Tiểu sử, Hồi ký
Tác giả: Nhiều Tác Giả

Lịch Sử Sư Đoàn Sao Vàng

Chương 6

BẮC BÌNH ĐỊNH XUÂN HÈ 1972

1. SỨC MẠNH MỚI

Trong hai năm 1970 và 1971, chiến tranh "Việt Nam hóa" đã được Mỹ - ngụy đẩy tới đỉnh cao, nhưng chúng đã không đạt mục đích. Trái lại thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của ta ở Đường 9 - Nam Lào đầu năm 1971 đã giáng một đòn nặng nề vào cái công thức hỏa lực Mỹ + bộ binh ngụy. Và quyết tâm "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" của Đảng và Bác Hồ đã được khẳng định như một chân lý

Năm 1969, Mỹ tiến hành rút quân thí điểm, năm 1970 rút từng đơn vị có chọn lọc, và sang năm 1971, quân Mỹ đã phải cuốn gói xuống tàu về nước. Trên chiến trường Khu 5, giữa năm l971 chỉ còn lại lữ đoàn 173 Mỹ và sư đoàn Mãnh Hổ - Nam Triều Tiên.

Tình hình trên cộng với thắng lợi trực tiếp ở các chiến trường quân khu qua hai chiến dịch Xuân và Hè đã tạo cho quân dân Khu 5 một thế và lực mới; việc hoạt động phân tán tránh những trận nhỏ, lẻ của chủ lực không còn thích hợp nữa.

Cuối tháng 5 năm 1971, các trung đoàn 2 và 12 sau khi đánh những trận cuối cùng trong đợt hoạt động Xuân - Hè ở bắc và nam tỉnh Bình Định được lần lượt rút lên vùng giáp ranh và hậu cứ củng cố, để lại phiá sau cả một vùng giải phóng liên hoàn rộng lớn .

Thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị Trung ương Đảng tháng 5 năm 1971 và Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 6 năm 1971, ngày 29 tháng 6 năm 1971 , Đảng uỷ Quân khu 5 quyết định thành lập thêm sư đoàn bộ binh 771 và tập trung lại sư đoàn 3 Sao Vàng sau một năm tạm thời phân tán. Bộ tư lệnh sư đoàn hầu hết là các đồng chí chỉ huy sư đoàn trước đây có thêm một số cán bộ từ quân khu về. Bộ tư lệnh gồm các đồng chí Huỳnh Hữu Anh, sư đoàn trưởng, Mai Tân, chính ủy; Việt Sơn, phó sư đoàn trưởng, Trần Bá Khuê, tham mưu trưởng, Nguyễn Ngọc Tiến, chủ nhiệm chính trị, Nguyễn Hữu Xuân, chủ nhiệm hậu cần.

Các đơn vị có trung đoàn 2, 12 và trung đoàn 21 (thay thế trung đoàn 22 trước đây). Trung đoàn 21 được thành lập vào đầu năm 1965 tại Quân khu 3. Ba tháng sau, trung đoàn vào chiến trường cùng với trung đoàn 1 thành lập sư đoàn 2 Quân khu 5. Từ đó, trung đoàn đã tham gia những trận đánh nổi tiếng trong hai mùa khô 1966 - 1 967 như điểm cao 62 ( Sơn Tịnh - Quảng Ngãi), tiêu diệt gần 800 tên Mỹ, trận tiêu diệt gọn tiểu đoàn ngụy ở Đức An (Quảng Nam), trận Đồng Dương, Kỳ Sơn (Quảng Nam), v.v. Từ năm 1968 trở đi, trung đoàn tham gia giải phóng chi khu quận lỵ Khâm-Đức cụm cứ điểm Thượng Đức, quận lỵ Minh Long, núi Chóp Chài và nhiều nơi khác trên địa bàn Quảng Ngãi, Quảng Nam.

Trong lúc chiến trường quân khu gặp muôn vàn khó khăn thì trung đoàn 21 là một trong bốn trung đoàn chủ lực trụ lại hoạt động, lúc phân tán, khi tập trung đánh phá "bình định" nông thôn của địch ở đồng bằng Quảng Ngãi. Trong trung đoàn đã xuất hiện nhiều cán bộ, chiến sĩ xuất sắc. Trong trận Đức An, chiến sĩ Vũ Văn Cấp bị đạn gãy tay đã nhờ đồng đội chặt đứt phần da thịt còn lại, tiếp tục xung phong. Chính trị viên đại đội Trần Lương cùng đơn vị quần nhau với một trung đoàn Mỹ suốt 32 tiếng đồng hồ trên điểm cao 62 (Quảng Ngãi). Trong tình thế đại đội có nguy cơ bị tiêu diệt vì lực lượng quá chênh lệch. Lương tình nguyện ở lại thu hút, đánh lạc hướng địch cho đơn vị rút lui. Anh hy sinh anh dũng bên đống xác giặc với chiếc máy điện thoại và khẩu súng đã giập nát. Trung tuần tháng 11 năm 1971, trung đoàn được lệnh về đội hình sư đoàn Sao Vàng.

Cùng với trung đoàn 21; quân khu còn bổ sung cho sư đoàn ba tiểu đoàn, tiểu đoàn cao xạ 12,7, tiểu đoàn cối ĐKZ và tiểu đoàn công binh.

Việc tập trung trở lại sư đoàn Sao Vàng, đánh dấu một bước ngoặt mới trong so sánh lực lượng giữa ta và địch ở địa bàn Khu 5 nói chung và chiến trường Bình Định nói riêng. Lúc này trong đảng ủy sư đoàn có hai ý kiến khác nhau: Ý kiến thứ nhất cho rằng sư đoàn từ phương châm "tác chiến tập trung, phân tán linh hoạt" 'theo yêu cầu "diệt kẹp giành dân" của địa phương chuyển lên tác chiến tập trung hợp đồng binh chủng quy mô vừa và lớn là cả một khoảng cách lớn, đòi hỏi phải có thời gian huấn luyện và thực hành từng bước. Ý kiến thứ hai cho rằng phải đưa ngay sư đoàn vào quỹ đạo tác chiến hợp đồng binh chủng để phù hợp với yêu cầu phát triển của chiến trường. Hai luồng ý kiến, phản ánh hai khuynh hướng được đem ra thảo luận trong cán bộ toàn sư đoàn. Cuối cùng Đảng ủy nhất trí với ý kiến thứ hai, nhưng nhấn mạnh : Khẩn trương ở đây không có nghĩa là đốt cháy giai đoạn mà phải đi từng bước với tinh thần tích cực nhất cách mạng nhất. Đây là thắng lợi đầu tiên của sư đoàn nhằm đặt nền móng cho việc tổ chức, huấn luyện đánh tập trung hiệp đồng binh chủng sau này.

Mặc dù tình hình trên chiến trường lúc đó vẫn liên tục xảy ra tác chiến nhưng Bộ tư lệnh Quân khu 5 dành hẳn cho sư đoàn Sao Vàng sáu tháng (từ tháng 7 đến tháng 12) để tập trung xây dựng, huấn luyện, một thời kỳ dừng lại dài nhất xây dựng cơ bản nhất từ ngày thành lập sư đoàn đến nay. Nhưng tiến hành huấn luyện có bài bản cho một sư đoàn chủ lực, trong hoàn cảnh hầu như chưa có một hạt gạo dự trữ, quân số, súng đạn, trang bị chưa đủ, sáu tháng trời chỉ là khoảng thời gian ngắn ngủi. Hoàn cảnh ấy, đòi hỏi đảng ủy và bộ tư lệnh sư đoàn phải tính toán chính xác, tổ chức khoa học mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ trong năm 1972.

Sư đoàn đặt việc chuẩn bị lương thực là trọng tâm số một, huấn luyện chiến thuật mới là then chốt và hoạt động liên tục giữ thế chiến trường là quan trọng. Theo tính toán của phòng tham mưu thì các đơn vị vận chuyển cho được lương thực, thực phẩm từ đồng bằng lên núi dự trữ ăn hết mùa mưa phải mất ba tháng, hai tháng tiếp theo dành cho huấn luyện quân sự, còn lại tháng cuối cùng, huấn luyện bổ sung, diễn tập và tổ chức đánh rút kinh nghiệm.

Tháng 7, với những trận mưa đầu mùa, những đêm trăng trong suốt không gian, sư đoàn bước vào chiến dịch vận chuyển khổng lồ mà sau này các chiến sĩ thường gọi đùa là chiến dịch "kiến tha mồi. Những dòng người, bằng nhiều con đường khác nhau, đổ xuống đồng bằng, tới các vùng giáp bịển. Một lần nữa đồng bào Bình Đinh lại bịểu lộ tấm lòng bao la của mình. Nhiều bà má, bà thím đã gánh gạo tới. gặp cán bộ địa phương la lối ầm ĩ: "Trời ơi, có vài chục ký gạo, mắc chi các chú trả tiền". Nhân dân. và đồng bằng Bình Định là nguồn dự trữ lương thực vô tận đối với sư đoàn.

Chiến dịch vận chuyển kéo dài liên miên hết ngày này qua ngày khác. Các mạng thông tin, trinh sát hợp pháp luôn được tung xuống đồng bằng nắm địch và bảo vệ tuyến hành lang vận chuyển.

Ban ngày ở các cửa rừng Suối Son, Dốc Đài, Cát Hanh, Cải Hiệp, bắc đường số 19... đông vui như hội. Những buổi chiều mát trời, máy bay ít quần lượn, những cánh võng dăng kín rừng, bộ đội dân công, các đơn vị vận tải có nam có nữ được dịp làm quen với nhau, rồi hát, hò, ghi địa chỉ hò hẹn... Tối đến, từng đại đội, tiểu đoàn bám sát cán bộ địa phương, đến các thôn ấp nhận gạo. Chỗ trực tiếp lấy trong từng gia đình, chỗ ra đồng bới các ngôi mộ ngụy trang lên, bên dưới là gạo, là cá khô, mắm,muối.. Mỗi đêm có hàng nghìn người tràn xuống đồng bằng lấy hàng. Nhiều chiến sĩ ghé thăm nhà chốc lát, rồi cõng gạo từ giã vợ con vội vã ra đi... Cứ như vậy, ngày nghỉ trên núi, tối tràn xuống đồng bằng. Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh Bình Đinh đã chỉ đạo ngành lương thực, bằng mọi bịện pháp kiên quyết cấp đủ gạo và thực phẩm cho sư đoàn đúng kỳ hạn. Ngoài nhân dân cung cấp, các chiến sĩ còn có nguồn lương thực, thực phẩm khá lớn của bọn lính Nam Triều Tiên. Mỗi ngày, cơ sở địa phương ta đã mua được của chúng hàng xe GMC gạo, thịt, cá hộp, máy thông tin và đôi khi cả vũ khí nữa. Chính Nguyễn Cao Kỳ trong hồi ký của y cũng phải cay đắng thừa nhận "ở chợ Quy Nhơn, người ta có thể mua bất cứ món gì từ khẩu phần lương thực và quần áo của quân đội cho đến máy giặt và lựu đạn. Súng đã được bán từ 25 đến 30 đô-la một khẩu và nếu ai mua xe bọc thép hoặc máy bay lên thẳng thì việc đó cũng có thể dàn xếp được"

Chiến dịch gạo diễn ra sôi nổi, nhưng không kém ác liệt. Nhiều chuyến, bộ đội vai gùi, tay nổ súng đánh địch cướp đường mà đi. Hàng trăm chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh. Có đồng bào mang thương tích suốt đời vì bị địch khảo tra. Có gùi gạo, gùi muối khi đổ vào kho còn đỏ loang vết máu.

Vất vả gian khổ, ác liệt, nhưng bộ đội lúc nào cũng vui. Cán bộ, chiến sĩ, gái cũng như trai luôn tìm mọi cách hợp lý hóa cách mang vác để đuổi, vượt năng suất của nhau. Chiến sĩ Nguyễn Sinh trung đoàn 2 vừa mang 115 ki-lô-gam thì đêm sau chiến sĩ nuôi quân Đinh Xuân Chung đã gùi được 125 ki-lô-gam. Với bộ binh, năng suất ấy là đáng nể, nhưng đối với chiến sĩ vận tải, gùi 125 ki-lô-gam vẫn chưa được gọi là tuyệt đỉnh. Trong một chuyến hàng đột xuất, phó trung đội trưởng Nguyễn Minh Phụng, người thanh niên Bình Định, với dáng cao và gày đã mang 245 ki-lô-gam, gấp gần năm lần trọng lượng bản thân, nêu kỷ lục cao nhất trong sư đoàn.

Những cô gái Bình Định, Quảng Ngãi, Phú Yên... hay hát hay cười như Nguyễn Thị Liên, Mai Thị Mến, Nguyễn Thị Văn, Đinh Thị Ét (dân tộc Ba-na) không chịu kém nam giới, đã liên tiếp gùi từ 70 đến 115 ki-lô-gam, bền bỉ đi hết chuyến này sang chuyến khác.

Cuối tháng 9, "chiến dịch gạo" kết thúc. Trong kho mỗi trung đoàn đã có từ 350 đến 650 tấn lương thực, thực phẩm, bảo đảm cho bộ đội ăn no liên tục trong sáu tháng. Vậy mà, trước đó một năm, mỗi trung đoàn không sao dự trữ nổi vài ba trăm ki-lô-gam gạo.

Gạo không những là vấn đề chiến lược mà nó chi phối ngay đến từng trận đánh của sư đoàn. Có nhiều chiến dịch vì thiếu gạo mà phải bỏ dở, phải rút bớt thời gian. Thậm chí vì thiếu gạo lâu ngày, các chiến sĩ kiệt sức, phải ra lệnh bỏ trận địa.

Nhìn những kho gạo ngồn ngộn, thơm phức mùi cám mới, các chiến sĩ càng thấm thía sự chỉ đạo sát sao của cấp trên đã nắm bắt kịp thời tình hình chiến trường, công tác tổ chức lãnh đạo tài giỏi của đảng bộ, chính quyền và cơ quan tài - mậu (tài chính - mậu địch) địa phương; và cảm thấy mình sung sướng được hoạt động và chiến đấu trên một vùng mà từ người già đến em nhỏ đều tận tâm với cách mạng. Sau này, tại đại hội mừng công chiến thắng năm 1972, trong danh sách tuyên dương những ngọn cờ đầu của sư đoàn, đảng ủy và bộ tư lệnh không quên ghi nhận em Nguyễn Thị Út 15 tuổi quê Mỹ Hiệp đã mua và chuyển 1000 ki-lô-gam gạo, thực phẩm cho sư đoàn Sao Vàng trong "chiến dịch gạo" khổng lồ này

Đợt tập huấn quân sự cho 500 lượt cán bộ từ đại đội trở lên đã được tổ chức trong một khu rừng già ở thượng nguồn sông Côn. Lớp tập huấn chính trị đào tạo giáo viên cho đơn vị cơ sở của sư đoàn cũng đạt kết quả tốt.

Công việc tiếp theo là phải xây dựng, tổ chức huấn luyện sư đoàn theo phương hướng tập trung. hợp đồng binh chủng, vận dụng chiến thuật thích hợp với bịên chế và trang bị hiện nay để có thể giải phóng từng vùng đất vững dân hoàn chỉnh.

Với các chiến trường Trị - Thiên, Tây Nguyên, chiến thuật bao vây tiến công liên tục và bao vây đánh lấn. không có gì xa lạ, nhưng đối với các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng hoạt động ở đồng bằng thì rất mới mẻ. Vì thế. việc tiếp thu chiến thuật đối với từng cán bộ, chiến sĩ không chỉ trong lĩnh vực quân sự mà cả trong tư tưởng và công tác hậu cần. Có vây lấn được không và vây lấn như thế nào trong điều kiện bom pháo địch như thế ? Có đánh liên tục được không, có giải phóng chi khu, quận lỵ được không, với điều kiện trang bị còn ít ỏi của ta hiện nay (Chú thích: "Thời gian này mặc dù được củng cố, nhưng trung bình mỗi đại đội chỉ có 45 tay súng. Hỏa lực lớn nhất của sư đoàn là hai khẩu cối 120 mm với 100 viên đạn") Đã có không ít cán bộ, chiến sĩ cho rằng "mèo nhỏ thì nên bắt chuột nhỏ" và "Ta không thể so bì với chủ lực của Bộ ở Tây nguyên hoặc Nam Lào được". Các đồng chí Võ Chí Công, Bí thư khu ủy. Chu Huy Mân, Tư lệnh Quân khu, Nguyễn Xuân Hữu, Thường vụ Khu ủy Nguyễn Nam Khánh, cục trưởng Cục chính trị quân khu, cán bộ các cơ quan quân khu gần hai tháng trời cùng sư đoàn nghiên cứu, chiến thuật, cách đánh xuống từng thao trường, từng sa bàn, nêu vấn đề, dựng tình huống và thảo luận, giải quyết cụ thể từng vướng mắc của bộ đội.

Có lẽ không có năm nào, mùa huấn luyện nào lại sôi động, khẩn trương và hào hứng như mùa huấn luyện năm ấy. Mưa liên miên, thao trường lúc nào cũng ướt nhão. Hầu hết chiến sĩ chỉ còn một bộ quần áo, ngày tập ướt, đêm đốt lửa hong dưới hầm, sáng dậy lại mặc ra thao trường. Nhiều đồng chí bị thương, xin ra viện trước thời hạn, hoặc bị sốt rét đã dăng võng cạnh lớp học, cạnh sa bàn, không chịu bỏ dở buổi học chiến thuật. Ai cũng mong sớm được đánh lớn, tiêu diệt lớn giải phóng lớn.

Trong học tập chiến thuật, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã nghiền ngẫm từng động tác, từng chi tiết, tìm ra cách xử lý thích hợp để nâng cao hiệu suất chiến đấu. Sau đây là một ví dụ.

Trên thao trường, đang lúc bộ đội phát triển đánh vào trung tâm (căn cứ địch), chủ nhiệm chính trị sư đoàn chỉ xạ thủ B.40 Đoàn Ngọc Xưởng ra tình huống :

- Hỏa điểm địch xuất hiện trước mặt, cách 15 mét đang bắn xả về hướng đồng chí.

Người chiến sĩ nhanh nhẹn nằm xuống bắn nhưng địa hình dốc đứng không thể nằm bắn được. Một thoáng suy nghĩ, anh đứng bật dậy ngắm vào lô cốt. Đội hình đơn vị tràn lên. Nhưng chủ nhiệm chính trị đã nói lớn :

- Đồng chí trúng đạn khi đứng lấy đường ngắm.

- Dẫu (hy sinh), tôi vẫn đứng bắn - Xạ thủ B.40 trả lời dứt khoát.

- Nhưng đồng chí hy sinh mà hỏa điểm địch vẫn còn, coi như chưa hoàn thành nhiệm vụ - Chủ nhiệm nói.

Cả thao trường im lặng và vấn đề được thảo luận sôi nồi mấy ngày liền trong đơn vị. Ngày thứ ba, Xưởng lên trình bày cách xử trí của mình. Anh nói: "Tôi sẽ rèn luyện cách lấy đường ngắm từ tư thế nằm chuyển sang đứng bắn thật nhanh để khi bật dậy vừa tầm là bóp cò ngay, không cần phải ngắm nữa. Và tình huống có thể diễn ra là: Trong khi đạn địch đang bay tới người tôi thì đạn của tôi cũng đang bay tới lô cốt địch. Tôi có thể hy sinh, nhưng mục tiêu địch cũng bị diệt".

- Đó đó, cái chính là ở đó - Chủ nhiệm chính trị xúc động giải thích thêm cho mọi người: Vấn đề đặt ra không phải sợ chết hay không sợ chết, càng không nên dựa vào lòng dũng cảm đề đánh ào, đánh ẩu. Mục tiêu của huấn luyện cũng như chiến đấu là phải tìm và rèn cho mình có được cách đánh tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ, nếu có phải hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ là sự hy sinh cao quý, là bịểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu.

Trong công tác chính trị, phát hiện, khêu gợi và khuyến khích tính năng động chủ quan của chiến sĩ trong huấn luyện và chiến đấu là một phương pháp có hiệu nghiệm đề củng cố lòng tin chiến thuật và rèn luyện trở thành người chiến sĩ có bản lĩnh là việc làm thường xuyên của cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị trong mùa huấn luyện năm ấy và cả về sau này.

Gần kết thúc đợt huấn luyện cơ bản, trời vẫn mưa liên miên. Sáng nào ra thao trường, bộ đội cũng phải lấy gàu múc cạn nước trong các công sự. Trong khi bộ đội vẫn say sưa học tập chiến thuật bao vây tiến công liên tục và bao vây đánh lấn thì trung đoàn trưởng trung đoàn 2, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 và một số cán bộ tham mưu đã bò tới sát đồn An Bảo ở xã Mỹ Lộc, Phù Mỹ, chuẩn bị cho trận đánh thử nghiệm chiến thuật. Kết quả của đợt huấn luyện sẽ được thể hiện một phần qua trận đánh này

An Bảo là một đồn nhỏ do đại đội bảo an số 190 đóng giữ. Ngoài đồn có hai đại đội cộng hòa đóng rải rác ở các khu vườn hoang. Sư đoàn quyết định sử dụng tiểu đoàn 3 do tiểu đoàn trưởng Đoàn Mai Ngữ chỉ huy đánh trận này.

Theo phương án, đại đội 3 được tăng cường năm đại đội hỏa lực để tiêu diệt cứ điểm An Bảo bằng chiến thuật tập kích hợp đồng binh chủng. Hai đại đội cộng hòa đứng ngoài sẽ do đại đội 1 và 2 của tiểu đoàn tiêu diệt bằng chiến thuật vận động bao vây tiến công liên tục.

Trước giờ nổ súng hai ngày, đại đội trưởng Đào Can đi chuẩn bị chiến trường về báo cáo trực tiếp với trung đoàn trưởng Vũ Quang Trắc: Đồn có ba lớp rào. Công sự và hỏa lực địch bố trí bình thường. Đại đội trưởng hứa trong vòng 30 phút đơn vị sẽ làm chủ trận địa. Căn cứ vào kết quả đạt được trong đợt huấn luyện chiến thuật vừa qua, trung đoàn trưởng tin đại đội 3 có thể thực hiện được lời hứa.

Chiều ngày 9 tháng 2 năm 1971, tiểu đoàn xuất quân trong không khí phấn khởi.

1 giờ ngày 10 tháng 2 hỏa lực của ta bất ngờ trút vào cứ điểm hàng trăm quả đạn cối, DKZ. Sáu khẩu cao xạ 12,8 quay nòng bắn vào cứ điểm. Lửa và khói bốc lên cuồn cuộn, tưởng chừng như cái đồn một chiều không quá năm chục mét ấy đã bị băm nát hoàn toàn.

Hoả lực vừa dứt, bộ binh được lệnh xung phong. Nhưng các chiến sĩ vừa mới xông vào hàng rào thứ nhất, đạn địch trong đồn đã bắn chặn quyết liệt.

Thấy hỏa lực địch vẫn còn rất mạnh, trung đoàn trưởng Vũ Quang Trắc đề nghị sư đoàn cho cối và ĐKZ bắn thêm 10 phút nữa. Hỏa lực sư đoàn lại trút vào cứ điểm dồn dập. Nhưng khi hỏa lực ta vừa dứt thì hỏa lực địch từ trong các lô cốt lại xuất hiện, hầu như trận pháo kích dữ dội vừa qua không mảy may ảnh hưởng tới chúng. Cối, ĐKZ đã bắn trượt lô cốt. Một tình huống phức tạp nữa lại xảy ra: Mìn thổi đặt không đúng nên không phá được hàng rào, bộc phá hết. Hàng rào địch hiện lên hầu như nguyên vẹn. Trong tình huống bức bách ấy, đại đội trưởng ra lệnh dùng súng phun lửa để phá rào. Những luồng lửa dài đỏ rực, nóng bỏng phụt liên tiếp cho đến lúc chỉ còn súng không. Tiếc thay, đó là một mệnh lệnh không tỉnh táo của người chỉ huy. Làm sao xăng và crếp có thể làm nóng chảy được ba lớp rào thép gai. Sốt ruột, một vài tổ bộ binh cố gắng tìm cách lách qua hàng rào toan đánh tạt sườn địch, nhưng đã bị thương hoặc hy sinh. Trung đội trưởng Vũ Đình Quý, chỉ huy mũi chủ yếu cũng bị thương nặng giữa hàng rào.

Trận đánh tạm dừng để xốc lại đội hình, rồi lại tiếp tục đánh, lại dừng... cho đến tối mịt. Đêm hôm ấy, sư đoàn ra lệnh cho trung đoàn phải dứt điểm trước 5 giờ ngày hôm sau. Suốt đêm, trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng và các trợ lý xuống giúp đại đội 3 tổ chức lại đội hình, thay đổi hướng đột phá. Nhưng cho đến 6 giờ sáng, đồn An Bảo vẫn như một chiếc gai nham nhở cắm vào mắt mọi người. Tình hình đó, buộc sư đoàn trưởng phải thay đổi chiến thuật. Đồng chí ra lệnh cho tiểu đoàn 3 tiến hành bao vây đánh lấn.

Tới 15 giờ, hai tốp máy bay khu trục thay nhau ném bom xuống An Bảo. Pháo binh địch cũng giội đạn tới tấp xuống đội hình vây lấn của tiểu đoàn. Bom pháo dứt, khói tan. Đồn An Bảo chỉ còn là một bãi đất trống. Địch đã rút chạy ra đường số 1. Kết qua trận đánh, địch chết 24, số còn lại chạy thoát, ta bị thương và hy sinh một số

Ở trong xóm, tiểu đoàn 3 (thiếu) do phó tiểu đoàn trưởng Nguyễn Khôi chỉ huy đã diệt 120 tên lính (Cộng hòa). Số còn lại, tháo chạy về đường số 1. Trận đánh thể nghiệm chiến thuật đầu mùa huấn luyện gian khổ của sư đoàn đã diễn ra như vậy. Ba hôm sau, từ hội nghị rút kinh nghiệm trận đánh, chủ nhiệm chính trị sư đoàn Nguyễn Ngọc Tiến gọi điện cho phóng viên báo quân khu, nói rằng bài viết về trận đánh An Bảo không nên gửi về tòa soạn.

- Vì sao thế ạ?- Anh phóng viên ngạc nhiên

- Vì không thể tuyên truyền được.

- Vâng, tôi biết đây chỉ là một trận đánh thể nghiệm chiến thuật nên không nói địa danh đơn vị mà chỉ đưa tin có tính chất biểu dương thôi. .

- Ố không, không phải như vậy - Chủ nhiệm chính trị thấy đồng chí phóng viên vẫn chưa hiểu ý mình, liền giải thích :

- Đó là một trận đánh tồi. Có thu vũ khí, bắt tù binh, làm chủ trận địa thật, nhưng theo yêu cầu chiến thuật thì chỉ là một con số không. Một trận đánh mà chuẩn bị chiến trường chủ quan, mang nặng tư tưởng dựa vào hoả lực, chiến thuật thì nhập nhằng, không đáng bịểu dương một chút nào cả.

Bài học của tiểu đoàn 3 nhanh chóng được phổ biến trong toàn sư đoàn. Các cuộc rút kinh nghiệm, trao đổi diễn ra sôi nổi khắp các đơn vị. Các thao trường lại sôi động ngày đêm. Những buổi huấn luyện bổ sung diễn ra thận trọng và nghiêm túc. Mọi người đều hiểu sâu sắc rằng: từ nay, đánh chiến thuật nào, phải hoàn toàn tuân theo quy luật và nguyên tắc của chiến thuật đó, nếu không, sẽ xảy ra thương vong vô ích. Trong một buổi chỉ đạo diễn tập, sư đoàn trưởng nói với phóng viên báo quân khu "Cái thắng lợi của trận An Bảo đã không diễn ra trong trận đánh ấy, mà đang diễn ra trên thao trường".

2. GIẢI PHÓNG HOÀI ÂN

Ngay từ khi các lực lượng vũ trang còn đang củng cố huấn luyện, phương án chiến dịch Xuân - Hè năm 1972 của Quân khu 5 đã được hoàn thành.

Từ nghị quyết của Bộ Chính trị và Quân ủy trung ương về nhiệm vụ quân sự, chính trị năm 1972. Thường vụ Đảng ủy Quân khu họp, khẳng định nhiệm vụ của toàn quân khu phải đẩy mạnh hơn nữa ba mũi tiến công: đòn tiêu diệt lớn của chủ lực, đòn nổi dậy của quần chúng ở đồng bằng và phong trào đấu tranh ở thành thị. Cụ thể sư đoàn 2 phối hợp với sư đoàn 320 và bốn trung đoàn độc lập khác mở chiến dịch tiến công tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân cơ động của quân đoàn 2 ngụy và một bộ phận tổng dự bị quân ngụy đến cứu viện, giải phóng thị xã Công Tum nối liền các huyện ở phía tây đường số 14 giữa hai tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc, ở nông thôn đồng bằng và vùng giáp ranh; sư đoàn 711 và sư đoàn Sao Vàng cùng chủ lực địa phương và lực lượng chính trị của quần chúng thực hành chiến dịch tiến công tổng hợp tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động của quân đoàn 2 và quân đoàn 1 ngụy, làm tan rã quân địa phương, phá vỡ các hệ thống kìm kẹp bằng chốt điểm cửa địch

Địa bàn hoạt động trong mùa tiến công chiến lược 1972 của các chiến sĩ Sao Vàng lại vẫn là tỉnh Bình Định, nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

Xuân - Hè năm 1972, sư đoàn có hai nhiệm vụ chủ yếu: Một là cùng quân và dân tỉnh Bình Định mở chiến dịch tiến công tổng hợp tiêu diệt một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, gồm cả cộng hòa, bảo an, dân vệ, chủ yếu là cộng hòa; phá vỡ hệ thống phòng ngự cơ bản của chúng, giải phóng quận Hoài Ân, hỗ trợ đắc lực cho phong trào nổi dậy của địa phương đẩy mạnh chiến tranh du kích, phối hợp với toàn chiến trường. Hai là cắt đứt con đường vận chuyển chiến lược số 19 ở phía nam tỉnh.

Phân tích cụ thể khả năng địch, ta, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định sử dụng sư đoàn (thiếu trung đoàn 12) vào khu vực chính ở Hoài Ân. Trung đoàn 12 (thiếu tiểu đoàn 4 và hai đại đội đặc công) được tăng cường 1 đại đội đặc công quân khu cắt đường số 19 ở nam tỉnh. Riêng tiểu đoàn 5 trung đoàn 21 tạm thời phối thuộc cho sư đoàn 2 giải phóng Ba Tơ (Quảng Ngãi).

Cũng thời gian này, thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Định tháng 9 năm 1971, các lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh đang có những cao trào thi đua sâu rộng và mạnh mẽ. :

- Cao trào diệt và làm tan rã lớn quân ngụy.

- Cao trào tiến công và nổi dậy giành quyền làm chủ ở nông thôn.

- Cao trào đấu tranh chính trị ở thành thị. Các lực lượng vũ trang tỉnh được huấn luyện cơ bản về chiến thuật, kỹ thuật.

Quần chúng nhân dân được tổ chức thành các tiểu đoàn, đại đội, có đủ dao, cuốc, hệ thống phát thanh, nội dung tuyên truyền đấu tranh với địch. Các mục tiêu tiến công, bao vây, bức rút, bức hàng được ấn định cụ thể. Phương án cơ bản của tỉnh chia làm hai khu vực. Khu vực phía bắc, kết hợp với đòn tiến công của chủ lực, quần chúng bảy xã ở Hoài Nhơn, Phù Mỹ với sự hỗ trợ của bộ đội huyện, du kích xã sẽ nổi dậy giải phóng hoàn chỉnh nông thôn, bao vây các thị trấn, quận lỵ. Khu vực phía nam, tập trung toàn bộ bộ đội tỉnh do ban cán sự tỉnh chỉ huy, tiến đánh một số cứ điểm địch, cắt đứt đường số 1 từ Phù Cát trở vào, mở rộng thêm vùng giải phóng, hỗ trợ trực tiếp cho đấu tranh chính trị của quần chúng trong thị trấn, thị xã... Một ban chi viện tiền phương do đồng chí phó chủ tịch tỉnh phụ trách được thành lập, chuyên lo cung cấp vận chuyển lương thực, thực phẩm cho các đơn vị chủ lực, địa phương. Các ban dân vận, địch vận, ban đấu tranh chính trị sôi nổi triển khai công việc làm dấy lên trong các tầng lớp nhân dân khí thế chuẩn bị ra quân đầy hào hứng và tin tưởng. Quyết tâm của tỉnh là năm 1972 sẽ đưa vùng giải phóng mở rộng như năm 1965 , năm sụp đổ của chiến lược "chiến tranh đặc biệt".

Sau khi làm công tác tổ chức chiến đấu ở cấp sư đoàn và hiệp đồng tác chiến giữa tiến công và nổi dậy với địa phương, các trung đoàn lần lượt xuất quân.

Trong một khu rừng vùng giáp ranh, chính ủy trung đoàn 2 Dương Minh Ngọ thay mặt đảng ủy và chỉ huy trung đoàn đọc thư kêu gọi của Khu ủy, Quân khu ủy và phát động phong trào thi đua, đuổi và vượt ngọn cờ đầu Đỗ Văn Đạo: "Một mình một súng cũng tiến công, đã nổ súng là xung phong tiêu diệt triệt để quân địch, đánh giặc hết sức mà yêu thương đồng đội cũng hết lòng".

Tiếp đó, trung đoàn trưởng Vũ Quang Trắc lần lượt trao cho ba trung đội trưởng bộ binh của ba tiểu đoàn 1, 2, 3 mỗi người một khẩu súng AK có lưỡi lê và một cuộn dây trói tù binh.

Cháu gái Võ Thị Hương 9 tuổi, cha mẹ bị giặc chặt đầu vứt xuống giếng, còn hai em nhỏ cũng bị bom Mỹ giết hại, đã khóc nức nở, run run đôi tay gầy guộc trao cho đơn vị hai mảnh khăn tang.

Trung đội trưởng Hà Đức Trọng tách khỏi hàng quân, nâng khẩu súng Ak và mảnh khăn tang trên tay thay mặt bộ đội hứa trước đảng ủy và chỉ huy trung đoàn sẽ cắm lá cờ chiến thắng tận sào huyệt kẻ thù, xứng đáng với truyền thống vẻ vang của đơn vị, xứng đáng với niềm tin của nhân dân.

Trên thao trường còn nồng mùi thuốc súng, các chiến sĩ trung đoàn 21 cũng sôi nổi hứa hẹn quyết lập công đầu.

Bên suối Đá tượng, nơi từng đẫm máu bọn xâm lược Mỹ năm trước, tiểu đoàn đặc công 40 cũng vang lên lời hứa quyết tâm: "Dù khó khăn ác liệt đến mấy, tiểu đoàn cũng san bằng cứ điểm Gò Loi, mở màn thắng lợi chiến dịch".

Ở cách sư đoàn gần trăm ki-lô-mét, các chiến sĩ trung đoàn 12 ở phía nam tỉnh cũng nhất loạt giơ tay hứa trước anh linh Bác Hồ: "Sống, anh dũng chiến đấu trên đường 19, chết cũng anh dũng, vẻ vang trên đường 19", quyết đánh giập đầu sư đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên, dựng lên những chốt thép trên đường số 19 theo yêu cầu của chiến dịch.

Cùng ra trận với sư đoàn lần này còn có các đồng chí sáng tác văn học. báo chí, họa sĩ, quay phim, chụp ảnh của quân khu.

Khí thế tin tưởng, hào hùng bao trùm lên cả sư đoàn. Chưa có lần xuất trận nào lại to lớn, sôi động đối với sư đoàn như khi bước vào Chiến dịch Xuân - Hè năm đó.

Vào những ngày quân dân miền Nam đang sôi nổi chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược này thì bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn thúc ép quân ngụy mở những cuộc thăm dò một loạt chiến trường như vùng Ba Biên Giới, Tây Nguyên, đồng bằng Nam Bộ, Trung Trung Bộ...Với những phương tiện trinh sát tối tân nhất, chúng vẫn không phát hiện được gì đáng kể. Điều đó làm cho Lầu năm góc yên tâm. Còn tên tổng thống bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu thì khẳng định : "Việt cộng đã quay về chiến thuật du kích chứ không thể đánh lớn. Những trận đánh nổi bật chỉ có thể nổ ra vào tháng 7 hoặc tháng 9". Vào cuối tháng 3 năm 1972, Ních-xơn cho rằng chiến tranh ở Việt Nam đang tàn lụi. Và chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của y sẽ thắng lợi. Một chân trời mới về cuộc rút quân trong danh dự của lính viễn chinh Mỹ đã hé mở. Một nhiệm kỳ tổng thống nữa, nhiệm kỳ kỷ niệm lần thứ 200 ngày thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ làm rạng rỡ tên tuổi y. Nhưng chỉ một tháng sau, khi y kịp nhận ra quy mô tiến công của ta thì tình hình đã không thể đảo ngược được.

Bắc Bình Định gồm hai huyện : Hoài Ân, Hoài Nhơn và bắc huyện Phù Mỹ, rộng khoảng 500 ki-lô-mét vuông. Đây là một địa bàn quan trọng, có cửa biển Tam Quan và hơn 50 ki-lô-mét đường số 1 chạy qua. Tại khu vực này, địch có ba quận lỵ, thị trấn: Tam Quan, Bồng Sơn, Hoài Ân với hai trung đoàn cộng hòa (40, 41 ) thuộc sư đoàn 22 ngụy, một đến ba chi đoàn xe tăng, xe bọc thép, 42 khẩu pháo. Ngoài ra, còn bốn liên đội và 50 đại đội bảo an, 200 trung đội dân vệ, thanh niên chiến đấu

Chiến dịch Xuân 1972 của sư đoàn Sao Vàng mang tên "Đ6" dự kiến có sáu trận đánh chính, trong đó Gò Loi là trận mở màn, Hòn Bồ là trận then chốt và quận lỵ Hoài Ân là trận đánh kết thúc. Sau đó tùy tình hình mà phát triển.

Trong lúc các đơn vị đang hối hả hành quân thì bỗng nhiên đêm ngày 7, các đồn bốt địch ở Hoài Ân nổi lên báo đọng. Cứ điểm Gò Loi được tăng thêm một đại đội thám báo, nâng số lính trong cứ điểm lên 280 tên, lộ rồi chăng? Tại sao địch lại báo động đột ngột như vậy

- Có thể do các "bố" vận tải đi "rấm" đạn lộ liễu quá chăng? Dưới đơn vị, các chiến sĩ xì xào, bàn tán, lo ngại. Còn bộ tư lệnh sư đoàn, qua các nguồn tin trinh sát và cơ sở của địa phương thì biết rằng địch đang chuẩn bị càn quét, thăm dò theo quy luật thông thường của chúng ở nam Hoài Ân. Đây là điều kiện để trận đầu ta tiêu diệt lớn quân địch, thường vụ đảng ủy sư đoàn kết luận, và ra lệnh cho các đơn vị nổ súng đúng kế hoạch. Sở chỉ huy sư đoàn được chuyển xuống dốc Sung, phía đông Gò Loi. Sư đoàn trưởng và chủ nhiệm chính trị trực tiếp xuống tiểu đoàn đặc công kiểm tra và chỉ huy trận mở màn.

Gò Loi là một cứ điểm kiên cố vào bậc nhất trong những cứ điểm lớn ở bắc Bình Định do quân Mỹ xây dựng từ năm 1966. Đó là ngọn đồi không cao lắm, nhưng đỉnh đồi nhọn như nón úp. Ba mặt chân đồi là bùn lầy và cỏ rậm. Từ chân đồi lên đỉnh có ba tầng lô cốt, hầm, hào bao quanh như những vành khăn. Tầng này cách tầng kia một bờ dốc cao ba mét dựng đứng và một lớp rào bùng nhùng bao quanh nằm giữa hai lớp rào đơn. Xung quanh cứ điểm là 14 lớp rào, chưa kể các bãi mìn và vật chướng ngại bao bọc bốn phía rộng hàng trăm mét. Cứ điểm có sân bay lên thẳng và đường nhựa chạy vòng quanh lên tới đỉnh, một hệ thống hầm ngầm có thể để được cả xe ô tô, dự trữ đạn được, thực phẩm để cầm cự hàng tháng nếu bị bao vây. Mấy năm qua, nhiều lần các đơn vị bộ đội chủ lực cũng như địa phương muốn tiêu diệt Gò Loi nhưng không đủ điều kiện. Tên đại úy Ngô Huỳnh, chỉ huy liên đội bảo an đóng trong cứ điểm thường huênh hoang rằng: "Bao giờ nước sông Kim Sơn chảy ngược, Việt cộng mới lấy được Gò Loi". Chiếm được Gò Loi, Hoài Ân sẽ mất một tiền đồn quan trọng và sẽ giáng một đòn nặng nề vào tinh thần binh lính ngụy trong vùng.

Để bảo đảm chắc thắng cho trận đánh, ngay từ khi huấn luyện, bộ tư lệnh sư đoàn đã cử chủ nhiệm chính trị Nguyễn Ngọc Tiến, chủ nhiệm đặc công Trần Văn Quảng cùng một số cán bộ có nhiều kinh nghiệm huấn luyện và chiến đấu xuống trực tiếp chỉ đạo tiểu đoàn đặc công.

Ban đầu, sư đoàn định dùng tiểu đoàn đặc công tiêu diệt Gò Loi bằng hai phương án. Một là mật tập hoàn toàn. Hai là nếu bị lộ giữa hàng rào thì chuyển sang tập kích bằng xung lực và hỏa lực. Qua huấn luyện, phương án trên bộc lộ những vấn đề chưa chặt chẽ. Như vậy, đặc công phải chuẩn bị cả hai chiến thuật trong một trận, đòi hỏi phải trang bị thêm súng đạn cồng kềnh rất trở ngại với thủ đoạn chiến thuật đặc công. Nhưng chỉ xác định một phương án đối với một cứ điểm kiên cố như vậy liệu có thỏa đáng không Đêm ngày trăn trở với những câu hỏi đó, cuối cùng bộ tư lệnh sư đoàn quyết định: chỉ sử dụng một phương án duy nhất cho đặc công: phương án mật tập. Đồng thời dùng tiểu đoàn 3 bộ binh sẵn sàng đánh theo phương án hai: vây lấn Gò Loi nếu đặc công bị lộ không diệt gọn. Như vậy là các tình huống đặt ra được giải quyết triệt để và mọi đơn vị được khẳng định về chiến thuật của mình để ra sức huấn luyện. Đây là một quyết định chính xác, không những sẽ loại trừ được mọi biểu hiện nhập nhằng trong tư tưởng, tổ chức,mà còn tạo nên sự nỗ lực cao độ, khắc phục mọi khó khăn trong chuẩn bị chiến trường và huấn luyện bộ dội.

Tiểu đoàn trưởng Lâm Quang Lự, đại đội trưởng trinh sát Đinh Nhu Hoàng đã ăn gạo rang, uống nước ruộng, đội cỏ khô nằm mấy tuần lễ liền giữa hàng rào cứ điểm Gò Loi để điều tra tình hình địch, xác định từng vị trí đặt súng và từng màu sắc nguỵ trang cho chiến sĩ. Phó trung đội trưởng thông tin Trần Văn Ngân nằm phục hết đêm này qua đêm khác trước vọng gác địch để nghiên cứu cách kéo đường dây điện thoại vắt qua xà ngang cổng đồn vì đường nhựa không thể đào lên được... Mọi người đều hiểu, trong chiến đấu không thể nhân nhượng một sai sót nào đối với yêu cầu của chiến thuật. Mọi sai sót đều phải trả giá và đương nhiên là bằng chính sinh mạng của những người tham chiến. Đánh cứ điểm Gò Loi là một điển hình về kiên định chiến thuật, và khổ công chuẩn bị, huấn luyện.

Đêm ngày 8, cả sư đoàn hồi hộp theo dõi từng thay đổỉ nhỏ trong cứ điểm Gò Loi. 1 giờ sáng, trận đánh bắt đầu. Cả cứ điểm địch phút chốc lóe sáng, bốc cháy và rung chuyển như một kho đạn đang bị phá hủy. Từ sáu hướng, bóng các chiến sĩ lao vút lên trong những chớp lửa, chia cắt Gò Loi thành nhiều mảnh nhỏ. Đại đội trưởng Lương Ngọc Chiến, sau khi đánh tung hai lớp rào cuối cùng, dẫn đầu mũi chủ yếu đánh thốc lên sở chỉ huy địch. Tiểu đoàn trưởng Lâm Quang Lự dẫn tổ hỏa lực chiếm lô cốt đầu cầu kìm các hỏa điểm địch cho các mũi phát triển sâu vào bên trong.

Nhờ có hệ thống hầm ngầm, lô cốt kiên cố, bọn địch sau phút bàng hoàng ban đầu đã hồi phục. Chúng dồn về các khu vực còn lại dùng lựu đạn phản kích. Tên liên đội trưởng và tên phó quận trưởng Hoài Ân lồng lộn thúc lính chống cự. Ba chiếc lô cốt vừa bị ta đánh lướt lại quét đạn ra xối xả.

Ở lô cốt phía bắc, chờ địch thay băng đạn, chiến sĩ Trịnh Xuân Bái, nhảy vọt lên nhét thủ pháo loại hai ki-lô gam vào lỗ châu mai. Chiếc lô cốt nảy lên trong một tiếng nổ lớn, khói phát ra đen ngòm. Khắp các vị trí trong cứ điểm, các chiến sĩ đang dồn địch vào thế chết. Biết không thể cứu vẫn được, tên liên đội trưởng dẫn theo một tiểu đội lén lút chui đường ngầm ra ngoài chạy thoát về Gò Dê. Tên phó quận trưởng dồn số lính còn lại lên tầng cao nhất, tung lựu đạn ra tới tấp. Tổ trưởng thọc sâu Đỗ Văn Cần hy sinh ngay dưới chân lô cốt. Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Quang Phụ và đại đội trưởng Lương Ngọc Chiến dẫn đầu năm chiến sĩ lao tới. Nhưng vừa bám được thành lô cốt thì lựu đạn địch đã đẩy Phụ ngã vật xuống. Người cán bộ thông minh và mẫn cán ấy đã hy sinh.

Từ lô cốt đầu cầu, tiểu đoàn trưởng Là ra lệnh tung đại đội dự bị vào hợp sức với các bộ phận của Lê Cương, Trịnh Xuân Bái, Đoàn Ngọc Xưởng... san bằng các ổ đề kháng còn lại. Vào phút thứ hai mươi cửa trận đánh, đại đội trưởng Lương Ngọc Chiến đã cắm được lá cờ truyền thống của tiểu đoàn lên đỉnh chiếc lô cốt ba tầng. Lá cờ chỉ còn một mảnh nhỏ. đẫm máu tổ trưởng Đỗ Văn Chân. Cũng đêm hôm ấy, trung đoàn 2 và 21 đã quét sạch quân địch từ chốt Đồi Đá. Bàu Sen, Phú khương xuống tới Gò Thị, Đồng Bịch, Gò Dê, khu gia binh và cầu Bến Vách, dồn số địch còn lại vào ngã ba Tận Thành để tiêu diệt. Cứ điểm Gò Loi, " cánh cửa thép " phía tây-nam bị đập nát khiến bọn địch trong quận lỵ Hoài Ân hết sức hoang mang. Chúng điên cuồng gọi máy bay và pháo oanh tạc xuống các vị trí đã mất, nhưng không bao giờ, vĩnh viễn không bao giờ chúng còn có thể trở lại vùng đất ấy được nữa.

Liên tiếp trong hai ngày 10 và 11 , bọn địch ở quận lỵ Hoài Ân tung bốn đại đội bảo an và hàng chục tốp trực thăng tới giải tỏa Gò Loi. Nhưng cả bốn đại đội đều bị tiêu diệt, 12 trực thăng bị bắn rơi, trong đó có một chiếc còn nguyên vẹn ở cánh đồng Vĩnh Hòa. Tên giặc lái chiếc máy bay này bị trúng đạn.

Địch ở Hoài Ân đang hết sức nguy ngập. Tuy thế, lính cộng hòa, lực lượng mà sư đoàn Sao Vàng đang nóng lòng chờ đợi vẫn không chịu ra giải tỏa. Ở các trung đoàn, có người chép miệng cho rằng, phương án phục kích đánh trung đoàn 40 nguỵ không khéo bị " khê ". Cũng có người nghĩ tới một phương án khác. Nhưng bộ tư lệnh sư đoàn kiên quyết giữ phương án cũ. Trung đoàn 2 vẫn ở vị trí chờ đợi, còn trung đoàn 21 và tiểu đoàn 4 được lệnh đánh ép mạnh phía bắc và đông-bắc Hoài Ân, thúc trung đoàn 40 nhanh chóng nhảy vào tham chiến. Bị ta đánh ép mạnh, sáng ngày 12, bọn địch buộc phải thành lập chiến đoàn đặc nhiệm 40 gồm hai tiểu đoàn bộ binh và một chi đoàn xe bọc thép đi giải tỏa Gò Loi. Vừa thấy bọn lính cộng hòa xuất hiện, bộ tư lệnh sư đoàn ra lệnh cho trung đoàn 2 và một bộ phận trung đoàn 21 vừa nổ súng vừa rút bỏ ngỏ phía đông-bắc Gò Loi cho địch tràn lên. Trưa ngày 13, địch theo đường số 3A thọc lên chiếm dãy điểm cao Hòn Bồ, khu vực Gò Dê và ngã ba 'Tân Thành.

Con mồi đã vào bẫy, chỉ còn chờ thời cơ chín muồi để sập xuống. Ngày 14, trung đoàn trưởng trung đoàn 2 báo cáo lần cuối cùng quyết tâm của trung đoàn, tiêu diệt chiến đoàn 40 tại khu vực Hòn Bồ bằng chiến thuật vân động bao vây tiến công liên tục. Tư lệnh sư đoàn đồng ý và hỏi trung đoàn có yêu cầu gì thêm trong trận đánh " ra mắt " chiến thuật này không

- Báo cáo sư đoàn trưởng, tất cả đã được chuẩn bị đầy đủ.

- Nhưng đây là trận "thí điểm" thứ hai đấy anh Trắc nhé - Sư đoàn trưởng nhắc.

Một thoáng, cả trung đoàn trưởng và sư đoàn trưởng đều nhớ đến trận đánh An Bảo hồi tháng 2. Bài học không thành công của trận đánh ấy, hôm nay gợi lại cho các đồng chí chú ý hơn nữa về công tác tổ chức chỉ huy, hiệp đồng chiến đấu...Làm việc với trung đoàn 2 xong, sư đoàn trưởng ra lệnh cho tiểu đoàn 4 trung đoàn 12 đánh chiếm núi Lại Khánh và cầu Giáo Ba, không cho địch từ Bồng Sơn lên, Hoài Ân xuống và cử tham mưu trưởng Trần Bá Khuê xuống tăng cường chỉ huy trung đoàn 2, phó sư đoàn trưởng Việt. Sơn xuống trung đoàn 21 .

Phương án tiêu diệt chiến đoàn đặc nhiệm 40 ngụy đã được chuẩn bị hoàn chỉnh. 24 giờ đêm hôm ấy. sau khi nắm lại tình hình, nhận thấy sở chỉ huy tiểu đoàn địch đã lên mỏm 2 dãy Hòn Bồ, chứ không còn ở Gò Dê như trước, sư đoàn trưởng quyết định chuyển hướng tiến công chủ yếu của tiểu đoàn 2 từ Gò Dê lên mỏm 2 dãy Hòn Bồ. Sự thay đổi đột ngột này khiến tiểu đoàn 2 không kịp xoay lại đội hình. Trung đoàn trưởng quyết định dùng đại đội đang ở hướng quan trọng làm nhiệm vụ chủ yếu thay đại đội 2. Mệnh lệnh của sư đoàn được trung đoàn 2 chấp hành nghiêm túc trước giờ nổ súng.

Trận đánh bắt đầu vào mờ sáng ngày 15 tháng 4. Bọn địch chưa kịp ăn cơm sáng đã bị cối, DKZ ta bắn dồn dập. Các mũi, các hướng của tiểu đoàn 2 vượt lên, áp sát mục tiêu. Trận đánh diễn ra rất nhanh. Địch bỏ chạy khỏi mỏm 3 lên mỏm 2 của dãy Hòn Bồ. Đại đội trưởng Bùi Văn Êm lập tức cho hai trung đội bám sát gót địch tiến công sang mỏm 2. Sau gần một giờ giành giật quyết liệt đại đội đã dồn địch lên mỏm đồi cuối cùng. Ở chân Hòn Bồ. tiểu đoàn thứ hai của địch cũng bị các chiến sĩ chia cắt, vây chặt. Không những chúng không chi viện được cho cánh quân trên núi mà bản thân cũng đang khốn quẫn. 12 chiếc xe bọc thép không dám tiến vào, nằm chết gí ở đầu làng Khoa Trường cho súng máy bắn lên "yểm trợ".

Chiến đoàn 40 ngụy đang ở trong thế cô lập và bị chia cắt với hậu phương của chúng. Bỗng đài kỹ thuật sư đoàn bắt được điện của địch gửi cho chiến đoàn 40: "Cho con cái về quận". Thời cơ tiêu diệt chiến đoàn 40 đã đến. Sư đoàn trưởng điện gấp cho trung đoàn 2, báo tin địch chuẩn bị rút khỏi Hòn Bồ, và ra lệnh mở đợt công kích toàn diện. Khẩu cối 120 của sư đoàn lúc ấy lại đĩnh đạc nhả đạn lên mỏm cao nhất của dãy Hòn Bồ. Đại đội 1 phát triển khá vất vả vì sườn núi dựng đứng, đại liên địch quét xuống như vãi mạ. Đang ở thế giằng co ở sườn phía đông thì phó chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Thanh Hồng kịp thời dẫn trung đội tăng cường của đại đội 2 đánh thọc từ phía tây-nam tới. Quân địch không còn cố thủ được nữa, vội vã xô nhau tháo chạy về phía bắc. Một toán quân khác tụt xuống khu mả vôi. Nhìn thấy đường nhựa trước mặt, tên đại đội trưởng mừng rơn, hô đồng bọn chạy tắt về phía Khoa Trưởng. Bỗng một tiếng thét "Hàng sống, chống chết" vang lên từ một bụi cây, và trung đội trưởng Hà Đức Trọng cùng các chiến sĩ lăm lăm súng AK bật lê sáng quắc đã ở trước mặt chúng. Cho đến tối hôm ấy, chiến đoàn đặc nhiệm 40 ngụy đã bị xóa sổ. Hàng trăm tên bị tiêu diệt, hàng chục tên khác bị bắt làm tù binh. Trận đánh vận dụng chiến thuật bao vây tiến công lên tục lần đầu tiên đã thắng lợi giòn giã. Những băn khoăn của một số người cho rằng với hỏa lực pháo mang vác, địa hình phức tạp, quân số có hạn trong điều kiện chiến trường Bình Định không thể áp dụng được chiến thuật này đã được giải đáp.

Trước ngày chiến trường bắc Bình Định nổ súng hai tuần lễ, mặt trận Tây Nguyên đã đồng loạt tiến công địch mạnh mẽ và chiến thắng vang dội. Già nửa sư đoàn 22 ngụy, đối tượng tác chiến chủ yếu của sư đoàn Sao vàng đang bị bao vây, tiêu diệt ở Công Tum. Hầu hết lực lượng cơ động của quân đoàn 2 và tổng dự bị ngụy bị thu hút vào khu vực này.

Trong khi đó, hướng tiến công thứ hai của tỉnh Bình Định do lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt đã tiến đánh hàng loạt chốt kẹp dân của bọn bảo an, dân vệ, giải phóng hoàn toàn năm xã ở Bình Khê, 30 thôn ở Tuy phước. Trung đoàn 12 từ ngày 11 tháng 4 đã cắt đứt đường số 19, giam chân toàn bộ sư đoàn "Mãnh Hổ" Nam Triều Tiên tại đó.

Ở phía bắc tỉnh, đêm ngày 14, hai tiểu đoàn đặc công 403, 406 giáng đòn thiệt hại nặng nề xuống chi khu Tam Quan và căn cứ Đệ Đức, nơi đặt sở chỉ huy trung đoàn 40 ngụy. Tình hình trên cho phép bộ tư lệnh sư đoàn Sao Vàng khẳng định: Địch không còn khả năng phản kích chiếm lại các vị trí đã mất ở tây-nam Hoài Ân thậm chí việc bảo vệ các căn cứ thiết yếu còn lại của chúng cũng hết sức khó khăn.

Từ khi mất Gò Loi, Hòn Bồ và bị và cắt ở khu vực Lại Khánh, quận lỵ Hoài Ân như cá nằm trên thớt. Một số tên ác ôn và bọn cố vấn Mỹ ở quận vội vã lên trực thăng về Quy Nhơn. Huyện ủy Hoài Ân kịp thời chỉ đạo các cơ sở vận động bà con phá khu dồn, trở về làng cũ. Theo lược đồ chiến dịch, tới trận thứ sáu, sư đoàn mới dứt điểm Hoài ân, nhưng trước những diễn biến thuận lợi sư đoàn báo cáo quyết tâm với quân khu: giải phóng Hoài Ân trong hai ngày 18 và 19 tháng 4. Tư lệnh Quân khu đồng ý và chỉ thị cho sư đoàn, từ lúc này, dùng vô tuyến điện thường xuyên liên lạc với quân khu, không làm việc theo phiên, giờ như trước nữa. Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định cũng chỉ thị cho hội đồng chi viện tiền phượng tập trung lực lượng và ưu tiên mọi mặt cung cấp cho sư đoàn thực hiện phương án .

Từ đêm 16 đến đêm 17, khu vực quận lỵ Hoài Ân luôn luôn sôi động. Pháo địch hầu như không lúc nào ngừng nổ ở các ngã ba, các bến lội và trên các con đường. Nhưng xung quanh quận lỵ, bộ đội ta không lúc nào ngừng di chuyển, đào công sự, thiết bị trận địa hỏa lực. Sư đoàn chủ trương bằng các hình thức chiến thuật vận động tiến công, tập kích hợp đồng binh chủng sẽ bóc toàn bộ cái vỏ cuối cùng xung quanh quận lỵ vào ngày 18.

Đêm 18. tiểu đoàn 3 trung đoàn 2 sẽ tiến hành vây lấn và giải phóng quận lỵ vào ngày hôm sau (19-4). Mờ sáng ngày 18, các trung đoàn 2, 21, tiểu đoàn 4 trung đoàn 12, tiểu đoàn 14 công binh, tiểu đoàn đặc công đã nổ súng đánh chiếm một loạt chốt điểm và "ấp chiến lược" bao quanh quận lỵ. Các trận đánh diễn ra quyết liệt dai dẳng. Bọn địch dốc sức chống trả.

Ở đồi 75, đồi Tranh, Núi Một, địch kéo cả pháo 105 và xe bọc thép cùng một tiểu đoàn cộng hòa ra phản kích. Ở Núi Một, trong tình thể hiểm nghèo nhất, hàng rào không đứt, địch quạt đại liên chặn cửa mở, phó trung đội trưởng Đinh Xuân Toan đã nằm áp bụng lên hàng rào kẽm gai rồi hô "trung đội hãy đạp lên lưng tôi mà nhảy vào ". Chiếc cầu dẻo dai kỳ lạ ấy đã đưa nhanh bộ đội tràn lên tiêu diệt cứ điểm địch. Xạ thủ B40 Đinh Văn Xuất đứng thẳng trong mưa đạn bắn tan hai khẩu đại liên cho đồng đội xung phong. Không sức mạnh nào có thể ngăn cản được ý chí và quyết tâm giải phóng của những người chiến sĩ ấy. Tại khu vực đồi 75, Truông Sỏi, địch ta chia nhau từng mỏm đồi nhỏ, chiến đấu suốt ngày trong bom, pháo ác liệt. Đói khát đến khô người. Trời sắp tối, trung đoàn 2 báo cáo xin tạm dừng để xốc lại lực lượng, sáng hôm sau đánh tiếp. Đồng chí Tư lệnh Quân khu vẫn theo dõi trận đánh qua đài, ra lệnh "phải dứt điểm Truông Sỏi và đồi 75 trước khi trời tối mới diệt được quận lỵ trong ngày mai". Thế là lại đánh tiếp. Sư đoàn trưởng quyết định chi viện thêm năm quả cối 120 đã yểm hộ cho bộ binh tiến công.

19 giờ ngày 18 tháng 4, trung đoàn 2 làm chủ toàn bộ khu vực Truông Sỏi, đồi 75, Núi Một. Trung đoàn 21 và tiểu đoàn đặc công đã tiêu diệt và làm chủ cầu Giáo Ba, Núi Bụt, Du Tự, Thanh Tú, thu nhiều vũ khí, đạn dược, trong đó có hai khẩu pháo 105 với hàng ngàn viên đạn. Nhận được tin này, sư đoàn trưởng chỉ thị ngay cho chủ nhiệm hậu cần và tiểu đoàn trưởng pháo mặt đất nhanh chóng đưa hai khẩu pháo 105 ra, gấp rút thành lập đại đội pháo xe kéo như dự kiến, kịp thời tham gia chiến dịch. Chiều ngày 18, khi chiến sự đang diễn ra ác liệt ở Truông Sỏi, đồi 75, Tư lệnh Quân khu điện hỏi: Địch bây giờ thế nào

- Chúng ném bom dữ dội xuống các khu vực vừa mất, hàng binh khai chúng đang cố thủ chờ viện binh.

- Chúng sẽ chạy đấy. Địch không còn lực lượng nào để chi viện cho Hoài Ân nữa. Trung đoàn 42 và 47 đang bị ta vây đánh ở Ngọc Tú và đông Tân Cảnh. Đường số 1 bắc Quy Nhơn, đường số 19 vẫn bị cắt. Trung đoàn 40 đang củng cố. Các đồng chí đưa ngay lực lượng vào vây lấn Hoài Ân

Thường vụ đảng ủy sư đoàn nhận định: Địch còn ngoan cố, nhưng hoang mang, cô lập, có nhiều khả năng rút chạy. Quận lỵ Hoài Ân là một căn cứ vững chắc nhưng ta có thể vây lấn với tốc độ nhanh, chứ không lấn dũi như phương án ban đầu.

Lúc này, tiểu đoàn 3 trung đoàn 2 đang áp sát phía nam quận lỵ. tiểu đoàn 9 trung đoàn 21. tiểu đoàn 4 trung đoàn 12 đã chiếm lĩnh phía đông - bắc quận lỵ.

3 giờ sáng ngày 19 , trong quận bùng lên 5 đám cháy lớn kéo theo những tiếng nổ. Tham mưu trưởng sư đoàn điện hỏi trinh sát, thông tin và tiển đội ở gần địch nhất xem đó là hiện tượng gì, nhưng không đơn vị nào biết một cách cụ thể. Cuối cùng, cơ sở huyện ủy Hoài Ân cho biết địch đang phá kho tàng và tập trung xe pháo hướng ra cửa chính phía đông.

Thế là đã rõ. Địch chuẩn bị tháo chạy. Sư đoàn trưởng kiểm tra lại các hướng vây lân rồi ra lệnh tiến công. Lúc đó, ủy ban quân quản huyện Hoài Ân do chủ nhiệm chính trị sư đoàn làm chủ tịch cũng vừa thành lập xong. Tổ văn thư làm việc thâu đêm, kịp thời in ấn những tài liệu, mệnh lệnh và lời kêu gọi của ban quân quản.

Bên ngoài, ánh chớp và tiếng nổ giật lên từng hồi, Ngay từ những loạt cối, ĐKZ đầu tiên, ba xe pháo và hai kho xăng, đạn của địch đã trúng đạn bốc cháy. Các tiểu đoàn siết chặt vòng vây quanh quận lỵ. Hốt hoảng, tên quận trưởng vội vã cho bảy xe bọc thép và một đại đội bộ binh đánh ra cổng chính phá vây.

Chiếc xe đi đầu vừa trườn lên bãi trống đã bị chiến sĩ B.40 Nguyễn Đăng Minh trung đoàn 21 bắn bay khẩu 12.7 trên xe. Cả đoàn xe và bộ binh quay lộn trở lại. Phía tiểu đoàn 3, tiểu đoàn trưởng Đoàn Mai Ngữ và chính trị viên Nguyễn Văn Nhỉ quyết định dùng bộc phá phá rào, đánh thẳng vào trong quận. Hai tiểu đoàn 1 và 2 từ phía thôn Đức Long, đồi 75, Núi Một cũng được lệnh tràn xuống các thôn An Chiểu, An Hậu chi viện cho tiểu đoàn.

Biết không thể cố thủ được nữa, tên quận trưởng Hoài Ân gọi máy bay ném bom xuống xung quanh hàng rào và ra lệnh tháo chạy. Địch bung ra khỏi quận lỵ sớm hơn dự kiến. Sư đoàn trưởng lệnh cho trung đoàn 21 và tiểu đoàn 4 trung đoàn 12 xuất kích chặn địch lại, không cho tên nào thoát khỏi thung lũng Hoài Ân. Gần một ngàn tên lính và 11 xe bọc thép chạy thục mạng, tràn ra giữa cánh đồng. Trung đoàn trưởng Nguyễn Thí và chính ủy trung đoàn 21 Nguyễn Định Phương huy động cả chiến sĩ nuôi quân, vận tải. y tá.... ra đánh địch ở các hướng.

Cầu Giáo Ba bị đánh sập từ hôm trước, địch ùn lại trên con đường độc đạo, hai bên là cánh đồng lúa nước. Hỏa lực các cỡ tới tấp giội xuống đầu chúng. Đám hỗn quân giạt tứ tung như bèo gặp gió xoáy. Từ các hướng, bộ đội ta xáp tới. Ở bờ sông Kim Sơn, chiến sĩ Đặng Thành Kính được đồng đội chi viện, vượt qua làn đạn địch, bắt sống một xe M113 và hàng chục tên lính đang bám vào xe chống cự. Vừa đánh, các chiến sĩ ta vừa kêu gọi địch đầu hàng. Tù binh mới đầu rải rác dăm, mười tên, sau đông dần, cuối cùng kết thành bầy trên mặt đường. Những chiếc xe bọc thép không còn người lái vẫn nổ máy ầm ĩ.

Tên đại úy Ngô Huỳnh, liên đội trưởng liên đội bảo an 48, sau khi thoát chết ở Gò Loi, sang chỉ huy liên đội bảo an số 24 ở cứ điểm Đồi Tranh. Với tám lớp rào và bãi mìn bảo vệ, có lô- cốt, hầm hào vừa được củng cố, hắn hy vọng có thể cầm cự đề tìm đường thoát về Bồng Sơn như đã trốn thoát ở Gò Loi. Nhưng khi hai chiếc trực thăng bay tới chi viện cháy đỏ như hai bó đuốc trước mắt hắn và những quả đạn cối nổ dồn dập ở xung quanh thì niềm hy vọng của hắn vụt tắt. Như một con thú bị trọng thương, hắn kéo xác tên lính bắn đại liên sang một bên, vồ lấy súng, nghiến răng siết cò như điên dại. Nhưng một vầng lửa màu da cam của chiến sĩ B.40 Bùi Văn Tám đã kết thúc cuộc đời làm chó săn ác ôn khét tiếng của hắn.

Từ 11 giờ ngày 19 tháng 4 năm 1972 , hơn ba vạn đồng bào Hoài Ân sống trong ách kìm kẹp của địch đã được hoàn toàn giải phóng. Cũng từ buổi trưa ngày hôm ấy, Hoài Ân vĩnh viễn nằm trong vùng giải phóng và trở thành một bàn đạp rất quan trọng của chiến trường Khu 5 sau này.

Ngay chiều hôm ấy, sư đoàn trưởng Huỳnh Hữu Anh điện về quân khu xin đánh tiếp Bồng Sơn, Đệ Đức tiến tới giải phóng toàn huyện Hoài Nhơn. Nhưng Tư lệnh Quân khu đã trả lời: "Dùng một bộ phận vây ép Bồng Sơn, tập trung lực lượng nhanh chóng diệt Bình Dương, giải phóng bắc Phù Mỹ".

Bức điện có phần bất ngờ đối với sư đoàn, vì lúc này điều kiện giải phóng Hoài Nhơn thuận lợi hơn Phù Mỹ. Nhưng tin ở tầm nhìn khái quát và quyết định đúng đắn của quận khu, nên mệnh lệnh được thi hành triệt để. Hai tiếng đồng hồ sau khi nhận lệnh, đoàn cán bộ chuẩn bị chiến trường do phó sư đoàn trưởng Việt Sơn phụ trách đi gấp xuống đông Phù Mỹ. Tiếng súng ở Hoài Ân đã dứt, nhưng ở phía Hoài Nhơn, Phù Cát, Vĩnh Thành và phía nam tỉnh vẫn nổ giòn giã.

Ngày 20 tháng 4, tỉnh ủy Bình Định điện cho sư đoàn Sao Vàng: Địch ở Quy Nhơn đang nhốn nháo trước việc mất Hoài Ân. Khí thế quần chúng phát triển rất mạnh. Bộ đội tỉnh, huyện đang đánh quân địa phương địch. Du kích và nhân dân khắp các huyện đang nổi dậy tước vũ khí bọn dân vệ, truy bắt ác ôn và ngụy quyền cấp xã. Đồng bào Kinh, Thượng đã bao vây bức rút quận lỵ Vĩnh Thành. Quần chúng đang nổi dậy uy hiếp quận lỵ An Nhơn. Ta có nhiều triển vọng để giải phóng lớn hơn khi sư đoàn tiếp tục đánh mạnh hướng đó.

Ngay đêm hôm ấy, phương án giải phóng bắc Phù Mỹ của Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định với phương thức kết hợp tiến công của chủ lực, bộ đội địa phương và nổi dậy của quần chúng đã được báo cáo về quân khu phê chuẩn.

Tổng kết đợt một chiến dịch (10 ngày), sư đoàn Sao Vàng đã tiêu diệt, bắt sống và làm tan rã 3.500 tên địch, diệt và bắt hai tiểu đoàn cộng hoà, hai liên đội bảo an, tám đại đội và 30 trung đội khác.

Vùng giải phóng vừa mở ra, ủy ban nhân dân cách mạng huyện Hoài ân đã ban hành chính sách của Mặt trận giải phóng. Hàng trăm thanh niên nam, nữ vừa thoát khỏi ách kìm kẹp của địch, theo lời kêu gọi của Mặt trận đã hăm hở lên đường tòng quân và phục vụ chiến dịch.

Chiến thắng Hoài ân nêu được ý nghĩa và bài học thành công trong chỉ đạo, chỉ huy của các cấp và hành động dũng cảm, mưu trí của cán bộ, chiến sĩ. Đó là khả năng nắm, bắt thời cơ nhanh, rút ngắn giai đoạn chiến dịch của bộ tư lệnh sư đoàn, là sự vận dụng chiến thuật linh. hoạt, phù hợp với tốc độ phát triển của một trận đánh của các trung đoàn, tiểu đoàn. Bình luận về Chiến thắng Hoài ân, báo Quân giải phóng khu 5 viết: Đây là một chiến thắng xuất sắc, nổi bật nhất giữa đồng bằng Trung Trung Bộ... rút được nhiều bài học tốt trong việc chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch, chiến thuật, chiến đấu, đẩy mạnh ba mũi giáp công tiến lên một bước mới.

Một tuần lễ sau, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy, Trung ương gửi điện nhiệt liệt khen ngợi thành tích của sư đoàn Sao Vàng. Đại tướng động viên cán bộ, chiến sĩ vừa chiến đấu, vừa củng cố, vượt qua khó khăn ác liệt kết hợp với chiến trường Bình Long, Thừa Thiên, Tây Nguyên... đánh cho chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ những đòn đau hơn nữa.

Đang lạc quan với tình hình quân sự ở miền Nam, bỗng chốc 31 chi khu, tiểu khu bị quân và dân ta tiêu diệt. Hơn năm triệu đồng bào đang nổi dậy làm chủ quê hương. Ba khu vực phòng thủ cơ bản, kiên cố vào bậc nhất như Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ đang có nguy cơ bị đập vỡ, tuyến phòng thủ ở Trung Trung Bộ cũng đang bị đe dọa cắt làm đôi. Bọn tướng tá Mỹ và bộ tổng tham mưu ngụy bị choáng váng trước đòn bất ngờ ấy. Ở đâu chúng cũng hứa hẹn "cố thủ", "tử thủ" nhưng rồi ở đâu cũng xin "cứu viện", "khẩn cấp tăng viện".

Tại Bình Định, quận lỵ Hoài ân mất khá nhanh đã khiến Giôn Pôn-van, trưởng đoàn cố vấn Mỹ ở quân khu 2 ngụy sững sờ. Y không tin cái quận lỵ được bố phòng vững như Hoài ân lại bị mất nhanh đến thế. Theo y biết thì lực lượng Quân giải phóng ở vùng này còn lại không đáng kể, trong lúc hành lang phòng thủ Tây Nguyên vẫn còn. Hắn phát khùng mắng nhiếc quân Nam Triều Tiên đã hành quân theo kiểu "đèn cù" và chửi quân ngụy tồi, vừa mới nhận 40 chiếc máy bay lên thẳng ở Phù Cát, nay hầu như không cất cánh được chiếc nào. Y lên trực thăng bay qua những khu vực vừa xảy ra chiến sự kiểm tra một vòng. Sau đó y ra lệnh cho tỉnh trưởng Bình Định cho tập hợp ngay hai trung đoàn 40, 41 và các đơn vị tăng cường, tổ chức chiếm lại Hoài ân

Tên tỉnh trưởng Bình Định trả lời là bọn lính ở đây có thể đã bị nhiễm cái bệnh không chịu đánh nhau mà Việt cộng đã gieo vào mảnh đất này từ bao giờ không ai biết.

Đột nhiên, hình ảnh đoạn đường số 19 giáp An Khê bị cắt đứt hiện lên trước mắt Giôn Pôn-val. Việc cắt đường số 19 có liên quan gì đến phía bắc tỉnh. Một chiến dịch nổi dậy rộng lớn sẽ nổ ra ở đây chăng? Cuối cùng y nói: "Đừng bị ám ảnh bởi tình hình cục bộ, sẽ không còn một lực lượng nào khác tăng cường cho Bình Định đâu. Với số quân còn lại, có máy bay, pháo binh. thiết giáp yểm trợ, các ông có thừa khả năng nghiền nát những gì Việt cộng có ở đấy". Đó là ý kiến cuối cùng của y với tỉnh trưởng Bình Định sau khi bị mất Hoài ân, Vĩnh Thành.

3. CHIẾN DỊCH PHÁT TRIỂN

Chưa ngủ được một đêm trọn vẹn ở vùng giải phóng Hoài ân, các chiến sĩ Sao Vàng lại cuốn võng, khoác balô sang bắc Phù Mỹ

Ý định ban đầu của quân khu, giải phóng hoàn toàn Hoài ân đã là thắng lợi lớn của mặt trận Bình Định trong chiến dịch này. Nhưng thời cơ và sự nỗ lực cụ thể của quân dân Bình Định đã tạo điều kiện cho sư đoàn hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn quá nửa thời gian. Tình hình chiến trường đồng bằng ven biển miền Trung vẫn còn thuận lợi. Hầu hết lực lượng cơ động địch đang phải điều ra mặt trận Trị-thiên và bắc Công Tum. Chúng sẽ còn bị hút thêm nữa khi ta tiến đánh Đắc Tô, Tân Cảnh và thị xã Công Tum. Tổ chức tiến công và nổi dậy của các lực lượng địa phương và quân chúng đang phát triển đều khắp và vững chắc, nhất là chiến trường Bình Định. Khả năng giải phóng tiếp huyện Hoài Nhơn (bắc Bình Định) đã trở thành hiện thực. Nhưng chặn cắt trước ở bắc Phù Mỹ không những có giá trị chiến thuật, chiến dịch, mà còn giáng đòn cân não đối với sĩ quan, binh lính địch. Từ đó, việc giải phóng Hoài Nhơn sẽ thuận lợi và triệt để hơn... Đó là những tính toán của Bộ tư lệnh quân khu 5 sau khi được tin giải phóng Hoài ân và vì sao lại ra lệnh cho sư đoàn Sao Vàng và Mặt trận Bình Định thọc ra giải phóng bắc Phù Mỹ chứ không cho đánh Bồng Sơn, Đệ Đức ngay để giải phóng Hoài Nhơn.

Ý định chiến dịch sắc sảo đó của quân khu được nhanh chóng quán triệt trong cán bộ chiến sĩ ngay dọc đường hành quân. Súng đạn, trang bị vừa thu của địch được cấp phát bổ sung cho các đơn vị. Bộ đội đi hối hả, lòng rạo rực với chiến thắng vừa qua và xốn xang khi đặt chân lên miền đất Phù Mỹ. Những kỷ niệm trong các chiến dịch diệt kẹp giành dân năm trước đang sống dậy, những quán nước Bà Già, quán nước ông Thọ, xóm Bà Cần, xóm Mới, xóm Cau. xóm Mít..., những ngọn đèn báo tin lành thao thức đêm đêm với những bà má, bà thím, những cô gái trầm lặng nhưng bất khuất, kiên cường.

Vượt qua đường số 1 là về miền đất quen thuộc của mình, về với nhân dân mình, dù đồn địch chỉ cách đầu làng vài trăm mét. Các đơn vị nối nhau đến vị trí tập kết. Dọc đường hành quân, nghe tin bộ đội vừa giải phóng Hoài ân về, nhân dân ùa ra đón với tất cả nỗi mừng vui.

Trên bờ đầm Châu Trúc, gió biển tràn vào mát rượi. Hàng trăm chiếc ghe, thuyền của đồng bào cắm sào đợi sẵn. Các đơn vị lần lượt xuống thuyền, súng đạn lích kích. Mặt đầm mênh mông, sóng dồn lên từng đợt. Những câu thăm hỏi vội vã, những tiếng cười cố nén của các cô gái. Nhiều chị vừa chống thuyền vừa khóc, khi biết tin người này người khác đã hy sinh.

Cho đến giờ phút ấy, bọn giặc ở căn cứ Bình Dương, ở nỗng Mồ Côi và ở các khu vực xung quanh đều không ngờ sư đoàn Sao Vàng có thể đưa được một phần lực lượng qua con đầm rộng mênh mông ấy, Vì đó là con đường bất ngờ nhưng cũng nguy hiểm và khó thực hiện nhất.

*

* *

Bước sang giai đoạn 2 của chiến dịch, sư đoàn hoạt động trên hai khu vực chủ yếu: Khu vực Bình Dương có trung đoàn 2 (thiếu tiểu đoàn 1), tiểu đoàn đặc công 40, hai đại đội đặc công 71 và 72 của trung đoàn 12 cùng lực lượng địa phương và nhân dân có nhiệm vụ tiêu diệt hai tiểu đoàn cộng hòa, một liên đội bảo an và 10 đại đội bảo an khác ở căn cứ Bình Dương, Đèo Nhông và Mồ Côi..., giải phóng hoàn toàn phía huyện bắc Phù Mỹ.

Khu vực hai gồm có trung đoàn 21, tiểu đoàn 4 (trung đoàn 12) tiểu đoàn công binh hoạt động dọc đường số 1 từ dãy núi Lại Khánh đến cầu Bồng Sơn, sân bay Thiết Đính, cùng địa phương cắt giao thông đường số 1, bao vây và tiêu diệt địch ở khu vực Lại Khánh. Văn Cang, Trung Lương và Thiết Đính, làm bàn đạp tiến đánh Bồng Sơn trong đợt tới .

Ngay sau khi giải phóng quận Hoài ân, bộ tư lệnh sư đoàn rút tiểu đoàn l trung đoàn 2 huấn luyện cấp tốc đánh thành phố. Đại đội pháo xe kéo đầu tiên của sư đoàn vừa thành lập được lệnh khắc phục mọi khó khăn, huấn luyện khẩn trương để có thể chi viện cho bộ binh trong những trận đánh sắp tới.

5 giờ sáng ngày 25 tháng 4, hơn hai chục đồn bốt địch từ bắc Đèo Nhông đến nam cầu Bồng Sơn bị các chiến sĩ Sao Vàng phối hợp với lực lượng vũ trang Bình Định tiến công. Sau khi làm chủ các ấp chiến lược Vân Tường, Vĩnh Bình và Dương Liễu, tiểu đoàn 2 giãn đội hình, tạo thành thế vây trên một hướng, cùng các phân đội hỏa lực bảo vệ cho tiểu đoàn 3 xáp vào vây lấn căn cứ Bình Dương.

Cũng như ở Gò Loi (Hoài ân), Bình Dương cấu trúc khá kiên cố; có 10 lớp rào kẽm gai, một hệ thống hầm, hào bao quanh, một trận địa pháo bốn khẩu 105, hàng chục khẩu cối 81, 60 và súng máy các loại. Từ khi tình hình bắc Phù Mỹ trở nên căng thẳng, địch cấp tốc điều một tiểu đoàn cộng hoà (thiếu) ra đóng giữ căn cứ này. Bình Dương là điểm tựa cho quân địch ở vùng bắc Phù Mỹ hoạt động. Nhổ được Bình Dương, ta sẽ tạo được thế cho các lực lượng địa phương Phù Mỹ nổi dậy tiêu diệt, bức rút hàng loạt chốt lẻ khác, phá vỡ tuyến phòng thủ cơ bản của địch trên đường số 1, cô lập hoàn toàn trung đoàn 40 và ngụy quyền ở Hoài Nhơn, cắt đứt sự chi viện giữa nam và bắc tỉnh. Đây là lối đánh hiểm hóc mà càng ngày bộ tự lệnh sư đoàn Sao vàng càng thấy rõ trong chỉ đạo tác chiến của quân khu.

Trước khi tiểu đoàn 3 vào vây lấn Bình Dương, tiểu đoàn đặc công 40 bất ngờ tiến công cứ điểm Mồ Côi, (bắc Bình Dương), đánh thiệt hại nặng một đại đội bảo an, nhưng không làm chủ được trận địa. Hai đại đội đặc công 71 và 72 bị lộ không đánh được trận địa pháo Đèo Nhông. Việc không diệt gọn được hai cứ điểm quan trọng này đã gây thêm khó khăn cho tiểu đoàn 3.

Lúc này, các chiến sĩ trung đoàn 2 , tiểu đoàn 4 công binh và tiểu đoàn 4 (trung đoàn 12) đã hoàn toàn làm chủ các mục tiêu dự kiến ở phía bắc

Đến lúc ấy, tên quận trưởng Phù Mỹ và tên trung đoàn trưởng trung đoàn 41 ngụy mới biết được phần nào ý định của ta, vội vã ra lệnh giải tỏa Bình Dương bằng mọi giá. Lập tức tiểu đoàn 3 trung đoàn 41 ngụy từ căn cứ Trà Quang được điều đến Bình Dương. Bọn lính bảo an, dân vệ cũng được lệnh bỏ các chốt Gò Thủ, Vạn An, Vạn Dinh... co về chi viện cho Bình Dương. Ngay từ ngày đầu, địch đã rơi vào tình thế bị động.

Trước tình hình đó, bộ tư lệnh sư đoàn ra lệnh cho trung đoàn 21 nhanh chóng tiêu diệt tiểu đoàn 3 trung đoàn 40 ngụy, tiểu đoàn 2 trung đoàn 2 phải chặn đứng tiển đoàn 3 trung đoàn 41 ngụy, không cho chúng tăng viện Bình Dương. Nhận lệnh tiểu đoàn 6 trung đoàn 21 liên tục tấn công, dồn tiểu đoàn địch xuống ngã ba sông Kim Sơn. Biết không thể đứng vũng được, quân địch lội sông rút qua Phú Văn, hy vọng có thể vượt chiếc cầu tre chạy về Trung Lương. Nhưng tiểu đoàn 4 trung đoàn 12 đã đợi chúng ở thôn Phú Văn. Tiến lên không được, quay lại thì đối phương đang đuổi sát sau lưng, một lần nữa, chúng phải lội sông qua Trung Lương. Nhưng chúng không sao vượt qua được khúc sông bé nhỏ ấy vì đạn đại liên súng cối ta ken dày trên mặt nước. Số phận tiểu đoàn 3 trung đoàn 40 ngụy đến đây đã kết thúc.

Thời gian đó, bọn địch ở căn cứ Bình Dương cũng đang trong vòng khốn đốn. Các chiến sĩ tiểu đoàn 3 trung đoàn 2 bất chấp bom dạn, bám chắc trận địa, lấn dần vào căn cứ địch. Dùng bộ binh phản kích không xong, tên chỉ huy tiểu đoàn ra lệnh đưa DKZ.90, M.72, M.79 và súng 12,7 lên các đỉnh lô cốt và các ụ đất cao, nhằm vào công sự của ta mà nhả dạn.

Nhận rõ thủ đoạn mới của địch, phó sư đoàn trưởng Việt Sơn ra lệnh cho trung đoàn 2 đưa các trận địa ĐKZ.75, cao xạ, cối 82 lên đường cái lớn và các gò cao sát hàng rào dập tắt các hỏa điểm của địch. Nửa giờ sau, hỏa lực địch câm bặt. Tiểu đoàn 3 đưa đội hình nhích lên từng bước một.

Gần hai ngày đêm, căn cứ Bình Dương trở nên xơ xác không lô cốt nào còn nguyên vẹn. Bốn khẩu pháo nằm phơi giữa trời, nòng pháo cong queo. Biết không chống đỡ nổi, tên tiểu đoàn trưởng xin máy bay ném bom vào trận địa vây lấn. Thêm năm chiến sĩ nữa thương vong. Tiểu đoàn trưởng Đoàn Mai Ngữ điều ngay đội dự bị vào thay thế. Anh hiểu rằng cái thòng lọng đang thít lại những nấc cuối cùng và không thể buông lỏng sợi dây đó ra được. Chính sự đối mặt kiên cường ấy của bộ đội ta đã làm cho quân địch trong căn cứ ngày một khiếp đảm. Chúng liên tục điện về Trà Quang xin giải vây để rút chạy.

Ở sở chỉ huy, trung đoàn trưởng điện ngay cho tiểu đoàn 3 và các đại đội trực thuộc bố trí đội hình đón lõng thật chặt, không cho một tên địch nào chạy thoát. Vừa lúc đó, trợ lý trinh sát báo cáo: "Địch chuẩn bị rút chạy".

Trung đoàn trưởng lệnh cho tiểu đoàn 2 khóa chặt đoạn đường số 1, ấp Vĩnh Bình và lệnh cho tiểu đoàn 3 xung phong vào căn cứ. Trưa ngày hôm đó, 480 tên địch từ trong căn cứ và các chốt xung quanh bị dồn đến cánh đồng Vĩnh Bình giữa vòng vây của tiểu đoàn 2 và đại đội công binh để rồi bị tiêu diệt, bị bắt sống toàn bộ ở đó.

*

* *

Mất Bình Dương, toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền ở bắc Phù Mỹ rơi vào cảnh rối loạn. Số tàn quận bị truy đuổi chạy nhào vào cứ điểm Mồ Côi. Tuy ở Mồ Côi quân của chúng còn đông, vũ khí còn nhiều, nhưng chỉ là một đám quân ô hợp. Nhiều tên lột bỏ quân phục, lẩn trốn về quê. Số khác nằm bẹp trên những bờ ruộng chờ trời tối .

Đồng bào Phù Mỹ nở ruột nở gan, chuẩn bị sẵn sàng để kéo đi bức hàng, bức rút đồn địch. Sáng ngày 27 tháng 4, dưới sự chỉ đạo của huyện ủy Phù Mỹ, đồng bào các xã phía bắc kéo đến bao vây các đồn địch còn lại. Ở Mồ Côi, hơn một ngàn đồng bào, có du kích bảo vệ đã ùn ùn kéo tới quanh cứ điểm, khí thế ngút trời. Rút kinh nghiệm những lần bao vây trước, ban chỉ huy các đại đội, tiểu đoàn dẫn đầu bà con xáp tới trong tiếng súng hỗ trợ của bộ đội và du kích. Họ nổi trống mõ, vung dao, cuốc, gậy gộc đe dọa bọn ngoan cố và phát loa kêu gọi binh lính trở về với nhân dân.

Thoạt đầu, trong cứ điểm còn bắn vài loạt súng, sau đó thì câm lặng hoàn toàn. Tới nửa đêm, địch trong cứ điểm đã vợi dần. Trước áp lực ngày càng tăng của đồng bào, bọn còn lại lặng lẽ rút chạy về đèo Phủ Cũ, kéo luôn cả bọn địch ở đây chạy về Bồng Sơn. Nhưng vừa xuống khỏi chân đèo. chúng đã lọt ngay vào trận địa phục kích của tiểu đoàn công binh. Bọn bại quân bị đánh tơi tả, chỉ còn khoảng một trăm tên chạy về Bồng Sơn, sống những ngày cuối cùng ở cái thị trấn đang thoi thóp này

Cuộc truy lùng bọn tàn quân ở bắc Phù Mỹ còn kéo dài mấy ngày sau. Đêm 27 trong lúc cán bộ chỉ huy tiểu đoàn 2 họp bàn phương án tiếp theo với các cán bộ huyện và bốn xã phía bắc huyện Phù Mỹ thì bác Tám và hai du kích đến cho biết địch còn lẩn trốn ở Hố Chuối có tới vài trăm tên.

Tiểu đoàn trưởng Hòa cảm ơn bác Tám rồi cùng với tiểu đội trinh sát lên đường. Nửa giờ sau. cơ sở ta cũng báo cho biết khu vực Hố Chuối (bắc điểm cao 344) còn 500 tên địch, gồm năm đại đội, bảy trung đội có chỉ huy và vũ khí đầy đủ. Bọn ngụy quyền sống sót ở bắc Phù Mỹ cũng kéo đến nhập bọn.

6 giờ sáng ngày 28, nhờ bác Tám dẫn dường, đội quân tổng hợp gồm các chiến sĩ tiểu đoàn 2, bộ đội huyện và du kích của bốn xã đã tiếp cận địch. Cuộc bao vây truy lùng kéo dài tới bốn giờ chiều. Các chiến sĩ vừa nổ súng, vừa kêu gọi đầu hàng. Cuối cùng những mảnh vải trắng xé từ quần áo lót được giơ cao và chúng lũ lượt kéo ra, đi đầu là bảy sĩ quan thuộc liên đội bảo an số 702. Đây là trận đánh ta bắt được nhiều tù binh nhất từ trước đến nay (gần 500 tên).

Như vậy là, trong thế phát triển của chiến dịch, với bốn ngày đêm liên tục tiến công, hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng vũ trang và nhân dân Phù Mỹ, sư đoàn Sao Vàng đã tiêu diệt, bắt sống gần 2000 tên địch, diệt gọn và đánh thiệt hại nặng ba tiểu đoàn cộng hòa, một liên đội bảo an và 10 đại đội độc lập khác, quét sạch hệ thống ngụy quyền trong vùng, đập tan tuyến phòng thủ dọc đường số 1 dài 20 ki-lô-mẻt.

Bắc huyện Phù Mỹ giải phóng. Tỉnh Bình Định bị cắt làm đôi. Ngụy quân, nguỵ quyền ở Hoài Nhơn như cá sa lưới lo sợ nhốn nháo. Số phận của chúng đã được định đoạt. Tính chất sắc sảo, lối đánh hiểm hóc của mũi tiến công ở bắc Phù Mỹ chính là chỗ đó .

Cùng với việc mất bắc Phù Mỹ, ngày 24 tháng 4, hệ thống phòng thủ Đắc Tô, Tân Cảnh bị quân giải phóng Tây Nguyên đánh cho sụp đổ hoàn toàn. Tên phó tư lệnh sư đoàn 22 ngụy cùng toàn bộ sĩ quan tham mưu bị ta bắt sống.

Nhận được những tin sét đánh đó, tên trưởng đoàn cố vấn quân khu 2 Giôn Pôn-van rất rầu rĩ. Trước khi ra quân khu 2, bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn đã nói với y rằng: "Ngài hãy đến mảnh đất đông dân, đầy biến động đó để làm rạng rỡ hơn nữa cái uy danh thần thoại của ngài về chiến tích "bình định" trên vùng đồng bằng bảy triệu dân của lưu vực sông Cửu Long, ở đó quân khu 2 ngài có sẵn một khu vực đông dân, đầy thù nghịch để làm việc. Ở đó có những viên tướng Việt cộng xứng đáng là địch thủ chống chương trình "bình định" của ngài".

Giờ đây, tình hình chiến sự đang đặt ra trước mắt Giôn Pôn-van và bọn chỉ huy quân khu 2 ngụy những câu hỏi hắc búa. Tin tức tình báo và những trận đánh binh chủng hợp thành có xe tăng, pháo lớn ở Đắc Tô - Tân Cảnh đã khẳng định hướng chính của đối phương vẫn ở bắc Tây Nguyên, khiến chúng không thể rút lực lượng ở đây. Trái lại, còn phải tăng cường thêm nữa vì "sư đoàn 320 Bắc Việt đang mở đường tiến về thị xã Công Tum". Nhưng những cuộc tiến công và nổi dậy như gió cuốn ở đồng bằng ven biển mà sự thất thủ Hoài ân,Vĩnh Thành, bắc Phù Mỹ đang là những dấu hiệu đầy lo ngại dẫn tới những thất bại lớn hơn của kế hoạch "bình định nông thôn" ở vùng đông dân, nhiều của này. Cuối cùng, dù muốn hay không, chúng cũng không thể bỏ Công Tum, tiền đồn của hệ thống phòng thủ chiến lược Tây Nguyên. Vì thế vùng đồng bằng ven biển miền Trung nói chung, tỉnh Bình Định nói riêng, quân dân ta càng có điều kiện để phát triển thắng lợi của mình.

Nắm chắc thế bí của địch, nhận rõ thế phát triển thuận lợi của ta ở Bình Định, ngay đêm 26 tháng 4, khi trung đoàn 2 vừa dứt điểm Bình Dương, Bộ tư lệnh Quân khu 5 ra lệnh cho Mặt trận Bình Định và sư đoàn Sao Vàng nhanh chóng đánh chiếm Bồng Sơn, Đệ Đức với tốc độ nhanh nhất, nhằm áp đảo, giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Nhơn.

Những ai từng qua Bồng Sơn vào những năm 71, 72 đều ngạc nhiên trước sự phát triển của thị trấn này. Những ngôi nhà hai tầng, ba tầng nằm kéo dài hai bên đường số 1, những tiệm buôn, nhà chứa, tiệm nhảy dành cho lính Mỹ, lính ngụy mọc lên như nấm. Nhiều người cho rằng, nếu không có cuộc tiến công của sư đoàn Sao Vàng, giải phóng thị trấn vào mùa hè năm 1972 và sự tàn phá của bom đạn vào mùa thu năm đó, Bồng Sơn đã phình ra thành một trung tâm buôn bán thứ hai của bọn ngụy quyền ở Bình Định sau thị xã Quy Nhơn.

Chấp hành mệnh lệnh của quân khu, sư đoàn trưởng lệnh ngay cho các đơn vị hành quân ra phía bắc. Chiến thắng Phù Mỹ đã chứng minh, nếu biết tận dụng tốt thời cơ chung, tạo nên thời cơ trực tiếp, tận dụng sức mạnh của địa phương, dù lực lượng ta ít vẫn nắm được quyền chủ động tiến công từ đầu đến cuối chiến dịch. Lúc này, sau 20 ngày đêm chiến đấu liên tục, quân số các đơn vị hao hụt nhiều, nhưng sư đoàn vẫn hạ quyết tâm đánh chiếm Bồng Sơn, tiêu diệt căn cứ Đệ Đức, tiến tới giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Nhơn chính là xuất phát từ nhận thức đó. Thực hiện chủ trương trên, bộ tư lệnh sư đoàn sử dụng bốn tiểu đoàn bộ binh tiến công giải phóng quận lỵ Bồng Sơn do trung đoàn trưởng trung đoàn 21 trực tiếp chỉ huy. Các đơn vị còn lại tranh thủ bổ sung đạn dược, chuẩn bị cho trận đánh quyết định: tiêu diệt căn cứ Đệ Đức.

Sáng sớm ngày 29, các tiểu đoàn đồng loạt nổ súng. Mặc dù đã chuẩn bị đối phó với ta từ những ngày trước đó, bọn địch vẫn buộc phải rút bỏ hết vị trí này đến vị trí khác, cuốn đội hình vào khu trung tâm cho đến lúc có lực lượng bộ binh và thiết giáp của chúng từ căn cứ Đệ Đức nống ra chi viện.

9 giờ, các mũi tiến công của ta tạm dừng lại củng cố. Đợt tiến công thứ hai diễn ra vào lúc 10 giờ. Tiểu đoàn 1 chật vật lắm mới đẩy được địch ra. khỏi bến xe, nhưng bọn giặc ngoan cố leo lên các tầng nhà dùng lựu đạn, súng liên thanh quét xuống mặt đường. Đại đội trưởng Lê Bội và non nửa trung đội 2 bị thương vong. Các khẩu đội ĐKZ.57 và cả B.40, B.41 phải chếch nòng với góc độ nguy hiểm cho người bắn mới diệt được hỏa điểm địch. Tuy vậy tiểu đoàn vẫn phát triển rất chậm. Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Dậu trực tiếp xuống các đại đội xốc lại đội hình và tổ chức lại các mũi tiến công.

11 giờ, trung đội của Hà Đức Trọng đánh chiếm được đồn quân cảnh, lá cờ ba sọc bị lôi tuột xuống đất. Trọng nhanh nhẹn cắm lá cờ Giải phóng lên cổng đồn, thực hiện xuất sắc lời hứa của mình trước ngày ra quân. Cùng lúc ấy mũi thứ hai của tiểu đoàn 4 trung đoàn 12 phát triển từ An Đông sang tây-nam quận lỵ, bắt liên lạc với tiểu đoàn 1

Sau một đợt tiến công liên tục từ hai phía, tiểu đoàn 4 trung đoàn 21 đã hoàn toàn làm chủ quận lỵ. Tiểu đoàn cũng đã chiếm chi cảnh sát, khu trường Tăng Bạt Hổ, trường Bồ Đề, hậu cứ liên đội bảo an 43, dồn bọn địch về phía cầu Bồng Sơn. Ở đây, chúng đã bị bộ phận đón lõng bắt sống toàn bộ. Riêng tên thiếu tá quận trưởng ngoan cố tháo chạy đã bị bắn chết giữa cầu Bồng Sơn ngay trên chiếc xe Jeep của hắn.

Thị trấn Bồng Sơn được giải phóng. Cờ Mặt trận trong phút chốc đã tung bay trên khắp các mái nhà, các ngọn dừa.

Giữa lúc ấy, trên đường bỗng xuất hiện một đoàn biểu tình khoảng 200 người, mang biểu ngữ, từ trung tâm thị trấn đi về phía cầu Bồng Sơn. Đoàn người vừa đi vừa hô: "Hoan hô Quân giải phóng. Hoan hô chính quyền cách mạng". "Đả đảo đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước Nguyễn Văn Thiệu". Họ liên tiếp gào lên. Phần lớn đám người là thanh niên, nét mặt trông phờ phạc, nhớn nhác và xảo quyệt. Lệnh phát ra từ sở chỉ huy sư đoàn: "Bắt gọn đoàn người biểu tình không đúng lúc ấy". Thì ra, đó là những tên ác ôn, ngụy quân ngụy quyền cải trang tìm đường chuồn ra phía biển, gọi tàu Mỹ đến vớt. Màn kịch vụng về đó đã bị lưỡi lê và dây trói kết thúc.

Tin Quân giải phóng làm chủ Bồng Sơn, Thiết Đính, diệt và bắt sống hàng ngàn tên địch chẳng mấy chốc đã bay đi tất cả các xã ở đông và tây đường số 1. Hàng vạn đồng bào Hoài Châu, Hoài Hảo, Hoài Thanh, Hoài Hương.... có du kích làm nòng cốt bao vây bức rút các chốt địch ở đồi Đảnh, Hội Phú, Cự Lễ, Mỹ Bình, Cự Tài...phá banh hàng chục ấp chiến lược xung quanh thị trấn Tam Quan. Người đổ ra nô nức trên khắp các ngả đường.

*

* *

Bồng Sơn mất, căn cứ Đệ Đức trở nên trơ trọi giữa vùng giải phóng rộng bát ngát. Nhưng vì là một căn cứ lớn ở bắc Bình Định, nên bọn sĩ quan và binh lính trong căn cứ vẫn còn hy vọng có thể cầm cự được với sư đoàn Sao Vàng trong lúc chờ viện binh đến giải tỏa.

Trước đây, Đệ Đức nguyên là căn cứ của lữ đoàn 173 Mỹ, rộng năm ki-lô-mét vuông, có sân bay vận tải chạy dọc theo đường số 1. Mỹ rút, căn cứ này giao cho trung đoàn 40 sư đoàn 22 ngụy. Hồi đầu chiến dịch tiểu đoàn đặc công quân khu và tiểu đoàn 5 trung đoàn 21 đã tiến đánh căn cứ này, gây cho chúng một số thiệt hại. Bây giờ, trong căn cứ có khoảng 1200 tên địch, gồm lực lượng còn lại của trung đoàn 40 ngụy, hai liên đội bảo an 201, 207 và một số đại đội trực thuộc. Bọn tàn quân và ngụy quyền ở Hoài Ân, bắc Phù Mỹ, Hoài Nhơn sống sót cũng chạy vào căn cứ. Hỏa lực chúng còn khá mạnh với 12 khẩu pháo 105, 155, 10 cối 81 và 106,7, hai chi đoàn xe tăng và xe bọc phép. Bao quanh căn cứ là 14 hàng rào kẽm gai rộng hàng trăm mét với hàng chục đại đội bảo an bảo vệ vòng ngoài.

Trong khi tổ chức tiến đánh Đệ Đức, chiều 30 tháng 4, bộ tư lệnh sư đoàn lệnh cho tiểu đoàn 3 (trung đoàn 2) đánh ém quân địch ở một số khu vực và điều gấp tiểu đoàn 4 (trung đoàn 12) hành quân ra phía bắc phối hợp với lực lượng địa phương bao vây tiêu diệt quân địch, giải phóng thị trấn Tam Quan, cắt đứt đường rút của địch ra nam Quảng Ngãi.

Bước vào trận đánh sau chót của chiến dịch, sư đoàn có thêm hai khẩu pháo 105, hàng chục khẩu cối 81, 60 thu được của địch. Bộ binh được trang bị thêm nhiều súng M.79, rốc két M.72, lựu đạn Mỹ. Thông tin có thêm máy, thêm dây, quân y thêm thuốc men và dụng cụ... Đặc biệt, sư đoàn đã có hàng chục xe ô tô làm nhiệm vụ vận chuyển thay thế cho hàng ngàn người khiêng, vác. Tiểu đoàn 5 (trung đoàn 21) sau khi đi phối thuộc cho đơn vị bạn, đã trở về đội hình sư đoàn.

Đúng như kế hoạch, sáng sớm ngày 1 tháng 5, tiểu đoàn 4 (trung đoàn 12) đã đánh úp đồn An Thái ở phía đông thị trấn Tam Quan. Thừa thắng bộ đội địa phương và đồng bào cùng với tiểu đoàn 4 kéo đến bao vây thị trấn Tam Quan. Trước sức ép của cả ba thứ quân, địch bỏ Tam Quan tháo chạy về căn cứ Đệ Đức, gây thêm rối loạn ở căn cứ này. Tam quan giải phóng. Các chiến sĩ tiểu đoàn 4 được xe lam, xe tải của đồng bào giúp đỡ đã hành quân quay trở lại, truy kích địch tới sát căn cứ Đệ Đức.

Chiều ngày 1 tháng 5, hai khẩu pháo 105 của sư đoàn đặt ở bờ nam sông Lại Khánh, được lệnh bắn thử vào căn cứ địch. Khi đội quan sát báo về, đạn rơi trúng khu vực tháp nước trong căn cứ, các pháo thủ đã nhảy lên reo hò. Tiểu đoàn trưởng pháo binh Bùi Quốc Miện không giấu được xúc động. Đối với các đơn vị pháo binh khác, bắn trúng tọa độ là chuyện bình thường và hiển nhiên. Nhưng đối với các pháo thủ 105 mới mẻ này là cả một kỳ tích. Sau khi đưa được pháo ra khỏi vòng đai phá hủy của bom đạn địch ở đồi 75, các pháo thủ cối 120 đã trở thành pháo thủ 105. Không một người nào kể từ tiểu đoàn trưởng trở xuống có kiến thức đầy đủ về loại pháo Mỹ này. Thế là phải mầy mò, tìm tài liệu của địch để học cách sử dụng. Khi bước vào huấn luyện, các pháo thủ mới phát hiện ra, pháo không có kim hỏa, lẫy cò, bảng bắn. Bọn địch trước khi tháo chạy đã vứt bỏ những bộ phận thiết yếu kể trên. Lại phải mất hai ngày tìm bới, mò mẫm ở các ao hồ. ruộng nước quanh cứ điểm mới tìm ra các thứ đó, vì trong lúc vội vã, bọn địch đã không vứt đi xa hoặc mang theo được. Đó là tất cả những nguyên nhân khiến các pháo thủ 105 non trẻ của sư đoàn nhảy lên reo hò khi quả đạn đầu tiên trúng mục tiêu.

5 giờ 30 phút sáng ngày 2, sư đoàn ra lệnh nổ súng tiến công. Ngay từ những giây phút đầu tiên, căn cứ Đệ Đức đã chìm trong khói và lửa. Một kho xăng và kho đạn trúng đạn pháo bốc cháy, nổ dữ dội. Các khu ra đa, truyền tin, chỉ huy, sân bay, trại lính đều trúng đạn, trận địa pháo 12 khẩu của địch hầu như không bắn được viên đạn nào.

Ở hướng chủ yếu, tiểu đoàn 3 đang khẩn trương đưa hỏa lực và bộ binh vào trong hàng rào để khép chặt vòng vây. Hướng đông, tiểu đoàn 1 sau khi phối hợp với tiểu đoàn 4 trung đoàn 12 bắt sống 300 tên địch ở chợ Bóng cũng áp sát vào hàng rào. Cùng lúc, tiểu đoàn 2 lấy ván bao cát làm thang vượt rào, đánh chiếm khu trinh sát, khu nhân viên kỹ thuật và nhà truyền tin.

Bọn địch cố chặn các hướng tiến công của ta. Đội hình tiểu đoàn 3 đang phát triển bỗng vấp phải một kho đạn đang nổ án ngữ trước mặt không tiến lên được. Cán bộ chỉ huy trung đoàn kịp thời đề nghị cho chuyển hướng chủ yếu từ tiểu đoàn 3 sang tiểu đoàn 2. Sư đoàn đồng ý và cử tham mưu trưởng sư đoàn xuống tăng cường chỉ huy trung đoàn.

Pháo binh ta vẫn dồn dập giội đạn vào căn cứ. Vốn sùng bái hỏa lực, nay bị đối phương dùng chính pháo của mình đánh lại, bọn giặc hết sức run sợ. Không chịu được hỏa lực của ta, lại bị các mũi xung kích chia cắt đánh từ bốn phía, bọn giặc phải ra hàng.

Hơn một giờ sau, căn cứ Đệ Đức đã vợi đi 600 tên địch. Nhưng vì căn cứ rất rộng, bố phòng phức tạp, nên không dễ dàng chiếm gọn như các trận trước, mặt khác, máy bay địch đổ đến ném bom xung quanh để ngăn chặn sự tan rã của binh lính. Ba giờ liền, hàng chục chiếc phản lực nhào đến giội bom, lật lên tùng mảng đường băng trên sân bay, đánh sập cả đường hào và lô cốt ta vừa chiếm được. Các mũi tiến công trên các hướng được lệnh áp sát hơn nữa vào khu trung tâm để tránh thươngvong.

3 giờ chiều, lợi dụng khe hở nơi tiếp giáp giữa tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 1, bọn địch cho 10 xe M113 dẫn bộ binh chạy thục mạng ra đường số 1. Nhận được báo cáo địch rút chạy, sư đoàn lệnh ngay cho tiểu đoàn 4 (trung đoàn 12) nhờ xe của dân, chở súng cối, 12.7 truy kích địch. Một lần nữa, chiến sĩ Đặng Thành Kính. được đồng đội yểm trợ lại bắt sống một xe bọc thép địch, buộc tên giặc lái M113 chở các chiến sĩ ta truy kích tiếp. Từ phía Bồng Sơn, tiểu đoàn 4 (trung đoàn 21) cũng được lệnh cấp tốc vận động tới phối hợp cùng tiểu đoàn 4 (trung đoàn 12) vây bắt bọn địch vừa cụm lại ở khu vực Núi Kho giáp biển.

Trong căn cứ Đệ Đức lúc ấy chỉ còn lại 200 tên cố thủ ở khu vực đồi 46 và sở chỉ huy. Sư đoàn tổ chức đợt tiến công cuối cùng. Pháo 105 của ta bắn rất chính xác xuống khu đồi 46. Đồng bào thị trấn Bồng Sơn và các xã xung quanh căn cứ đứng chật các ngả đường, xem pháo binh Quân giải phóng bắn cháy căn cứ địch. Đài kỹ thuật của sư đoàn chuyên theo dõi đài địch. Đã bắt được bức điện của bọn lái máy bay gửi bọn bộ binh: "Tôi sẽ oanh tạc 30 phút, sau đó, các anh chạy ra hướng đông". Nắm được ý đồ của địch, sở chỉ huy trung đoàn 2 điện cho các tiểu đoàn bịt chặt các hướng cửa mở và tương kế tựu kế, thiết kế ngay một tình huống "dùng gậy mày gập lưng mày". Tham mưu trưởng sư đoàn chỉ thị cho trợ lý trinh sát Nguyễn Phiêu: "Sau đợt oanh tạc này, anh thay thằng địch ở Đệ Đức nói "Chúng tôi đã thoát ra ngoài, yêu cầu thả bom ngay xuống khu chỉ huy và đồi 46", nhớ nói bằng tiếng Anh để chúng khỏi nghi ngờ". Lúc ấy là 17 giờ 40 phút ngày 2 tháng 5.

Trận đánh kết thúc thật bất ngờ. Bọn giặc ở khu đồi 46 vội chạy ra ngoài vì những loạt bom tới tấp giội xuống đầu chúng. Từ các hướng, bộ đội ta tràn lên, ôm lấy nhau reo hò vang dậy. Mọi người đều cố tìm cho được một vài ống đèn dù hoặc pháo hiệu bắn lên trời, báo hiệu quân ta đã toàn thắng. Bầu trời Đệ Đức lúc đó đang tối sầm. bỗng sáng rực lên như một đêm hội.

Mấy ngày sau. những đồn bốt địch còn lại trong huyện Hoài nhơn bị bộ đội địa phương, du kích và đồng bào ập đến bao vây. Khí thế tiến công của đội quân hàng vạn người này mỗi lúc một dâng cao. Họ gọi hàng hết đồn này đến bốt khác. Những ông bà già, em nhỏ tay không cũng trở thành chiến sĩ bắt sống địch, thu từng bó vũ khí đến nộp cho du kích. Bọn tàn quân lẩn trốn, bọn chính quyền xã, ấp, bọn ác ôn, chỉ điểm, bọn "bình định", "thiên nga"... lần lượt bị tóm gọn.

Chiến thắng Bồng Sơn, Đệ Đức là một bước tiến nhảy vọt của chiến trường Bình Định cả về quy mô, thời gian và tốc độ tiến công. Để giải phóng huyện Hoài ân, ta phải mất 11 ngày liên tục chiến đấu, giải phóng bắc Phù Mỹ mất bốn ngày, lần này, cả một huyện đồng bằng ven biển, địch có hai thị trấn chi khu và một căn cứ lớn cỡ trung đoàn, nhưng ta chỉ tiến đánh trong bốn ngày. Đặc biệt, ở đây, sức mạnh tổng hợp giữa bộ đội chủ lực và lực lượng địa phương, giữa tiến công và nổi dậy của quần chúng đã được phát huy tới đỉnh cao. Nếu như giải phóng Hoài ân, hầu hết ta dùng quả đấm chủ lực, ở bắc Phù Mỹ đòn chủ lực đi trước một bước thì ở Hoài Nhơn, nắm chắc địch, ta và điều kiện cho phép, đòn tiến công của chủ lực và nổi dậy của địa phương cùng tiến hành song song.

Trong số 78 chốt điểm địch đóng ở Hoài Nhơn, lực lượng chủ lực chỉ đánh 15 điểm những điểm then chốt nhất, số còn lại đều do lực lượng địa phương và quần chúng giải quyết.

Vấn đề chiến thuật trong đợt tiến công này cũng được vận dụng linh hoạt , đúng đối tượng, đúng mục tiêu và đạt hiệu quả chiến đấu cao. Pháo 105 thu được của địch xuất trận lần đầu đã phát huy sức mạnh và có tác dụng lớn trong chiến đấu hiệp đồng. Lần đầu tiên từ khi thành lập, sư đoàn chỉ huy chiến đấu tập trung hiệp đồng binh chủng có pháo xe kéo rất nhịp nhàng, tạo nên sức mạnh áp đảo đối với địch, mở đầu bước ngoặt mới trong chiến đấu tập trung quy mô ngày càng lớn của sư đoàn. Nhớ lại mùa xuân năm trước (1971), các đơn vị còn phân tán tới đại đội trung đội, tỏa ra khắp các thôn ấp trong tỉnh Bình Định để hoạt động mới thấy hết ý nghĩa lớn lao của những trận đánh hôm nay.

Cái bí quyết đánh địch co cụm lớn ở rừng núi và đồng bằng đã được mở toang.

4. Chốt thép trên đường số 9

Trong khi sư đoàn (thiếu) tham gia chiến dịch giải phóng ba huyện phía bắc thì trung đoàn 12 (thiếu tiểu đoàn 4) cũng đang trải qua những ngày chiến đấu vô cùng gian khổ, ác liệt trên con đường chiến lược số 19, mạch máu chủ yếu nuôi sống bọn địch ở chiến trường bắc Tây Nguyên .

Ngày 26 tháng 3, mặt trận Tây Nguyên nổ súng thì ngày 11 tháng 4, đường số 19 hoàn toàn bị cắt đứt.

Theo chỉ đạo của quân khu và sư đoàn, trong chiến dịch này, trung đoàn 12 tổ chức một cụm chốt chiến dịch ở phía đông đèo Thượng Giang - đoạn đường hiểm trở dài trên mười lăm ki-lô-mét, cách căn cứ An Khê (Gia Lai) chừng mười ki-lô-mét về phía đông và quận lỵ Phú Phong (Bình Định) khoảng hai mươi ki-lô-mét về phía tây

Thành lập cụm chốt ở khu vực này, trung đoàn có nhiệm vụ cắt đứt đường số 19, phối hợp với chiến trường chính Tây Nguyên và kìm sư đoàn "Mãnh Hổ" Nam Triều Tiên, không cho chúng ra ứng cứu ở bắc Bình Định. Đây là nhiệm vụ nặng nề và khó khăn đối với một trung đoàn (thiếu) chiến đấu độc lập, xa đội hình sư đoàn. Khó khăn lớn nhất đối với trung đoàn là phải tác chiến ở một khu vực sát hậu phương địch, hầu như không có dân, bốn phía là đồi núi hiểm trở. Một vài bản làng còn sót lại qua các cuộc xúc tát, đánh phá của địch nằm ẩn sâu trong rừng. Đồng bào trồng ngô, trồng sắn tận trên các đỉnh núi cheo leo, nơi địch ít khi đặt chân tới, để sinh sống.

Bảo vệ đoạn đường quan trọng này, ngoài sư đoàn "Mãnh Hổ" và hàng trăm đại đội, trung đội bảo an, dân vệ, thanh niên chiến đấu..., địch còn bố trí ba trận địa pháo 105 và 155 ở An Khê, An Xuân và Bình Tân với ba phi đội máy bay chiến đấu, trinh sát, vận tải túc trực ở sân bay Gò Quánh (Phù Cát) sẵn sàng chi viện.

Khác hẳn tính chất của những trận đánh phục kích xe địch trước đây, trung đoàn phải chốt giữ, khống chế hoàn toàn mặt đường số 19 dài ngày theo mệnh lệnh của quân khu. Do vậy, địch sẽ phải cố sống cố chết để khai thông con đường này. Chiến trường miền Nam bấy giờ lính bộ binh Mỹ không còn trực tiếp tham gia tác chiến, nhưng ở nam tỉnh Bình Định, lính Nam Triều Tiên vẫn còn giữ nguyên như cũ, vì thế tính chất ác liệt cũng sẽ khác hẳn với những chiến trường khác. Có thể nói, đây là cuộc chiến đấu cuối cùng giữa các chiến sĩ Quân giải phóng với lính viễn chinh xâm lược trên. chiến trường Khu 5. Ngay từ lúc nhận nhiệm vụ, đảng ủy và cán bộ chỉ huy trung đoàn đã quán triệt điều đó đến từng chiến sĩ.

Sau nhiều lần lặn lội điều tra địa hình, trung đoàn trưởng Nguyễn Duy Thương đã báo cáo trong đảng ủy một phương án tác chiến hoàn chỉnh, chủ yếu tập trung vào hai cụm chốt. Cụm chính gồm điểm cao 384, 638 (núi Cây Rui) và cống Hang Dơi trên mặt đường số 19. Ba điểm này hình thành thế chân kiềng, có giá trị chiến thuật và chiến dịch, quyết định thắng, bại của trung đoàn. Cụm chốt thứ hai ở phía tây đèo Thượng Giang từ cầu Suối Vối đến cầu Ban Ngày. Tiểu đoàn 6 và hầu hết hỏa lực trung đoàn đảm nhiệm cụm chốt chính. Hai đại đội công binh ở cụm chốt phụ. Tiểu đoàn 5 làm lực lượng dự bị cơ động của trung đoàn.

Chuẩn bị cho chiến dịch này, các chiến sĩ trung đoàn 12 đã trải qua những ngày tháng làm việc rất căng thẳng và công phu. Hai khó khăn lớn được đặt ra: đưa toàn bộ trung đoàn sang nam đường số 19 bằng cách nào? Lấy gì cho bộ đội ăn để huấn luyện trong mấy tháng.

Qua thảo luận, trung đoàn quyết định tung toàn bộ lực lượng trinh sát, thông tin và những đơn vị có kinh nghiệm nhất do cán bộ trung đoàn trực tiếp chỉ huy xuống nắm địch, bám đường, đưa dần bộ đội từ bắc sang nam đường vào vị trí tập kết.

Đại đội công binh vượt đường số 19 đầu tiên vào một đêm tối trời, nhưng vẫn không trót lọt bởi thủ đoạn phục kích ma mãnh của bọn lính Nam Triều Tiên. Tám cán bộ, chiến sĩ bị hy sinh trên mặt đường đêm hôm ấy.

Sau đó, các mạng nắm, bám địch, chốt đường phải làm việc rất căng thẳng. Cách xếp đội hình hành quân và tính chất sẵn sàng chiến đấu của bộ đội được tính toán chu đáo và khoa học. Đêm nay một đại đội vượt đoạn đường sát núi Cây Rui thì đêm mai, đại đội khác phải táo bạo luồn dưới chân đèo Thượng Giang để vượt qua. Có lần, trung đoàn đưa hẳn đội hình hành quân qua đoạn đường pháo cối địch thường bắn dữ đội nhất. Đó là những khu vực không có bộ binh địch phục kích. Tất nhiên chỉ có những đơn vị gọn, nhẹ và có nhiều kinh nghiệm mới lọt qua được cửa ải ấy. Quãng đường chỉ vài ba chục ki-lô-mét mà các chiến sĩ phải lặn lội, trèo núi, xuyên rừng hơn một tháng trời, có lần lưng cõng gùi, tay mang súng nặng ba, bốn chục cân, lội bì bõm trên ruộng nước thấu sáng. Suốt mười tiếng đồng hồ ấy không ai được bật quai gùi khỏi vai. Lúc chạy bám sát nhau mệt đến đứt hơi, lúc hai tay bưng đáy ba lô, lưng gù xuống đứng chôn chân đến hàng giờ. Tay chân ứ máu tê dại. Nhiều chiến sĩ còn trẻ măng, chưa quen với những cuộc hành quân như vậy đã gục xuống. Vậy mà trong hành quân tuyệt nhiên không phát ra một tiếng động.

Mặt khác, tuy đã dự kiến nhiều tình huống, nhưng các chiến sĩ vẫn không sao lường hết được khó khăn khi đơn vị sang vị trí tập kết ở nam đường số 19. Đó là vấn đề đói.

Tỉnh ủy Bình Định rất cố gắng cũng chỉ cấp được cho trung đoàn một ít gạo, ngô và sắn. Một lần nữa, đảng ủy trung đoàn 12 phải bàn với đảng bộ và chính quyền địa phương quyết tâm đánh địch, mở đường, mở cửa khẩu ở các khu vực Nhơn Thọ, Lai Nghi, Bình Tường... cách đơn vị gần bốn mươi ki-lô-mét để nhận gạo của dân từ trong các "ấp chiến lược". Quyết tâm chính xác này đã mang lại kết quả lớn. Hơn ba trăm tấn lương thực, thực phẩm được đóng đầy các kho dự trữ, bảo đảm cho bộ đội ăn hết mùa mưa.

Đã từng hoạt động trong lòng địch, đã từng nhịn đói moi hầm giấu quân, nhưng chưa bao giờ trung đoàn 12 lại chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ như lần này. Cách mặt đường ba, bốn ki-lô-mét đã có hệ thống hầm, hào trú quân. Sở chỉ huy, trạm phẫu, kho tàng, bếp núc... tất cả đều đặt chìm dưới mặt đất.

Vào chốt cắt đường số 19, trung đoàn dự kiến sau khi đại đội đặc công quân khu nhổ chốt Cây Rui sẽ cắm đại đội 61 của tiểu đoàn 6 lên đó, cùng với đại đội 63 dưới chân núi, khống chế hoàn toàn mặt đường số 19. Nhưng diễn biến trận đánh không thuận lợi, đặc công không diệt gọn được Cây Rui, buộc trung đoàn phải chuyển sang phương án hai, đưa đại đội 61 lấn lên đào công sự chốt ở mỏm đồi cao hơn, đối diện với chốt của địch. Ta ở điểm cao 638, cách địch một yên ngựa dài 200 m. Như vậy, trên dãy núi Cây Rui có cả chốt ta và chốt địch.

Cũng ngay rạng sáng hôm đó, hai đại đội 62 và 63 dùng 600 ki-lô-gam thuốc nổ đánh sập cống Hang Dơi. Hôm ấy là ngày 11 tháng 4, ngày đầu tiên của chiến dịch cắt đường

Việc một hệ thống chốt của ta đột ngột mọc lên trên đường số 19 làm cho bộ chỉ huy quân khu 2 ngụy và sư đoàn "Mãnh Hổ" Nam Triều Tiên giãy nảy như đạp phải lửa. Lập tức chúng điều hai đại đội bộ binh và năm xe bọc thép thuộc chiến đoàn 44 đi giải tỏa. Cánh quân này đã bị cụm chốt công binh của ta đánh cho tơi tả. Hàng trăm tên chết và bị thương, hai xe bọc thép bị bắn cháy, hai trực thăng bị bắn rơi. Cùng lúc, hai đại đội công binh địch có xe bọc thép và máy bay yểm trợ liều chết xông vào sửa lại cống Hang Dơi.

Cách mặt cống 500 mét, đại đội trưởng Nguyễn Việt Trì và Chính trị viên Hoàng Sinh Tùng dẫn đại đội 63 xuất kích. Nhưng do phải đối phó với nhiều tình huống trên dọc đường, nên khi đến nơi thì chiếc cống đã được sửa chữa lại và đoàn xe địch đã vượt quá. Vậy là ta chậm hơn địch. Một ý nghĩ bỗng lóe sáng trong đầu Tùng: "Phải nằm ngay trên mặt đường mà đánh, và như vậy, dù có mọc cánh, quân địch cũng không qua đây được". Phương án mới của đại đội 63 được báo cáo về trung đoàn. Trung đoàn trưởng hoan nghênh và cho thực hiện ngay từ hôm ấy. Các trận địa hỏa lực trung đoàn được lệnh sẵn sàng chi viện cho đại đội nằm trên mặt đường số 19.

Từ đó, những trận đánh ác liệt liên tiếp diễn ra. Địch kéo thêm hai tiểu đoàn và 17 xe bọc thép đến khu vực này. Nhưng vừa mon men đến gần cống Hang Dơi, chúng đã bị đại đội 63 bất ngờ chặn đầu, khóa đuôi, tiêu diệt gần hết một đại đội, phá hủy bốn xe bọc thép.

Cống Hang Dơi nằm dưới mặt đường, được xây hết sức vững chắc. Đối với các chiến sĩ chốt trên mặt đường, chiếc cống đó trở thành một loại công sự hết sức bảo đảm. Ngoài chiếc cống, các chiến sĩ còn khoét công sự dọc thành núi, để từ đó bất ngờ xuất kích ra mặt đường, làm cho quân địch không xoay xở kịp.

Đến ngày thứ tư, địch tập trung phi pháo đánh phá khu vực cống Hang Dơi rồi tung quân tiến công đại đội 63 từ hai mặt. Trung đội trưởng Nhâm Xuân Tải, chỉ huy trực tiếp trung đội nằm tại cống, bố trí đội hình thành ba mũi để bảo vệ hai bên sườn. Hỏa lực và lực lượng cơ động cũng được hiệp đồng chặt chẽ. Khi quân địch bị chặn đứng trên đường, ĐKZ, cối 82, cao xạ 12,7 của trung đoàn, tiểu đoàn dập tới. Lực lượng cơ động từ mé đường xuất kích ra. Những cuộc hỗn chiến kéo dài hàng tiếng đồng hồ quanh cống Hang Dơi. Tại đây, chính trị viên đại đội Hoàng Sinh Tùng, người con trai xứ Nghệ ấy đã nổi lên như một ngôi sao sáng. Anh xông xáo ngang dọc hết trung đội này đến trung đội khác. Vai đeo ba khẩu súng vừa đánh địch, vừa chỉ dẫn, động viên các chiến sĩ chiến đấu. Có lần, Tùng nằm ngay trên mặt đường nhựa dùng B.40 bắn cháy liền hai xe bọc thép, làm mẫu cho các xạ thủ mới. Tùng đến chỗ nào, chuyển biến được ngay tình thế ở đó.

Trước tình hình gay cấn đó, sư đoàn "Mãnh Hổ" buộc phải ném thêm vào khu tam giác Cây Rui - 384 - cống Hang Dơi toàn bộ trung đoàn 24 và 20 xe tăng, xe bọc thép mà vẫn không sao cải thiện được tình thế. Đường số 19 vẫn bị cắt đứt. Nhận thấy đánh cả ba điểm một lúc không được, địch quay sang thủ đoạn "đánh một, khống chế hai" hòng lần lượt nhổ từng chốt, tiến tới đánh bật trung đoàn 12 ra khỏi đường số 19. Bọn lính Nam Triều Tiên dồn sức đánh vào điểm cao 384 trước.

Sang ngày thứ bảy, hai tiểu đoàn địch từ phía đông và phía bắc ào ạt tiến công lên điểm cao 384. Phi pháo địch đánh phá không ngớt xuống các trận địa hỏa lực và đường cơ động của trung đoàn. Trận địa cao xạ bị phá hủy, nhưng số chiến sĩ còn lại đã dùng AK, súng trường, lựu đạn quật lại bộ binh địch. Trận địa 384 bị cô lập. Những trận đánh giáp lá cà bằng lưỡi lê, báng súng, dao găm, xẻng diễn ra quyết liệt. Địch chết nhiều nhưng chúng vẫn lăn xả tới. Lực lượng hai bên mỗi lúc thêm chênh lệch. 26 cán bộ, chiến sĩ ta trên điểm cao 384 lần lượt hy sinh. Năm chiến sĩ còn lại dùng cả súng của 31 người đánh địch cho đến chiều

Sở chỉ huy trung đoàn 12 lặng đi mấy phút khi nhận được bức điện của một chiến sĩ còn lại trên chốt: "Thủ trưởng cho xin thêm người để giữ trận địa". Chính ủy Lê Huấn cầm ống nói chưa kịp hỏi lại xem tên chiến sĩ ấy là gì thì tiếng súng trên chốt đã cắt ngang. Đêm ấy không còn ai trên điểm cao 384 trở về nữa.

Tấm gương ngời sáng của đại đội 62 trên điểm cao 384 được nêu cho toàn trung đoàn học tập. Thật là những chiến sĩ tuyệt vời. Còn một mình nhưng không hề xin rút mà xin thêm lực lượng để giữ chốt. Đó là một biểu hiện cao cả về quyết tâm thực hiện nhiệm vụ. Noi gương đó, nhiều cán bộ, chiến sĩ cơ quan và đơn vị phục vụ phía sau đã tình nguyện ra mặt đường thay thế. Họ hiểu rằng, đường số 19 còn bị cắt ngày nào, đồng đội của họ ở Tây Nguyên, ở phía bắc tỉnh đỡ đổ xương máu ngày ấy. Vì thế mặt đường. là tất cả đối với họ.

Mất điểm cao 384, sườn phải chốt Cây Rui và cống Hang Dơi của ta bị uy hiếp. Vì không còn lực lượng để lấy lại 384, trung đoàn phải đưa một số cán bộ, chiến sĩ trung đoàn bộ xuống tăng cường cho hai trận địa hỏa lực ở Hòn Ngang và đồi Dài, giữ thế che đỡ chốt mặt đường. Sự điều động này đã kịp thời đánh bại hàng chục đợt tiến công của địch toan chiếm trận địa hỏa lực ta. Từ hai đỉnh đồi chon von, cối 82 và DKZ của trung đoàn vẫn đều đều nhả đạn xuống đội hình tiến công của địch, bảo vệ cho đại đội 63 ở cống Hang Dơi.

Không đạt được mục đích đánh từ trên cao xuống, địch dùng phi pháo khống chế rồi vòng qua phía bắc, đánh lên điểm cao 638 (Cây Rui) và cống Hang Rơi. Một lần nữa, địch vẫn không chọc thủng được trận địa của các chiến sĩ 63 và 61.

Ngày 17 tháng 4, vừa rạng sáng, những lớp sương mù đặc quánh còn bao phủ trắng xóa các hẻm núi, tiếng máy bay và xe tăng địch đã ầm ầm giội tới đinh tai nhức óc. Lợi dụng sương mù, sáu chiếc xe tăng mở hết tốc độ lao về phía cống Hang Dơi, nơi trung đội của Nhâm Xuân Tải chốt giữ, định đánh đòn bất ngờ, khiến đối phương trở tay không kịp.

Nhưng chúng đã lầm: Trung đội trưởng Nhâm Xuân Tải, biệt danh "nhà chiến thuật", đã chỉ huy ba chiến sĩ Hạnh, Tiên và Bảo chia làm hai hướng chặn đánh. Xe tăng địch vừa đi vừa bắn như vãi đạn lên mặt cống và hai bên đường. Chiếc xe đi đầu còn cách mặt cống 30 mét, Nhâm Xuân Tải ôm khẩu B.41 lăn nhanh ra một ụ đất. Và như một làn chớp, Tải bắn cháy chiếc xe ngay trước trận địa. Vài phút sau, chiếc xe thứ hai lại bị diệt. Bốn xe còn lại vội lùi ra. Không buông tha, Tải nháy Hạnh xách B.40 cắt đường dẫn đầu, còn mình thì vòng sang phải đánh quặt lại. Xe địch chưa kịp quay lưng tựa vào nhau để đánh trả, liền bị hai quả đạn cùng một lúc phóng tới. Một xe đứt xích chết gí. Ba chiếc còn lại bỏ bộ binh chạy thẳng.

Ở phía bắc cống, y tá Tiên và xạ thủ trung liên Bảo cũng đánh lui một trung đội bộ binh địch, bắn chết hơn chục tên. Tiên lao tới thu súng và lựu đạn. Một tên địch giả vờ chết chồm dậy chống cự. Cuộc vật lộn diễn ra. Bảo đang cảnh giới vội đến tiếp sức cho Tiên. Tên giặc bị đè ngửa. Bảo dùng giẻ lau súng nhét vào miệng hắn rồi cùng Tiên lôi nó về công sự. Đêm đó tổ của Nhâm Xuân Tải lại bắt thêm một tên nữa ở ngách cống sập. Bọn chúng thuộc đại đội 8 thiết giáp sư đoàn "Mãnh Hổ" Nam Triều Tiên.

Cuộc chiến đấu của trung đội Nhâm Xuân Tải và sau đó là của trung đội Nguyễn Đức Tấn còn tiếp tục nhiều ngày nữa trên cống Hang Dơi. Nhâm Xuân Tải, Hoàng Sinh Tùng, những đảng viên, cán bộ ưu tú, lần lượt hy sinh trong tư thế rượt đuổi quân Nam Triều Tiên đã để lại ấn tượng đẹp đẽ thôi thúc các chiến sĩ tiếp tục chiến đấu. Trung đội Nguyễn Đức Tấn có sáu người thì cả sáu đều trở thành dũng sỹ trên đường số 19.

Đường số 19 bị cắt, bọn giặc ở Tây Nguyên thiếu thốn mọi thứ. Tên trưởng đoàn cố vấn Mỹ nguyền rủa sư đoàn " Mãnh Hổ" đã từng cắt tai phụ nữ, xé xác trẻ con không ghê tay mà nay vẫn đánh theo lối "đèn cù". Hắn ra lệnh: "Bằng mọi giá, phải đánh bật trung đoàn l2 Bắc Việt để thông đường, tiếp viện cho Tây Nguyên, cứu sư đoàn 22 ngụy và lực lượng tăng phái đang có nguy cơ bị tiêu diệt ở Công Tum". Hắn càng kêu, ác liệt càng tăng lên ở các trận địa của trung đoàn 12.

Ban ngày, trung đoàn bộ là cơ quan chỉ huy, đêm xuống, dưới sự điều khiển của chính ủy trung đoàn, tất cả trở thành lực lượng phục vụ. Có thể nói, thời gian này tất cả trung đoàn 12 đã lên chốt. Huyện ủy 8 Gia Lai đã huy động mọi lực lượng để phục vụ cho trung đoàn 12 chiến đấu. Bất chấp bom pháo và bộ binh địch cản đường, từng đoàn dân công, các đội xung kích phục vụ hỏa tuyến đã mang lương thực, thực phẩm tới tận trung đoàn. Những gùi sắn, chuối, đu đủ, măng chua, phần ăn của từng gia đình, cũng được gửi đến cho chiến sĩ. Điều đó đã cổ vũ rất lớn đối với trung đoàn 12.

Đêm 20 tháng 4, 10 ngày sau khi mở chiến dịch, các chiến sĩ trung đoàn 12 nhận được điện của Khu ủy và Quân khu ủy gửi xuống: "Nhiệt liệt khen ngợi trung đoàn 12 đã chiến đấu rất dũng cảm. Địch ở Tây Nguyên rất khốn đốn. Chúng sẽ còn cố sức giải tỏa đường số 19. Đường số 19 sẽ còn hết sức quyết liệt và dữ đội. Các đồng chí hãy nêu cao quyết tâm hơn nữa, công sự phải vững chắc hơn nữa, đánh địch linh hoạt hơn nữa để cắt đường, gây cho địch khốn đốn hơn nữa . .".

Đồng chí Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên gửi bức điện: "Cám ơn các chiến sĩ trung đoàn 12 đã anh dũng cắt đường số 19, tạo thuận lợi cho Tây Nguyên diệt địch...".

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng điện vào khen ngợi trung đoàn 12 "đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong giai đoạn đầu cắt đường số 19, phối hợp với chiến trường chung...". Rồi tin sư đoàn ở phía bắc tỉnh tiêu diệt chiến đoàn đặc nhiệm 40 ở Hòn Bồ, giải phóng hoàn toàn huyện Hoài ân... bay đến làm nức lòng các chiến sĩ. Chưa bao giờ các chiến sĩ nhận thấy những trận đánh của mình lại gắn bó với các chiến trường khác như thời gian ấy.

Tuy nhiên, sự thiếu hụt quân số đang đặt ra cho cán bộ chi huy trung đoàn phải có phương án chiến đấu thích hợp để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ.

Nhận định thế nào địch cũng sẽ tập trung đánh chiếm Cây Rui để uy hiếp cống Hang Rơi, trung đoàn trưởng quyết định rút một số chốt phụ để tập trung lực lượng cho Cây Rui. Còn Cây Rui thì cống Hang Dơi còn đứng được, đường vẫn bị cắt, lực lượng cơ động của tiểu đoàn 5 được rút bớt để tăng cường cho cụm chốt Cây Rui và cụm chốt công binh phía tây đèo. Trận địa hỏa lực được di chuyển vào gần Cây Rui hơn để chi viện cho bộ đội giữ chốt... .

Vừa bố trí xong lực lượng thì rạng sáng ngày 23 tháng. 4, địch mở đợt tiến công ác liệt chưa từng có vào Cây Rui. Trong bốn tiếng đồng hồ, chúng trút vào đây gần một trăm quả bom và gần ba nghìn quả pháo. Khác hẳn với các đợt tiến công trước, lần này bọn Nam Triều Tiên đã không lùi ra sau khi bị đánh trả. Chúng dùng bao cát đắp thành công sự nổi nằm lại sườn đồi. Sáng hôm sau, ngày 24 tháng 4, chúng căng vải đỏ phân tuyến cho cối 106.7 và 81 bắn đạn khoan, phá hoại công sự. Một số căn hầm kiên cố bên vách núi bị sụt lở. Đại đội trưởng Nguyễn Hữu Tài và 10 chiến sĩ hy sinh. Trận địa chỉ còn 15 tay súng với sự chỉ huy của tham mưu trưởng tiểu đoàn Nguyễn Hữu Thông và chính trị viên đại đội Ninh Văn Xá.

Ào ạt tiến công không được, địch thay đổi thủ đoạn. Chúng phân tán thành từng tốp lấy bao cát đội lên đầu làm lá chắn, vừa bò, vừa đẩy, lấn từng thước đất. Khoảng cách giữa ta và địch mỗi lúc một gần lại. Giữa lúc đó, tham mưu trưởng Thông hy sinh. Phó đại đội trưởng Quỳnh được cử lên thay thế. Bên dưới, từng tốp địch đẩy bao cát ùn lên.

Phát hiện địch đang tập trung lấn dũi phía trước, ta chưa thể khắc phục được, Quỳnh nảy ý định dùng một bộ phận trang bị gọn nhẹ dưới sự chi viện của hỏa lực tiểu đoàn, vòng sang hai bên tập kích thẳng vào cụm chỉ huy địch để từ đó đánh ngược lên cùng với bộ phận chốt đánh ép xuống. Phương án của Quỳnh được tiểu đoàn đồng ý. Đại đội 61 lúc đó còn 10 đồng chí khỏe và năm đồng chí đã bị thương, chia thành hai bộ phận, bộ phận tiến công (sáu đồng chí) và bộ phận giữ chốt (bốn đồng chí khỏe, năm đồng chí bị thương). Trận đánh chớp nhoáng vào sở chỉ huy địch, khiến bọn lính đang lấn lên chốt hốt hoảng, buộc phải quay đội hình lại đối phó. Hai khẩu đại liên địch bắn kẹp tổ thọc sâu do Quỳnh chỉ huy. Một chiến sĩ hy sinh. Xạ thủ B.40 nằm cạnh Quỳnh trúng đạn. Quỳnh nhoài người gỡ khẩu súng trên tay chiến sĩ vừa gục ngã rồi lăn nhanh xuống một hố pháo. Địch mất mục tiêu. dừng bắn để quan sát. Bất thần Quỳnh nhồm dậy ném liền hai quả lựu đạn vào khẩu đại liên trước mặt. Khẩu đại liên thứ hai lập tức bắn xả về hố pháo, nơi Quỳnh ẩn nấp. Trên đầu anh, một lưới đạn ken dày. Bỗng nhiên Quỳnh đứng bật dậy giữa làn mưa đạn ấy và bằng một tài nghệ điêu luyện, anh bóp cò trước khi đường đạn địch chạm tới người anh. Hỏa điểm địch bị diệt. nhưng Vũ Văn Quỳnh từ từ ngã xuống như đang muốn chứng kiến sức công phá của quả đạn do mình bắn ra. Từ trên đồi, chính trị viên Ninh Văn Xá kịp thời chỉ huy bộ phận còn lại đánh hất địch xuống. Các trận địa cối, cao xạ. 12,8 cũng bắn tới chi viện cho đại đội 61.

Địch cuốn ra xa. Một thoáng yên lặng như không hề có chiến sự ở đây. Bỗng một loạt tiếng nổ rền từ trận địa pháo địch ở An Xuân dội tới. Các chiến sĩ đang trong tư thế tránh pháo thì nhiều tiếng nổ lốp bốp ngay trên đầu. Mỏm đồi Cây Rui bị bao phủ một lớp khói trắng nặng.

- Quân đê tiện. Chúng dùng đạn hóa học rồi! -Chính ủy trung đoàn căm giận thốt lên.

- Anh em đã có đủ phương tiện và cách đề phòng. Nhắc các trận địa hỏa lực chuẩn bị chi viện cho đại đội 61 chiến đấu - Trung đoàn trưởng ra lệnh.

Ở sở chỉ huy tiểu đoàn, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Đức Hoài và chính trị viên Trần Hữu Biên quyết định tung lực lượng cơ động lên Cây Rui. Trận đánh diễn ra trên chốt Cây Rui mấy phút sau đó thật quyết liệt, nhưng cũng thật hào hùng. Bọn giặc vừa thay thế, ỷ số đông và tin vào vũ khí hóa học, lổm ngổm bò lên như cua. Các chiến sĩ đại đội 61 người nào cũng bị thương hai, ba lần vào đầu, ngực quấn băng trắng xóa, vừa trải qua những cơn ho và chảy nước mắt vì hơi cay, đang lặng lẽ trườn ra các ụ súng. Họ được lệnh để địch vào gần, dùng chai cháy, lựu đạn "câu" qua những bao cát địch đánh đòn phủ đầu đích đáng, biến các bao cát địch thành vật che đỡ cho mình.

Cuộc chiến đấu kéo dài suốt mấy tiếng đòng hồ. Địch chết nhiều, nhưng quân số đại đội 61 cũng vợi gần, chỉ còn lại năm người. Năm chiến sĩ kiên cường ấy dưới sự chỉ huy của chính trị viên Ninh Văn Xá đã hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng cơ động và hỏa lực trung đoàn, tiểu đoàn chi viện, giữ vững trận địa cho đến tối.

Đêm hôm ấy, trung đoàn 12 được lệnh dứt chiến đợt 1, chuẩn bị cho đợt 2, với hình thức tác chiến sở trường của mình: phục kích vận động, tiêu diệt sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh và cơ sở vật chất của địch vận chuyển trên đường số 9, tiếp tục biến đoạn đường này không chỉ thấm đầy máu giặc mà còn là nơi thiêu cháy mọi cơ sở hậu cần của chúng định tiếp cứu cho Tây Nguyên. Trận đánh ngày 25 tháng 6, phá hủy một lúc 59 xe chở hàng, có 10 xe tăng, xe bọc thép, tiêu diệt và bắt sống 318 tên, bắn rơi ba máy bay là một điền hình trong chiến công mới của trung đoàn.

Cho đến nay, năm tháng đã đi qua, nhưng cuộc chiến đấu suốt 18 ngày đêm của trung đoàn 12 ở đèo Thượng Giang mùa xuân 1972 vẫn được cán bộ chiến sĩ trong sư đoàn và Quân khu 5 coi như một huyền thoại về ý chí sắt đá, lòng dũng cảm vô song và tinh thần sáng tạo mưu trí của họ trong cuộc chiến đấu với quân Nam Triều Tiên.

Chỉ với hai tiểu đoàn bộ binh, một số đại đội hỏa lực mang vác, trung đoàn đã vận dụng linh hoạt và mưu trí các kiến thức quân sự để đánh quỵ cả một sư đoàn thiện chiến quân Nam Triều Tiên có máy bay, xe tăng, pháo lớn yểm trợ, khiến cho sư đoàn này từ sau lần đụng độ ấy đã phải nằm "án binh bất động" cho đến khi cuốn gói lên tàu về nước

Một điều lý thú là trong cuộc viễn chinh xâm lược miền Nam, lần đầu tiên quân Nam Triều Tiên bị bắt làm tù binh là lần đụng độ với trung đoàn 12 ở nam Bình Định, nơi chúng đặt chân xâm lược trước tiên. Và giờ đây, lần đụng độ cuối cùng sau bao nhiêu năm tháng gây tội ác man rợ, lại vẫn ở nam Bình Định: chúng bị chính trung đoàn 12 trừng trị đích đáng với hơn bảy trăm tên chết, bị thương và hai tên bị bắt sống. Một đòn nhớ đời trong lịch sử đánh thuê đối với cái sư đoàn con cưng mang tên "Mãnh Hổ" của bọn độc tài phát xít Nam Triều Tiên. Chẳng thế mà chúng đã dựng bia để làm cái gọi là tưởng niệm những tên lính đã chết trong trận này với những hàng chữ đồng mỉa mai: "Nơi đây, quân đội Nam Hàn đã đánh những trận đẫm máu với trung đoàn 12 Bắc Việt để bảo vệ lãnh thổ chính thể Việt Nam Cộng hòa". Đối với sư đoàn Sao Vàng, chiến dịch cắt đường số 19 của trung đoàn 12 năm đó đã góp những kinh nghiệm thiết thực trong giai đoạn phòng ngự bảo vệ vùng giải phóng kéo dài hơn hai năm trời ở bắc Bình Định sau đó.

Chiến dịch Xuân - Hè kết thúc, Bắc Bình Định hoàn toàn giải phóng. Thị trấn Bồng Sơn, Tam Quan, Hoài Ân tươi rợp bóng cờ. Trong các vườn dừa, vào những đêm trăng, các chiến sĩ dạy các cháu thiếu nhi múa, hát, niềm vui bừng sáng trên những đôi mắt trẻ thơ.

Hội nghị tổng kết. rút kinh nghiệm chiến dịch của sư đoàn Sao Vàng được tổ chức trong một vườn dừa ở thị trấn Tam Quan. Đoàn cán bộ trung đoàn 12 - trung đoàn lập nhiều thành tích trên mặt trận đường số 19 cũng có mặt. Đó là những ngày sum họp đông đủ, hào hứng hiếm có của sư đoàn.

"Chiến dịch Xuân 1972 trên chiến trường Bình Định là một điển hình chiến dịch tiến công tổng hợp trong năm tiến công chiến lược của toàn miền. Đó là một chiến dịch vừa tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, vừa cắt đường giao thông, đánh bại một bước chiến thuật co cụm, phá vỡ hệ thống kìm kẹp địch, giải phóng dân và đất đai. Đồng thời còn là một chiến dịch hiệp đồng binh chủng với quy mô vừa trên một hướng, trên một phạm vi tương đối rộng, thời gian tương đối dài, phối hợp chặt chẽ với chiến trường chung. Qua tác chiến của sư đoàn Sao Vàng, đã rút dược nhiều kinh nghiệm tốt về chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu và xây dựng đối với các binh đoàn chủ lực và các lực lượng vũ trang giải phóng của quân khu, xứng đáng là một quả đấm chủ lực mạnh trên chiến trường miền "Trung Trung Bộ"1 (Chú thích 1. Trích tuyên dương của Bộ tư lệnh Quân khu 5.)

Trong 24 ngày đêm liên tục tiến công, sư đoàn đã đánh 15 trận cỡ từ tiểu đoàn đến sư đoàn thiếu, hàng trăm trận phản kích vừa và nhỏ, cùng quân dân Bình Định giải phóng bốn quận lỵ, thị trấn, san bằng, bức rút 141 chốt điểm, căn cứ, cắt đứt sự vận chuyển của địch trên đường số 19 suốt 18 ngày đêm, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến trường Tây Nguyên tiêu diệt lớn. Sư đoàn đã loại khỏi vòng chiến đấu 10.165 tên địch (có 720 tên lính Nam Triều Tiên), diệt gọn trung đoàn 40 và phần lớn trung đoàn 41 sư đoàn 22 ngụy, quét sạch chính quyền cơ sở trong gần ba huyện, giải phóng hàng vạn dân, làm chủ đoạn đường số 1 dài 50 ki-lô-mét từ bắc Đèo Nhông đến đèo Bình Đê. Đồng thời thu được một khối lượng chiến lợi phẩm đáng kể gồm 22 pháo 105 và 155, hai cối 106.7, 63 xe quân sự, trong đó có 10 xe bọc thép và xe tăng M.41, 320 máy thông tin các loại, hàng trăm tấn đạn và đồ dùng quân sự.

Một vùng giải phóng liên hoàn nối đến với hậu phương chiến lược đã mở ra tới sát bờ biển.

Chiến thắng mùa xuân 1972 ở Bắc Bình Định đã giải quyết sáng tạo một loạt vấn đề về nghệ thuật tác chiến chiến dịch của quân khu và chỉ huy chiến đấu của sư đoàn. Đó là vấn đề lựa chọn khu vực chiến đấu, chọn thời gian, hình thức chiến dịch, chiến thuật, trận mở màn, trận then chốt, trận kết thúc... Có quân khu trực tiếp chỉ đạo, bộ tư lệnh sư đoàn đã dự kiến gần đúng những tình huống phức tạp có thể xảy ra, nên đã giành thắng lợi gấp ba lần dự kiến ban đầu1 (Chú thích 1. Dự kiến ban đầu chỉ giải phóng quận Hoài ân.) Khi đột phá Gò Loi, đã chuẩn bị lực lượng đánh địch phản kích ở Hòn Bồ. Giải phóng xong Hoài ân, đã sẵn sàng lực lượng để phát triển chiến dịch và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh bắc Phù Mỹ để cô lập Hoài Nhơn, một biểu hiện nghiêm túc của sư đoàn về chấp hành mệnh lệnh và tính chủ động, nhạy bén nắm bắt tình hình và ý định chiến dịch của quân khu. Vì thế, khi tiến đánh Bồng Sơn, Đệ Đức, địch còn đông, hỏa lực mạnh. có căn cứ lớn, vững chắc hơn hẳn khả năng sư đoàn lúc đó. nhưng do thế đã suy yếu và bị cô lập hoàn toàn nên bị tiêu diệt gọn. Nếu sau Hoài ân, sư đoàn tiến đánh Bồng Sơn, Đệ Đức ngay thì khó khăn chưa biết sẽ tới mức nào. Và có giải phóng được Hoài Nhơn thì giá trị diệt gọn sinh lực địch chắc chắn vẫn giảm đi, vì chúng còn rộng đường lui về Phù Mỹ, cũng có thể hiểu như vậy về hướng đánh cắt giao thông của trung đoàn 12 ở đường số 19, không chỉ có giá trị chiến dịch đối với chiến trường Tây Nguyên mà còn đối với cả bắc Bình Định. Sư đoàn "Mãnh Hổ chắc chắn sẽ không nằm yên khi hai trung đoàn 40, 41 ngụy bị đánh tơi tả cách đó 50 ki-lô-mét.

Tổ chức chiến dịch hợp lý, sắc sảo đã là một thắng lợi lớn, nhưng điều quyết định cuối cùng lại tùy thuộc ở những trận đánh cụ thể. Trong chiến dịch này, cán bộ các cấp trong sư đoàn đã tỏ rõ trình độ và khả năng vận dụng chiến thuật, tổ chức binh hỏa lực hợp lý. Điều đáng kể là luôn luôn theo dõi nắm chắc địch ta để sử dụng chiến thuật và thủ đoạn tác chiến một cách linh hoạt, không bảo thủ, cứng nhắc. Việc thay đổi hướng tiến công chủ yếu ở Hòn Bồ, Đệ Đức và chuyển từ "lấn dũi" sang vây lấn tốc độ nhanh ở Hoài ân, Đệ Đức, chuyển điểm chốt khống chế của đại đội 63 thành điểm cắt trên mặt đường số 19 tại cống Hang Dơi... là những biểu hiện của tính linh hoạt đó.

Trong chiến dịch này, sự phối hợp giữa tiến công của lực lượng vũ trang và nổi dậy của quần chúng nhân dân đã đạt tới trình độ nghệ thuật, thể hiện sự vận dụng cụ thể, sáng tạo phương châm "tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ, giành quyền làm chủ để tiêu diệt địch" của quân và dân Bình Định. Trong chiến dịch hoặc đợt hoạt động, tiến công và nổi dậy luôn luôn là hai bộ phận hợp thành để chiến thắng. Lòng tin giữa chủ lực và địa phương, giữa địa phương và chủ lực là lòng tin của những người cùng gắn bó về mục tiêu chiến đấu và tình nghĩa sắt son. Sự gắn bó mà mỗi bên đều thấy nếu chỉ riêng mình thì không thể hoàn thành được nhiệm vụ. Sự phối hợp chặt chẽ đó đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, áp đảo quân địch suốt từ đầu đến cuối.

Từ chiến thắng bắc Bình Định. Ở chiến trường Trung -Trung Bộ đã hình thành một công thức mới về chiến tranh nhân dân địa phương: chủ lực diệt một điểm, địa phương có thể giải quyết được ba đến bốn điểm khác. Cũng như chiến dịch Ba Gia ở Quảng Ngãi mùa hè năm 1965.. chiến dịch Xuân - Hè 1972 ở bắc Bình Định là chiến dịch tiến công tổng hợp điển hình của Quân khu 5 trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước1 (Chú thích 1 Theo tổng kết chiến tranh chống Mỹ của Quân khu 5.).

Chiến dịch này còn tỏ rõ sự tiến bộ vượt bậc về tổ chức mạng hậu cần của sư đoàn và địa phương, cả trong phục vụ chiến dịch và chiến đấu, cả trong tiến công và phòng ngự. Một năm trước đây, tổ chức hậu cần còn mang tính chất tự cấp, từng đơn vị chiến đấu phân tán tự lo lấy. Nhưng lần này, ngay từ đầu chiến dịch, hệ thống hậu cần đã phân cấp đảm nhiệm rõ rệt giữa địa phương với sư đoàn, giữa sư đoàn đến các đơn vị trên cơ sở tính toán rất thực tế và khoa học. Phương án bảo đảm hậu cần bám sát phương án chiến dịch, chiến đấu. Cũng như trong tác chiến, việc chỉ đạo và thực hiện công tác hậu cần luôn sáng tạo và linh hoạt theo diễn biến cụ thể trên chiến trường. Nếu không có các kho trạm ém trước ở Phù Mỹ, Hoài Nhơn và lưu động cấp phát cơ sở vật chất kỹ thuật trên đường hành quân cho bộ đội thì chắc chắn tốc độ phát triển chiến dịch sẽ không thể đáp ứng được ý định của người chỉ huy. Và, nếu không xúc tiến chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật ngay sau khi giải phóng Hoài ân thì việc tiến đánh Bồng Sơn, Đệ Đức với tốc độ và quy mô, hình thức chiến thuật như vậy, chắc chắn sư đoàn sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn. Riêng trung đoàn 12, với việc tính toán và tổ chức bảo đảm lương thực, thực phẩm cũng như vận chuyền súng, đạn, gỗ, bao cát... phục vụ chiến đấu phòng ngự hơn nửa tháng trời giữa vùng rừng núi hiểm trở, xa sư đoàn là một trưởng thành đáng kể.

Trong chiến dịch này, lần đầu tiên trong lịch sử của mình, sư đoàn thu được khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch. Ngành hậu cần đã kịp thời tận thu và sử dụng có hiệu quả cho trước mắt cũng như trong những năm tiếp theo.

Quán triệt sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, hậu cần sư đoàn đã kết hợp chặt chẽ với hậu cần nhân dân trong công tác bảo đảm của mình. Nó không chỉ thể hiện trong những ngày chuẩn bị chiến dịch mà cả trong quá trình chiến dịch phát triển. Mỗi chiến sĩ cầm súng chiến đấu đều thấy yên tâm và cảm kích mỗi khi nhận được những mệnh lệnh ngắn gọn: "Hành quân ngay đến Phù Mỹ, Bồng Sơn... sẽ có dân công, vận tải bổ sung súng, đạn". "Truy kích tiếp, thương binh giao lại cho địa phương". "Đại đội 1 nhận cơm nắm ở thôn Châu Trúc". "Tiểu đoàn 3 vượt đầm bằng thuyền đánh cá". "Đồng bào đã đánh xe lam tới, đại đội 2 và hỏa lực truy kích theo địch ngay".v.v. Kẻ thù không thể hiểu nổi và luôn bị bất ngờ về thời gian và tốc độ tiến công một phần là do phương pháp tổ chức hậu cần như vậy.

Đạt được những thắng lợi trên, không thể không nói đến hiệu quả có tính chất quyết định của những ngày xây dựng và huấn luyện. Việc làm thay đổi hẳn nhận thức, tư tưởng, tổ chức và phong cách tác chiến nhỏ lẻ, phân tán đã từng ăn sâu vào mỗi chiến sĩ trong những năm diệt kẹp, giành dân trước đây, chuyển sang chiến đấu tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô trung đoàn, sư đoàn trong thế trận chung của quân khu là một cuộc cách mạng thực sự đối với sư đoàn, đó là một quá trình học tập, rèn luyện công phu và kiểm nghiệm gắt gao về quán triệt nhiệm vụ, củng cố tổ chức, xây dựng nòng cốt, về bồi dưỡng và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, về huấn luyện chiến thuật cũng như kỹ năng chiến đấu của bộ đội... Không phải ngẫu nhiên mà trong chiến dịch này, người chỉ huy chỉ cần ra lệnh đánh bằng chiến thuật nào là mỗi cán bộ, chiến sĩ đã có thể nhanh chóng biết mình phải chuẩn bị và hành động ra sao ở cương vị được đảm nhiệm.

Chỉ trong năm tiếng đồng hồ, trung đoàn 12 đã cấu trúc xong một trận địa phòng ngự giữa vùng núi đá sỏi sát nách địch. Hoặc như đại đội cối 120 bắn 30 quả đạn vào chóp nhọn Hòn Bồ, năm quả vào nửa phía đông điểm cao 75 không sai quả nào. Và viên đạn 105 đầu tiên được bắn đi trong lịch sử chiến đấu của sư đoàn đã trúng tháp nước căn cứ Đệ Đức, v.v. là những biểu hiện sinh động của kết quả huấn luyện. Vì vậy, trong chiến dịch này, tỷ lệ tiêu thụ đạn dược đạt mức thấp nhất. 20 ngày chiến đấu ở bắc Bình Định, sư đoàn sử dụng 58 tấn đạn. Trung bình mỗi tấn đạn loại khỏi vòng chiến đấu 172 tên địch (không kể kết quả phụ kho tàng, phương tiện chiến tranh và hầm hào, lô cốt).

Sự nỗ lực về các mặt của cán bộ chiến sĩ sư đoàn và quân dân địa phương là vô cùng to lớn, nhưng không thể tách rời thắng lợi của sư đoàn với chiến công của các chiến trường toàn miền trong mùa xuân lịch sử đó, trực tiếp là hoạt động của các đơn vị trên địa bàn quân khu và tỉnh Bình Định. Sư đoàn 22 ngụy không bị giam chân khốn đốn ở Công Tum, lực lượng dự bị chiến lược ngụy không bị đổ vào Quảng Trị, An Lộc.. thì cuộc chiến đấu của sư đoàn Sao Vàng và quân dân Bình Định sẽ còn gian khổ ác liệt biết chừng nào. Điều đáng kể là trước thời cơ chung, quân dân Bình Định cũng như sư đoàn Sao Vàng đã phát huy được nỗ lực chủ quan, tạo ra thời cơ trực tiếp, biến ít thành nhiều, nhỏ thành lớn, nhân thắng lợi lên gấp bội. .

Tấm huân chương Quân công hạng nhất tặng cho sư đoàn Sao Vàng, hai huân chương Quân công hạng Nhì tặng cho các trung đoàn, và tỉnh Bình Định được tuyên dương là ngọn cờ đầu toàn miền về tiến công và nổi dậy trong chiến dịch này là một phần thưởng cao quý đối với cán bộ chiến sĩ và đồng bào.

Tuy nhiên, mọi người đều hiểu giải phóng rồi, nhưng bảo vệ thành quả thế nào, tiếp tục phát huy nó ra sao đang còn là một trách nhiệm lớn lao mà hơn ai hết, mỗi cán bộ. chiến sĩ sư đoàn ý thức rõ rệt trách nhiệm đó trước tiên thuộc về họ.

Cuộc chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng đang chờ họ ở phía trước.

Hết Chương 6
Thông tin sách