúc này quân số mỗi đại đội chỉ có từ 30 đến 40 tay súng, nhưng bộ tư lệnh sư đoàn đã quyết tâm mở một hướng hoạt động trên phạm vi 100 ki-lô-mét, khiến địch phải dàn mỏng lực lượng ra đối phó và không đoán được hướng tiến công chính của ta.
Để buộc địch tung lực lượng ra giải toả, sư đoàn đã táo bạo đánh những mục tiêu hiểm yếu, đe dọa trực tiếp các căn cứ quân sự và hành chính quan trọng có tính chất sống còn của chúng.
Kéo địch vào khu vực đã chọn để tiêu diệt, nhưng cho vào bao nhiêu để đánh vừa sức và cho vào khu vực nào có lợi cho ta tiến công là một vấn đề phức tạp nhưng sư đoàn đã thành công. Việc đại đội 2 tiểu đoàn 2 rút bỏ Núi Nùng sau một ngày chiến đấu quyết liệt làm cho địch lầm tưởng là ta tháo lui do mất sức chiến đấu. Và chúng đã ào ạt tràn lên Núi Nùng như một kẻ chiến thắng. Chúng không biết toàn bộ công sự đã bị phá không chỉ do bom đạn mà do các chiến sĩ ta. Hơn nữa, ta cho bộ đội rút vào lúc chập tối là để rút ngắn thời gian củng cố công sự của địch. ệi vậy địch đã dồn lên mỏm núi nhỏ bé này một tiểu đoàn thiếu, không có công sự để sáng hôm sau nằm phơi lưng ăn đạn pháo của ta. Còn việc đánh sập cầu Diêm Tiêu và trận địa chốt của đại đội công binh trung đoàn 2 cùng với trận địa chốt của các chiến sĩ vệ binh, 12.8 ở bắc Đèo Nhông trong suốt quá trình chiến đấu là một cái "van" nhốt quân địch trong khu vực và ngăn cản quân địch ra giai toả.
Mặc dù tương quan lực lượng chung lúc đó, sư đoàn Sao Vàng còn kém địch về quân số, trang bị, nhưng trong những trận then chốt, sư đoàn đã tạo được ưu thế áp đảo đối với chúng. Thực hiện ý định này, cán bộ, chiến sĩ phải ngày đêm cơ động liên tục, nhanh chóng, dẻo dai, khắc phục khó khăn đưa pháo lên cao, vào gần, ngắm bắn trực tiếp. Bởi vậy lực lượng ta ít mà hóa đông, hỏa lực ta ít nhưng hiệu quả cao, gây khủng khiếp đối với địch.
Thắng lợi của chiến dịch Hè - Thu 1974 đã khẳng định được nhiều vấn đề cơ bản về huấn luyện, xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu và khả năng chiến đấu của sư đoàn cũng như của quân dân Bình Định. Đồng thời cũng thấy được những suy yếu rõ rệt của địch trong khả năng phòng ngự, giải tỏa. Nếu như cuối năm 1973 sư đoàn khẳng định được khả năng đánh bại lấn chiếm của địch, thì sau Hè - Thu 1974. Sư đoàn khẳng định được khả năng tiến công đánh vỡ các trận địa phòng ngự cơ bản của chúng.
Qua chiến dịch này, đảng ủy và Bộ tư lệnh quân khu 5 nhận định: Bộ đội chủ lực quân khu, nếu được chuẩn bị chu đáo, tập trung hợp lý, có khả năng đánh tiêu diệt địch trong công sự vững chắc cỡ quận lỵ. chi khu hoặc tương đương, giải phóng từng khu vực lớn. Sau khi tiến công tiêu diệt địch, phá vỡ từng mảng hệ thống phòng thủ cơ bản và kìm kẹp, ta hoàn toàn có khả năng tiêu diệt và đánh bại các cuộc hành quân giải tỏa của địch, phát triển thế tiến công, mở rộng thắng lợi.
Từ nhận định trên, căn cứ vào nghị quyết của Khu ủy Khu 5 về nhiệm vụ quân sự năm 1975, đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu xác định nhiệm vụ cụ thể đối với bộ đội chủ lực là phải tiêu diệt các lực lượng đồn trú trong quận lỵ, chi khu, các căn cứ từ tiểu đoàn đến trung đoàn cộng hoà thuộc hệ thống phòng ngự cơ bản của địch, tiêu diệt gọn từng tiểu đoàn, chiến đoàn. trung đoàn đi đến đánh thiệt hại nặng sư đoàn địch.
Đối với sư đoàn Sao Vàng, nhiệm vụ đánh quỵ sư đoàn 22 ngụy lại được đặt ra bức thiết. Lúc đó không ai nghĩ rằng, cái điều nung nấu dai dẳng hàng chục năm trời ấy, sư đoàn đã kết thúc một cách mỹ mãn vào mùa xuân năm 1975 - một mùa xuân có một không hai trong lịch sử chiến tranh giải phóng của dân tộc.