Tiểu sử, Hồi ký
Tác giả: Nhiều Tác Giả

Lịch Sử Sư Đoàn Sao Vàng

Chương 3

RA ĐỜI TỪ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG

1. ĐỊA BÀN TRỌNG ĐIỂM CỦA MỘT CHIẾN TRƯỜNG TRỌNG ĐIỂM.

Cuối năm 1964, đầu năm 1965, những cuộc tiến công ở cả ba vùng chiến lược rừng núi, nông thôn, thành thị và sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang của quân dân miền Nam đã phát triển tới đỉnh cao chưa từng có.

Nhiều trận đánh tiêu diệt lớn quân ngụy xảy ra dồn dập ở đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ Tây Nguyên, đồng bằng Khu 5.:. Phối hợp với đấu tranh vũ trang ở các đô thị lớn, hàng ngàn, hàng vạn người đã xuống đường. Sinh viên Sài Gòn tổng bãi khóa, đòi lật đồ chính phủ bù nhìn, đòi Tay-lơ cút về nước. Ở nông thôn, với khẩu hiệu : "Thôn tự giải phóng thôn, xã tự giải phóng xã", đồng bào mang dao, cuốc, gậy gộc, bao vây các đồn bốt, trụ sở, lùng bắt bọn ác ôn, phá "ấp chiến lược", thành lập chính quyền cách mạng. Trên các vùng cao nguyên, đồng bào các dân tộc phá rã nhiều khu đinh cư, Định điền, trở về buôn làng cũ. Vùng giải phóng không còn ở thế "da báo" mà đã tạo thành những mảng liên hoàn lớn. Hai triệu héc-ta ruộng đất . . (trong số hơn ba triệu héc-ta) ở miền Nam đã được chia cho nông dân . Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ về cơ bản đã bị phá sản. Tình hình trên buộc chính quyền Giôn-xơn phải cấp tốc đưa nhanh quân đội Mỹ cùng với những phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam; song song với việc ném bom ồ ạt miền Bắc, hy vọng có thể cứu vãn được tình trạng đen tối đó.

*

* *

Chiến trường Khu 5 hồi đó gồm chín tỉnh : Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Công Tum, Gia Lai, Đắc lắc. Trong số chín tỉnh thì sáu tỉnh là vùng đồng bằng ven biển trù phú., ba tỉnh là miền rừng núi Tây Nguyên hiểm trở. Khu 5 đông dân cư, trù phú, có nhiều sân bay, bến cảng lớn như sân bay Đà Nẵng, Chu Lai, (Quảng Nam), Gò Quánh (Bình Định), Thành Sơn (Ninh Thuận)... Các bến cảng Sơn Trà (Quảng Đà), Quy Nhơn (Bình Định), Cam Ranh (Khánh Hòa) là các quân cảng lớn có thể tập kết những tàu biển hàng vạn tấn. Ba con đường chiến lược quan trọng 19 (Bình Định), 21 (Khánh Hòa) và đường số 7 (Phú Yên) là những con đường nổi liền đồng bằng ven biển với các tỉnh Tây Nguyên.

Địa hình Khu 5 hiểm trở, núi và đồng bằng xen kẽ. Nhiều nơi dãy Trường Sơn nhô ra sát biển, thuận lợi cho quân ta tập kết, chuẩn bị những trận đánh lớn chia cắt chiến trường.

Ngay từ năm 1959, đồng chí Lê Duẩn đã xác định :Khu 5 không phải là vùng kinh tế, chính trị của địch. Trọng điểm kinh tế của chúng là đồng bằng sông Cửu Long, trung tâm chính trị của chúng là Sài Gòn - Gia Định. Khu 5 là tiền tuyến của địch, là đầu cầu chiến lược để bảo vệ chế độ độc tài quân phiệt của chúng, không giữ được Khu 5, Sài Gòn sẽ bị uy hiếp1.(Chú thích 1. Theo thư đồng chí Lê Duẩn gửi Khu ủy Khu 5) Thực tế bố trí chiến lược của địch đã phản ánh rõ nhận định đó.

Sau các đợt (( tố cộng, diệt cộng )) bi thất bại, sau phong trào đồng khởi 1959 - 1960 của nhân dân miền Nam, Mỹ - ngụy lấy càn quét, gom dân làm biện pháp chủ yếu. Chúng đã ném vào chiến trường miền Trung (kể cả Trị - Thiên) sáu sư đoàn trong tổng số chín sư đoàn quân ngụy.

Do địa bàn chiến lược xung yếu như vậy nên đảng bộ Khu 5 đã sớm chú ý tới việc xây dựng lực lượng vũ trang . Ngày 20 tháng 7 năm 1961 , sau hai năm nổ ra cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Trà Bồng (Quảng Ngãi) Bộ tư lệnh quân khu 5 được thành lập, và đến tháng 5 năm 1964, Mặt trận Tây Nguyên ra đời. Khối chủ lực của quân khu, đến cuối mùa hè năm 1965 lên tới bảy trung đoàn. Các tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh, đại đội huyện không ngừng phát triển. Các trung đội du kích được thành lập ở hầu khắp các thôn xã

Phối hợp với chiến trường toàn miền, Bộ tư lệnh quân khu 5 liên tiếp mở những đợt hoạt động lớn, điển hình là đợt hoạt động An Lão (l2-1964). Tại thung lũng dài trên 20 ki-lô-mét này, trung đoàn 2, nòng cốt của sư đoàn Sao Vàng sau này cùng với tiểu đoàn đặc công Quân khu và các lực lượng vũ trang địa phương, trong hai ngày đã tiêu diệt, bắt sống toàn bộ quân địch, giải phóng hoàn toàn huyện An Lão.

Tiếp đó là đợt hoạt động Xuân 1965. Các đơn vị chủ lực và địa phương đã đánh một số trận xuất sắc, tiêu diệt gần hết hai tiểu đoàn bộ binh, một chi đoàn xe bọc thép M113 của sư đoàn 22 ngụy tại Đèo Nhông (Bình Đinh), tập kích căn cứ quân sự Hô-lu-uây của Mỹ tại Plây Cu, diệt 300 tên, phá hủy 42 máy bay, làm chấn động dư luận cả nước Mỹ.. Trong đợt hoạt động Hè. bộ đội chủ lực và địa phương ở bắc quân khu lại thắng lợi ở Ba Gia (Quảng Ngãi), tiêu diệt gọn chiến đoàn 51 ngụy. Ở Tây Nguyên, sau khi cắt đứt các con đường chiến lược 19, 21 , 7, ta tiến hành bao vây quận ly Thuần Mẫn, phục kích đánh thiệt hại nặng một chiến đoàn dù tổng dự bi chiến lược của địch lên giải tỏa, buộc địch phải rút bỏ Thuần Mẫn, giải phóng một vùng đất rộng lớn từ Thuần Mẫn đến Cheo Reo. Khu 5 có phong trào đấu tranh chính trị phát triển cao. Trong sáu tháng cuối năm 1964, được sự hỗ trợ của các lực lượng vũ trang, nhân dân trong toàn khu đã nổi đậy phá 1.080 "ấp chiến lược" ở đồng bằng và 292 ấp ở miền núi, chiếm 50 phần trăm tổng số "ấp chiến lược" toàn khu, giải phóng hoàn toàn 123 xã, đưa số dân làm chủ lên. tới 1,5 triệu người.

Tháng 8 năm ấy, cuộc nổi dậy của đồng bào Đà Nẵng chống tập đoàn Khánh - Hương kéo dài liên tục trong tám ngày, làm tan rã tinh thần binh lính ngụy. Trong đợt hoạt động xuân và Hè, đồng bào ở các huyện Hoài Nhơn, Hoài ân, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy phước (Bình Định) đã đồng loạt nổi dậy, giải phóng huyện Vân Canh thị trấn Tam quan, làm chủ đoạn đường số 1 từ Tài Lương tới Bình Đê, nơi tiếp giáp giữa quân khu 2 và quân khu 1 ngụy.

Ở Quảng Ngãi, 10 vạn quần chúng ở các huyện nam, bắc sông Trà Khúc kéo vào thị xã Quảng Ngãi đòi quân Mỹ rút về nước, đòi xác chồng con bị chết trận. Ở các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Trà Bồng... đồng bào liên tục nổi dậy, phá "ấp chiến lược" ở 27 xã, 20 vạn đồng bào đã giành được quyền làm chủ. Những cuộc tiến công của bộ dội chủ lực, địa phương kết hợp với phong trào nổi dậy của quần chúng trong những đợt hoạt động trên đã hình thành một hình thức hoạt động mới ở Khu 5 : hình thức tiến công tổng hợp. Trước những thất bại liên tiếp của quân ngụy, tháng 3 và tháng 5 năm 1965, hai sư đoàn lính thủy đánh bộ số 1 và số 3 Mỹ đồ bộ vào Đà Nẵng, Chu Lai (Quảng Nam), lữ đoàn 1 sư đoàn dù 101 đến Cam Ranh (Khánh Hòa). Tháng 9, sư đoàn (( kỳ binh không vận )) đến An Khê (Gia Lai): Tháng 10, sư đoàn (( Mãnh Hổ ) Nam Triều Tiên vào Quy Nhơn, Nha Trang. Lữ 1 sư đoàn (( RồngXanh )) đổ bộ vào Tuy Hòa (Phú Yên). Cùng với quân lính, một khối lượng vũ khí, trang bị khổng lồ gồm 1200 máy bay, 600 khẩu pháo, 855 xe tăng, xe bọc thép

Việc quân Mỹ đổ bộ ồ ạt vào chiến trường Khu 5 làm cho so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi. Tình hình đó đặt ra cho Bộ tư lệnh Quân khu phải có những trận đánh tập trung lớn hơn vào cả quân Mỹ và quân ngụy, phải có những đơn vị lớn hơn. cụ thể phải có những quả đấm của các sư đoàn chủ lực cơ động hoặc cắm sâu ở các địa bàn trọng yếu. mới có thể đáp ứng kịp đòi hỏi cửa phong trào cách mạng.

Tháng 8 năm 1965. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Khu 5 : Cố gắng xây dựng lực lượng vũ trang, tập trung xây dựng chủ lực là chính, chú ý chăm sóc phong trào chiến tranh du kích và chỉ đạo tác chiến đối với bộ đội địa phương.

Thời gian này, tuyến vận tải chiến lược ở Quân khu 5 đã được củng cố và mở rộng. Con đường mòn chiến lược xuyên rừng, xuyên biển lần lượt đến các chiến trường. Mức độ chi viện các mặt của miền Bắc cho Khu 5 được tăng lên. Hai trung đoàn bộ binh 21 và 22, một số tiểu đoàn hỏa lực cùng một khối lượng lớn vật chất kỹ thuật được bổ sung cho Khu 5 đang trên đường vào. Ở các vùng giải phóng, sau khi quân Mỹ đồ bộ vào miền Nam, gần 5.000 thanh niên nam nữ các tỉnh Bình Định, Gia Lai, Quảng Ngãi... hăng hái xung phong nhập ngũ. Hàng vạn tấn gạo, thực phẩm cung cấp cho các đơn vị chủ lực được dân công chuyển đến các kho trạm dự trữ trên căn cứ. Những điều kiện để hình thành các sư đoàn chủ lựccủa Khu 5 đã chín muồi.

Ngày 9 tháng 8 năm l965, Thường vụ Đảng ủy Quân khu họp ra nghị quyết thành lập các sư đoàn chủ lực

Sư đoàn 2 với hai trung đoàn bộ binh 1 và 21 cùng một số tiểu đoàn trực thuộc.

Sư đoàn 3 với ba trung đoàn bộ binh 2, 12, 22, một tiểu đoàn pháo cối, một tiểu đoàn cao xạ 12,7, một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn thông tin, một đại đội trinh sát.

Sư đoàn 2 phụ trách chiến trường chính của quân khu từ tỉnh Quảng Ngãi ra Quảng Nam.

Sư đoàn 3 lấy nam Quảng Ngãi và Bình Định làm địa bàn hoạt động chủ yếu.

Về quân sự, vùng sư đoàn 3 hoạt động, núi, đồng bằng ven biển xen kẽ thuận tiện cho việc triển khai lực lượng, vừa lợi thế công, vừa vững thế thủ. Nó còn là nơi tiếp giáp giữa quân khu 1 và quân khu 2 ngụy, ta có thể tạo thế chia cắt chiến lược hết sức lợi hại. Bình Định là ngã ba của hai con đường chiến lược lớn : 1 và 19 nối cảng QuyNh n với Plây Cu, trung tâm của Tây Nguyên. Tướng Oét-mo-len đã từng nói, mất Bình Định miền Trung sẽ bị cắt đôi ở quãng giữa và sẽ mất một đầu cầu chiến lược quan trọng nuôi sống các tỉnh Tây Nguyên.

Đứng chân ở vùng địa bàn Bình Định, nam Quảng Ngãi, sư đoàn 3 cùng một lúc phải đảm nhiệm hai nhiệm vụ quan trọng : đánh vào phía sau quân địch và cô lập chúng khi ta tiến công Tây Nguyên và tạo thế chia cắt chiến dịch khi ta tiến công đồng bằng ven biển. sư đoàn còn là lực lượng cơ động của quân khu khi cuộc tiến công phát triển về phía nam.

Sau đợt hoạt động Hè 1965., vùng giải phóng nam Quảng Ngãi và bắc Bình Định đã được Mỹ rộng. có thể dung nạp từ hai đến ba trung đoàn chủ lực đứng chân và hoạt động. Đặc biệt đồng bào Quảng Ngãi, Bình Định vốn có truyền thống kiên cường, bất khuất là nhân tố thường xuyên làm tăng thêm sức mạnh của sư đoàn: Đó là một địa bàn trọng điểm của một chiến trường trọng điểm. nơi sư đoàn Sao Vàng ra đời hoạt động trong suốt mười năm chiến đấu anh dũng, thắng lợi vẻ vang.

2. SƯ ĐOÀN SAO VÀNG RA ĐỜI

Trước ngày tập hợp trong đội hình chiến đấu của sư đoàn, các trung đoàn 2,12 đã có những trang sử chiến đấu hết sức oanh liệt.

Trung đoàn 2 là trung đoàn chủ lực đầu tiên của quân khu, thành lập tháng 5 năm 1962, hoạt động chủ yếu ở Quảng Ngãi và Công Tum. Trung đoàn gồm 4 tiểu đoàn bộ binh: 90, 95, 20, 80, một tiểu đoàn pháo, cối, một đại đội đặc công.

Ba tháng sau khi thành lập, trung đoàn đã đánh bại cuộc càn lớn bằng trực thăng của quân nguỵ tại Hà Niêu, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi. Trong trận này, tiểu đoàn 90 đã bắn rơi 12 máy bay lên thẳng , diệt gần 100 tên địch và là ngọn cờ đầu đánh bại chiến thuật "trực thăng vận" trong phong trào thi đua do quân khu phát động.

Tháng 3 năm 1963, giữa lúc trung đoàn đang hoạt động ở Mò O, Trường an, Suối Loa (Quảng Ngãi) thì được lệnh quay về Long Lếch, nơi địch đang tập trung 3 sư đoàn mở một cuộc hành quân quy mô lớn nhằm tìm diệt cơ quan đầu não của Quân khu. Vừa hành quân đến vị trí tập kết, trung đoàn bước ngay vào vị trí chiến đấu, diệt một ban chỉ huy tiểu đoàn, một đại đội bộ binh, thu hai pháo 105mm, 6 xe quân sự, bẻ gãy một cánh quân càn quét của địch. Sau đó, trung đoàn được lệnh toả ra các hướng diệt kẹp, dành dân, hỗ trợ cho lực lượng nổi dấy của quần chúng.

Tháng 12 năm 1964, quân khu quyết định mở đợt hoạt động An lão do trung đoàn 2 và tiểu đoàn 409 đặc công đảm nhiệm. Đây là đợt hoạt động đầu tiên của chủ lực quân khu 5, nhằm tiêu diệt một lực lượng lớn sinh lực địch, giải phóng một khu vực hoàn chỉnh đông dân và trù phú ở vùng giáp ranh tỉnh Bình định, tạo điều kiện tiến xuống đồng bằng và đường số 1.

Trong đợt hoạt động này, trung đoàn 2 sau 2 giờ chiến đấu đã tiêu diệt 11 vị trí địch. Sau đó chuyển sang phục kích đánh quân giải toả, trung đoàn đã bao vây tiêu diệt gần 600 tên địch, bắn cháy 5 xe M113, lần đầu tiên diệt được xe M113 của địch trên chiến trường này. Quận lỵ An Lão được hoàn toàn giải phóng.

Chiến thắng An Lão đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bật của chủ lực quân khu. Lần đầu tiên, trên chiến trường Khu 5 xuất hiện phương thức tác chiến mới của bộ đội chủ lực, kết hợp bộ đội địa phương, dân quân du kích dưới hình thức đợt hoạt động với quy mô trung đoàn.

Trong đợt hoạt động Xuân 1965, sau khi tiến công đồn Dương Liễu (bắc Phù Mỹ), diệt và bắt 195 tên địch, trung đoàn 2 lại bố trí trận địa phục kích ở đèo Nhông. Có kinh nghiệm chỉ huy đánh phục kích trong thung lũng An Lão, trung đoàn cho các đơn vị giãn thưa đội hình, nhử địch vào thế bố trí sẵn nên đã tiêu diệt gần hết chiến đoàn nguỵ, bắn cháy 10 xe M113, bắt sống 1 xe, bắn rơi 2 máy bay.

Trận phục kích vận động ở đèo Nhông đã nêu một kỷ lục mới về tiêu diệt địch ngoài công sự, Mỹ đầu cho thời kỳ đánh tiêu diệt lớn quân nguỵ trên chiến trường khu 5. Tiếp đó, trung đoàn 2 lại phục kích đánh thiệt hại nặng một chiến đàon dù nguỵ ở đường 7bis, cùng đơn vị bạn bao vây, bức rút quận lỵ Thuần Mẫn, giải phóng một vùng rộng lớn ở nam Tây Nguyên.

Lịch sử trung đoàn 2 là lịc sử bám dân, bám đất, từ những trận đánh du kích trưởng thành lên và không ngừng lớn mạnh, càng đánh càng thắng và đã trở thành nòng cốt của sư đoàn 3 Sao vàng sau này.

Khác với trung đoàn 2, trung đoàn 12 (trung đoàn 18, đại đoàn 325 thời kháng chiến chống Pháp) ra đời trên mảnh đất Bình-Trị khói lửa, hoạt động chủ yếu ở Quảng bình, một chiến trường vùng sau lưng địch, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, gồm 2 tiểu đoàn 274 và 436.

Từ ngày thành lập (1947) cho đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc trung đoàn đã tham gia nhiều chién dịch, đánh thắng nhiều trận oanh liệt, điển hình là chiến dịch Lê Lai (12-1949) và trận thắng Xuân Bồ (5-1950).

Trong trận Xuân Bồ, các chiến sĩ tiểu đoàn 436 (nay là tiểu đoàn 5) và 274 (nay là tiểu đoàn 4) đã chiến đấu rất dũng cảm và táo bạo với một binh đoàn ứng chiến Âu-Phi. Trận đánh kéo dài và hết sức quyết liệt. Trong tình thế khó khăn, lực lượng ít so với địch, các chiến sĩ đã chuyển từ phòng ngự sang chủ động phản kích. Áau trận này, trung đoàn 12 tham gia chiến dịch Phan Đình Phùng (5-1950), chiến dịch Nam Đông (1952) rồi chiến dich Đông Xuân (1953-1954), dù ở chiến trường nào, trung đoàn cúng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Hoà bình lập lại, từ chiến trường hạ Lào, trung đoàn trở về Quảng bình. Tháng 2-1965, được lệnh lên đường vào chiến trường khu 5, kịp thời tham gia đợt hoạt động hè ở nam Tây Nguyên. Trong đợt hoạt động này, trung đoàn đã hoành thành nhiệm vụ cắt đứt hai con đường chiến lược số 7 và 19, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của chúng.

Sở trường của trung đoàn 12 là đánh vận động tiến công, cắt giao thông nằm sâu trong lòng địch.

Không giống như hai trung đoàn 2 và 12 có một bề dày lịch sử và chiến công, trung đoàn 22 được thành lập ở miền bắc hè năm 1965 trong cao trào thi đua chống Mỹ cứu nước của quân dân ta thực hiện Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 11. Cán bộ của trung đoàn hầu hết đã trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp. Vào đến chiến trường, trung đoàn được bổ sung thêm tiểu đoàn 8 thuộc trung đoàn 1 chủ lực quân khu. Tiểu đoàn này trưởng thành từ phong trào cách mạng quân khu 5, đã tham gia chiến thắng ở Kỳ Sanh, Việt An và chiến thắng Ba Gia lịch sử. Có thể nói trung đàon 22 là biểu tượng của sự kết tinh giữa hai lớp người trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến, hai miền Nam-Bắc của Tổ Quốc.

Ba trung đoàn, ba sắc thái khác nhau, khi cùng nhau tập họp trong đội hình sư đoàn là vốn quý báu để viết nên nhứng trang sử vẻ vang của sư đoàn Sao vàng sau này.

Ngày 2 tháng 9 năm 1965, ngày kỷ niệm lần thứ hai mươi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, tại khu rừng Bà Bơi, xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Ân, lễ thành lập sư đoàn 3 đã diễn ra giản dị và trang nghiêm với sự có mặt của đại diện cán bộ và chiến sĩ ba trung đoàn 2, 12, 22, đại diện các đảng bộ và đoàn thể tỉnh Bình Định, huyện Hoài Ân. Bộ Tư lệnh sư đoàn gồm các đồng chí Giáp Văn Cương, sư đoàn trưởng, Đặng Hoà, chính uỷ, Huỳnh Hữu Anh, phó sư đoàn trưởng kiêm tham mưu trưởng, Nguyễn Nam Giới Phó chính uỷ kiêm chủ nhiệm chính trị.

Gần 1000 người, cả trong và ngoài hội trường đều chăm chú láng nghe, đều thấy như ý chí, tình cảm và nguyện vọng của mình đang được các đồng chí chỉ huy sư đoàn và đại diện tỉnh đảng bộ nói lên bằng những lời sâu sắc nhất, tâm huyết nhất.

Kết thúc buổi lễ, khẩu hiệu hành động: "Trung thành-Anh dũng-Ra trận là chiến thắng- Gặp địch là tiêu diệt-Quyết tâm-Quyết chiến-Quyết thắng giặc Mỹ xâm lược" được mọi người hô vang như một lời thề.

Sau này Quyết tâm, Quyết chiến, Quyết thắng là mật danh của ba trung đoàn 2, 12, 22.

Ra đời trong bối cảnh quân nguỵ đang tan rã, quân Mỹ và chư hầu đang vội vàng nhảy vào miền nam, các sư đoàn chủ lực của quân khu 5 có nhiệm vụ tiếp tục đánh cho nguỵ quân, nguỵ quyền sụp đổ và đánh phủ đầu quân viễn chinh Mỹ, quân chư hầu vừa mới nhảy vào cho đến khi thắng lợi hoàn toàn. Sự ra đời của các sư đoàn chủ lực của Khu 5 không chỉ phản ánh sự phát triển tất yếu của chiến tranh nhân dân mà còn đáp ứng rất đúng lúc, rất kịp thời cuộc chiến tranh giải phóng đang trên đà thắng lợi.

Riêng với địa bàn Quảng Ngãi - Bình Định, việc xuất hiện một sư đoàn chủ lực chứng tỏ sự lớn mạnh của phong trào cách mạng. Đêm ngày 2 tháng 9, đảng uỷ sư đoàn họp phiên dầu tiên để thảo luận, quán triệt tính chất và nhiệm vụ của sư đàon. Hội nghị nhất trí với trên xác định sư đoàn 3 là sư đàon cơ động của quân khu 5. Trước mắt sư đoàn nhận nhiệm vụ chiến đấu chủ yếu ở các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắc Lắc, lấy Bình Định, Quảng Ngãi làm hậu cứ.

Để luôn nhớ tới lời thề thiêng liêng của cán bộ chiến sĩ trước quốc kỳ, đảng uỷ sư đoàn đề nghị quân khu cho sư đoàn được mang tên "đoàn Sao Vàng". Lấy hình ảnh "Sao Vàng", đảng uỷ muốn nhắc cán bộ chiến sĩ hãy dũng cảm chiến đấu vì lá cờ vinh quang của Tổ quốc, vì một nước Việt Nam độc lập và thống nhất.

3. Cuộc giáp mặt đầu tiên với sư đoàn "Kỵ binh bay" - Lời giải đáp từ trận thắng Thuận Ninh

Tháng 9 năm 1965, sư đoàn không vận số 1 Mỹ, còn được gọi là sư đoàn "kỵ binh bay" bắt đầu đổ bộ vào bờ biển Quy Nhơn. Sư đoàn này có trên 1 vạn quân, 455 máy bay, biên chế thành 3 lữ đoàn. Mỗi đại đội có 180 lính được trang bị vũ khí hiện đại như AR15, cối cá nhân M79...Chỉ huy sư doàn là tướng hai sao Ki-na, người đã từng tham gia cuộc đổ bộ ở Nooc-man-di và được phong quân hàm đại tá lúc 24 tuổi.

Trong cuộc họp đầu tiên với ban chỉ huy quân khu 2 nguỵ, Ki-na yêu cầu quân nguỵ phải nối cho được các con đường chiến lược số 1, 19, 14 để cho quân Mỹ triển khai lực lượng. Nhưng sau khi nghe Vĩnh Lộc, tư lệnh quân khu báo cáo về tình trạng bi đát của quân nguỵ, Ki-na đành đồng ý với đề nghị của Vĩnh Lộc: quân Mỹ sẽ đánh thông đường 19, 14 còn quân nguỵ đánh thông đường số 1 từ Quy Nhơn đi Quảng Ngãi.

Chỉ với nhiệm vụ đó cũng đã quá nặng nề đối với quân khu 2 nguỵ. Lộc vội vã kéo toàn bộ sư đoàn 22 ở Tây Nguyên xuống và xin thêm một số tiểu đoàn biệt động và lính thuỷ đánh bộ, liên tiếp Mỹ các cuộc càn quét vào các thôn ấp dọc hai bên đường số 1. Đi đến đâu chúng cũng tuyên truyền ầm ĩ về sức mạnh của quân Mỹ và không ngớt rêu rao về thế chủ động chiến trừng đã thuộc về chúng. Chúng lập ra nhiều cụm chiến đấu hai đến ba tiểu đoàn ở Phù Cát, Phù Mỹ, Bồng Sơn, từ đó bung ra đánh phá. Thấy chỉ đụng độ với bộ đội địa phương và du kích, chúng huenh hoang tuyên bố: "Việt Cộng không còn đủ sức tập trung quân để tiến công nữa. Quân lực Việt nam Cộng hoà sữ đánh tới tận sào huyệt của chúng."

Chính lúc bọn địch đang hò hét thì tại một địa điểm ở vùng căn cứ phía tây tỉnh Quảng Nam, Bộ tư lệnh quân khu 5 đã phát lệnh chiến đấu số 1 về chiến dịch Đông 1965 trong toàn quân khu. Lúc này, lực lượng vũ trang quân khu đã tổ chức những trận đánh phủ đầu quân Mỹ. Ngày 28 tháng 8, các chiến sĩ đại đội đặc công Quảng Nam dùng lê tiêu diệt gọn một đại đội lính Mỹ trên núi Thành. Các chiến sĩ trung đoàn 1 sư đoàn 2 tiêu diệt gần một ngàn tên Mỹ trên bãi biển Vạn Tường (Quảng Ngãi): Đây là hai trận đánh mở đầu báo hiệu khả năng chiến đấu to lớn của lực lượng vũ trang ta đối với quân Mỹ - một quân đội mà chúng cho là (( mạnh nhất thế giới )). Tuy vậy, mục tiêu chủ yếu trong chiến dịch Đông 1965 của các lực lượng vũ trang quân khu vẫn là quân chủ lực ngụy. Hội nghị Khu ủy và Quân khu ủy họp hồi tháng 8 đã phân tích rõ: Sau đợt hoạt động Hè, tình hình trong khu đang hết sức thuận lợi cho ta về mọi mặt. Nhưng rõ ràng không thể phát động toàn quân, toàn dân tiến công đồng loạt như chủ trương hồi tháng 5 được nữa. Việc quân Mỹ ồ ạt nhảy vào đã củng cố lại thế và lực của địch ở các vùng xung yếu. Hội nghị quyết định trong chiến dịch Đông 1965, ta chỉ tiến hành tiến công kết hợp với nổi dậy của quần chúng, tranh thủ tiêu diệt ngụy quân, ngụy quyền, triệt chỗ dựa của quân Mỹ đồng thời kiên quyết đánh phủ đầu quân Mỹ.

Đối với các đơn vi chủ lực, Bộ tư lệnh Quân khu chỉ thị : Phải đánh tập trung tiêu diệt chủ lực địch, hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng, song song với việc xây dựng đơn vị trưởng thành về mọi mặt. Triệt để thực hiện phương châm đánh điểm, diệt viện, kể cả diệt viện bằng đường không. Từ đó phải đánh vận động giỏi, đánh căn cứ giỏi, diệt địch ngoài công sự là chính.

Ngay sau khi kết thúc đợt hoạt động nam Tây Nguyên. nắm bắt được ý định quân khu, với kinh nghiệm vẫn có của mình, bộ tư lệnh sư đoàn đã ra chỉ thị và hướng dẫn các đơn vị tổ chức huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật, đồng thời tập luyện cách đánh địch đồ bộ đường không. Mỗi thôn xóm, mỗi khu rừng đều được giả định là một trận địa. Cả bộ đội chủ lực và các lực lượng dân quân dư kích đều lập phương án chiến đấu. Nơi cắm chông, gài mìn, nơi lập thế trận phục kích; suốt ngày mồ hôi không lúc nào khô trên lưng áo các chiến sĩ. Cùng thời gian đó, tỉnh ủy Bình Định ra nghị quyết về đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tăng cường xây dựng lực lượng, đẩy mạnh chiến tranh du kích phối hợp với bộ đội chủ lực trong toàn tỉnh. Tiểu đoàn 50 và 52, các đại đội của huyện, du kích xã đều được củng cố và huấn luyện.

Đồng chí bí thư tỉnh ủy Bình Định Trần Quang Khanh người cán bộ lão thành trước cách mạng tháng 8 và trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã từng đóng khố, xâu tai để hoạt động ở các vùng cao trong những năm đầu xây dựng căn cứ địa, hôm nay là thành viên trong Bộ chỉ huy mặt trận đã cùng đồng chí chủ tịch tỉnh và chủ tịch hội đồng chi viện tiền phương chia nhau xuống vùng ven biển kiểm tra lực lượng dân quân du kích và tổ chức lực lượng đấu tranh chính trị, lực lượng hậu cần.

Gần hai ngàn dân công được huy động chuyển gạo, đạn và sau đó lập thành các đội tải thương phục vụ chiến dịch. Đồng bào các thôn ấp giải phóng hết đêm này qua đêm khác xay lúa, giã gạo làm lương khô. Ở đâu cũng nghe nói để dành cho sư đoàn Sao Vàng ăn no đánh thắng.

Các chiến sĩ mỗi lần đi lấy gạo, thực phẩm lại có dịp trở về những miền đất, gặp lại những người dân. những người mà họ thường nói "được nuôi cách mạng thì ít, chịu ơn cách mạng thì nhiều", lại gặp những sự phẫn nộ đáng kính của các chú, thím, luôn níu áo cán bộ mà hỏi : Nhà tui không đi lính, không ác ôn, mắc chi mấy chú không cho bộ đội tới lấy cá, lấy gạo, Bộ đội chê tụi tôi không nhiệt tình sao

Mùa thu năm 1965 tươi mát với những trận mưa đầu mùa, những ngày nắng ráo và những đêm trăng trong suốt không gian. Rồi sắc cỏ, lá cây thẫm dần, báo hiệu mùa chiến dịch sắp bắt đầu. Các thao trường luyện quân trở nên yên ắng. Các đơn vị bí mật lần lượt xuất quân. Trung tuần tháng 9 năm ấy, sư đoàn Sao Vàng và các đơn vị phối thuộc được lệnh chuyển dần vào sát khu vực hoạt động. Quân đi cuồn cuộn thâu đêm Trung đoàn 2 từ Vĩnh Thành vượt đèo Bồ Bồ qua Phù Cát Bình Khê. Trung đoàn 22 từ nam Quảng Ngãi tiến vào tây Hoài Nhơn. Trung đoàn 12 từ Hoài ân dịch xuống Phú Mỹ. Các tiểu đoàn 50, 52 của tỉnh từ ven biển thọc lên ém sát đường số 1. Một thế trận dài hơn 50 ki-lô-mét được hình thành kéo dài từ bắc Bồng Sơn đến nam Phù Cát.

Lần đầu tiên, toàn sư đoàn ra quân Hầu hết các đơn vị đều được bổ sung súng đạn, từ CKC, AK đến trọng liên 12,8, DKZ. 75, cối 120-82: Rồi bộc phá, lựu đạn, con lăn bằng rơm, bao tải đựng đất làm công sự... tất cả dầy cộm trên vai, trên lưng người chiến sĩ. Kỷ luật hành quân lúc ấy được đặt ra hết sức nghiêm ngặt. Đơn vị nào cũng phải mang theo chiếu, ni lông, lá chuối để lót chân khi vượt qua những con đường lớn. Vào làng, bộ đội phải tháo dép đi chân đất. Qua chỗ lội, có du kích địa phương lót ván làm cầu. Tới vị trí tạm dừng, dù chỉ nửa ngày cũng phải có ngay phương án tác chiến tại chỗ. Theo phương án đã được thảo luận kỹ, trước khi chiến dịch Đông của quân khu bắt đầu, sư đoàn SaoVàng sẽ mở đợt hoạt động đánh phá giao thông của quân ngụy trên trục đường số 1, đoạn từ Bồng Sơn đi Phù Cát... Các đơn vị bộ đội tỉnh hoạt động từ nam Phù Cát trở vào, có nhiệm vụ kéo lực lượng của sư đoàn 22 ngụy ra ngoài khu vực trọng điểm. Bộ đội địa phương huyện, du kích xã hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh bao vây quận lỵ Bồng Sơn, chi khu Gò Bồi (Tuy Phước) và quận lỵ Phù Mỹ. Trong chiến dịch Đông. Sư đoàn sẽ chuyển ra nam Quảng Ngãi tiêu diệt địch ở Mộ Đức, Đức Phổ, cắt đứt đường số 1, diệt viện binh địch. Như vậy, đối tượng tác chiến chủ yếu của sư đoàn SaoVàng trong thời gian này là quân chủ lực ngụy chứ chưa phải quân Mỹ.

Địch đánh hơi được sự di chuyển lực lượng của ta. Trinh sát mặt đất của chúng báo cáo: "Có một lực lượng chưa từng thấy đang tràn ngập vùng giáp ranh trung phần tỉnh Bình Định". Máy bay trinh sát điện tử của Mỹ cũng xác nhận : Có nhiều dấu hiệu cho thấy lực lượng của đối phương đang di chuyển vào sát các con đường chiến lược và đang ẩn náu ở thung lũng Thuận Ninh, có thể làm phương hại tới sự chuyển quân của sư đoàn không vận số 1"

Nhận được tin, Ki-na, tư lệnh sư đoàn không vận số l tức tốc phái tên trung tá tình báo dùng máy bay đi kiểm tra ngay thung lũng Thuận Ninh. Vài tiếng đồng hồ sau khi nhận được báo cáo : "Ở Thuận Ninh chỉ có một lực lượng nhỏ, đủ cho năm trăm lính kỵ binh bay cất vó", Ki-na quyết định phải phá ngay từ trong trứng mọi cuộc tiến công của đối phượng. Nửa giờ sau, lữ đoàn 1 sư đoàn dù 101 được lệnh báo động1 (Chú thích 1. Để giải tỏa cho trại "lực lượng đặc biệt" của Mỹ ở Dục Cơ bị ta bao vây suốt từ tháng 6 đến tháng 8, Oét-mo-len phải đưa lữ 1 sư đoàn dù 101 và lữ 173 từ Biên Hòa và Vũng Tàu lên Gia Lai. Nhân dịp đó Ki-na yêu cầu Oét-mo-len dùng lữ dù 1 làm nhiệm vụ bảo vệ trục đường 19 Quy Nhơn - PlâỵCu cho sư đoàn không vận đổ xuống An Khê. Bởi vậy, trong thời gian nay, lữ dù 1 trực thuộc tư lệnh sư đoàn không vận)

Để bảo đảm ăn chắc, Ki-na quyết định tung 2000 lính dù (gấp hơn bốn lần số quân đối phương theo phán đoán của y) hành quân bằng đường không với 60 trực thăng. Chỉ huy hành quân là tên trung tá Xmít. Chúng dự định dùng trực thăng bất ngờ đổ quân Mỹ chụp xuống Thuận Ninh, sau đó cứ 15 phút lại đổ tiếp một đợt trên một khu vực dài 500 mét. Xmít quy định cho quân đổ bộ phải chiếm bằng được hai ngọn đồi và một gò đất ở phía bắc, một ngọn đồi ở phía nam Thuận Ninh. "Phải tạo được bất ngờ cao nhất, phải áp đảo dối phương về binh hỏa lực". Ki-na và Xmít khẳng định quân Mỹ phải thắng trong cuộc hành quân này để gây thanh thế cho sự có mặt của sư đoàn không vận tại An Khê.

Ngày 18 tháng 9 năm 1965, đúng bảy ngày sau khi sư đoàn không vận đặt chân lên đất nước ta và là ngày thứ 3 tiểu đoàn 2 trung đoàn 2 sư đoàn Sao Vàng tới Thuận Ninh, chuẩn bị bước vào chiến đấu. Dự kiến của sư đoàn Sao Vàng là sau khi quân ngụy bị đánh đau ở đường số 1 , quân Mỹ buộc phải nhảy vào cứu, lúc đó các trận đánh Mỹ mới có thể bắt đầu

Không ai ngờ cuộc chạm trán đầu tiên của sư đoàn với quân viễn chinh Mỹ lại xảy ra sớm hơn ở một địa bàn chật hẹp như thế.

*

* *

Thuận Ninh là một thôn nhỏ, nằm gọn trong một thung lũng dài và hẹp thuộc xã Bình Tân, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Buổi sáng hôm ấy, mới 5 giờ 30 phút, trời còn mù sương và lấm tấm mưa bụi, hai chiếc trinh sát L19 đã bay đến quần lượn trên đầu. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 Lương Văn Thư quay điện thoại báo cáo với trung đoàn trưởng Đỗ Phú Đáp xin hoãn buổi ôn tập chiến thuật và ra lệnh cho các đại đội vào vi trí chiến đấu theo phương án đánh địch đổ bộ đường không.

Trên đầu, hai chiếc L19 vẫn bay lượn. Chúng nghiêng cánh dòm ngó. Toàn bộ trận địa của tiểu đoàn 2 vãn yên ắng. Bỗng "bụp, bụp". Hai quả đạn khói từ chiếc L19 phóng xuống bìa làng, bốc lên hai cột khói cao ngoằn ngoèo. Liền sau đó, hàng chục chiếc máy bay phản lực từ phía biển bất thần ào tới, bám đuôi nhau trút bom xuống thung lũng. Trong chốc lát, thung lũng Thuận Ninh biến thành thung lũng khói và lửa. Nhân dân trong thôn được sự giúp đỡ của bộ đội đã rút hết xuống các hầm trú ẩn và các hào giao thông. Tiểu đoàn trưởng nhắc các đại đội bám chắc trận địa, chuẩn bị đánh phủ đầu quân địch.

Tiếng bom nổ chưa dứt, từng bầy trực thăng vũ trang đã thay nhau lao tới, xối xả bắn đạn rốc két và súng liên thanh xuống những lùm cây, mô đất còn sót lại trên những khu vực chuẩn bị đổ quân của chúng. Nửa giờ sau, 45 chiếc trực thăng chở đầy lính ào ào bay tới, đáp xuống các gò đồi và bãi bằng xung quanh thôn Thuận Ninh. Càng máy bay vừa chạm đất, bọn lính đã xô nhau nhảy ra, mắt hấp háy vì nắng sớm, hò hét; chỉ trỏ.

Trong công sự, các chiến sĩ tiểu đoàn 2 ngơ ngác hỏi nhau :

- Lính nào thế nhỉ Mỹ hay Đại Hàn các cậu,

- Mỹ đấy đúng thằng Mỹ rồi. Đại Hàn mũi đâu có lõ

"Bình tĩnh, để chúng nó vào thật gần mới được nổ súng". Tiếng tiểu đoàn trưởng nhắc qua máy điện thoại.

Nghe nói Mỹ, các chiến sĩ nhô đầu khỏi công sự nhìn với sự hồi hộp, tò mò. Trước mắt họ những tên lính to, cao mặc quân phục xanh, tay áo xắn quá khuỷu, ngực mở phanh để lộ đám da đỏ như ức gà chọi đầy lông lá. Chúng dàn đội hình theo hàng ngang, thận trọng tiến về phía bìa làng. Trước mũi súng của chúng, tất cả vẫn chìm trong yên lặng, tưởng chừng như không còn một sự sống nào nữa.

Bỗng ở trung đội Đỗ Xuân Thiệu, chiến sĩ mới Đỗ Thiềm quá hồi hộp, sơ suất để khẩu trung líên cướp cò lia một loạt dài. Ba tên Mỹ đi đầu ngã vật xuống. Tình huống trên buộc trung đội trưởng phải ra lệnh cho trung đội nổ súng. Bọn Mỹ chết hàng loạt. Những tên còn lại hấp tấp nằm rạp xuống bám chặt sau các bờ đất. Lúc ấy tiếng súng đánh dịch cũng nổ vang lên xung quanh thôn Thuận Ninh.

Được trinh sát báo cáo địch đang đổ thêm quân ở Vườn Xoài, bãi sông Quéo, đồi Đại Liên và đồi Thao Trường, tiểu đoàn trưởng Thư quyết định phải đánh chiếm các điểm cao khống chế thung lũng bằng được. Anh giao nhiệm vụ đánh đồi Thao Trường, mỏm đồi lớn nhất ở phía đông Thuận Ninh cho đại đội 1. Nhận lệnh. đại đội trưởng Thụ dẫn một cánh quân xuất kích ngay,

Lúc đó bọn Mỹ vừa đặt chân xuống đỉnh đồi đang dàn đội hình theo bài bản chiến thuật thì tiếng hô xung phong của chiến sĩ ta đã vang lên. Hàng chục tên Mỹ bị diệt ngay từ loạt đạn đầu. Cứ thế bất chấp lưới đạn dày đặc của địch. Thụ đến anh em xốc tới, đầy lùi bọn địch về một mé đồi. Xạ thủ trung liên Hà Viết Luận vừa chiếm được đỉnh đồi đã ôm súng quỳ một chân bắn trúng tên Mỹ lái chiếc trực thăng ngay trên đỉnh đầu. Bọn chỉ huy Mỹ đang hò hét thúc quân lính xông lên ở mé đồi bên kia bỗng kêu rú lên, chạy chúi vào các bờ bụi khi chiếc trực thăng cứ lao thẳng xuống phía chúng nổ bùng như một quả bom. Bọn sống sót chạy giạt xuống sườn đồi, gặp một mũi khác của đại đội tiến theo mương nước đánh xốc tới. Tên chỉ huy đại đội này bị bắn chết tại chỗ. Bộ đội ta tràn lên truy kích, dồn địch vào rừng gai quýt dày giặc để tiêu diệt.

Cũng thời gian trên, ở mỏm đồi Đại Liên, phó đại đội trưởng Quang đang chỉ huy một trung đội đánh một cánh quân đổ bộ khác. Khi chiếc trực thăng đầu tiên vừa hạ xuống, Quang ra lệnh bắn. Những tên Mỹ cao lớn vừa nhảy ra khỏi máy bay bị bắn chết tại chỗ. Tuy vậy, những chiếc trực thăng khác, không chờ đủ 15 phút như quy định vẫn tiếp tục đổ quân. Chúng đổ vội vàng rồi cất lên

Ở trận địa của trung đội Đỗ Xuân Thiệu, sau khi bị đánh phủ đầu, bọn giặc lùi ra, gọi máy bay tới ném bom. Tiếp đó hàng chục chiếc trực thăng vũ trang đến quần lộn bắn phá trên đầu. Trước tình thế ấy, chiến sĩ giữ trung liên Đỗ Thiềm có phần lúng túng. Thấy vậy, Thiệu quay sang bảo: "Nó làm dữ vậy chứ không nhìn thấy mình đâu, cứ bình tĩnh mà bắn. Thôi, cậu đưa súng đây cho tôi". Thiệu cầm khẩu trung liên của Thiềm, nhìn bầy trực thăng, lấy đường ngắm rất nhanh rồi liên tiếp nhả ba loạt đạn. Lập tức, một chiếc chùng lại, chùng chiềng rồi đâm đầu xuống đất thành một đám cháy lởn. Thiệu lau mồ hôi, trả lại cây súng cho Thiềm: "Đấy, cứ vậy mà đánh" Thiềm nhận súng và chỉ một lát sau đã bắn cháy một chiếc trực thăng khác rơi cách công sự của trung dội năm chục mét. Cả trận địa nghe thấy tiếng reo khích lệ của trung đội trưởng "Đồng chí Thiềm đã hạ được máy bay Mỹ. Hoan hô"

Một quả rốc két bất ngờ nổ trên bờ hào, khẩu trung liên của Thiềm bị gãy một chân, Thiềm bị thương. Nhưng người chiến sĩ trẻ vừa nhập ngũ ấy vẫn giữ chặt cây trung liên, cùng trung đội đánh lui mấy đợt tiến công của bọn bộ binh Mỹ mới chịu giao súng cho người khác.

*

* *

8 giờ 30 phút sáng hôm ấy, sở chỉ huy sư đoàn nhận được điện của trung đoàn 2 báo cáo: Tiểu đoàn 2 đang đánh Mỹ ở Thuận Ninh. Nhiều câu hỏi được đặt ra trong bộ tư lệnh sư đoàn.Vì sao bọn Mỹ lại tung quân sớm như vậy?. Lực lượng nào đang ở đó? Liệu có phải chúng đã bắt đầu chiến dịch phản công chăng? Sau khi trao đổi phân tích, bộ tư lệnh kết luận : Đây chỉ là một trận tập kích chớp nhoáng của sư đoàn không vận do một sơ hở nào đó của tiểu đoàn 2, nhằm bảo vệ sườn phải cho cuộc chuyển quân của chúng lên An Khê. Nhưng dù thế nào đi nữa, đây cũng là thời cơ đánh phủ đầu quân Mỹ tốt nhất đối với sư đoàn. Phải tập trung chỉ đạo đánh thắng. thắng thật giòn giã. Qua đó có thể rút được nhiều kinh nghiệm cho đợt hoạt động tới.

Tinh thần đó được truyền đạt ngay cho trung đoàn 2; đồng thời sư đoàn cho phép trung đoàn 2 sử dùng thêm một đến hai tiểu đoàn nếu thấy cần thiết.

Lúc đó, cuộc chiến đấu ở Thuận Ninh ngày càng diễn ra ác liệt. Bọn địch bị đánh bật khỏi các ngọn đồi. Chúng điên cuồng gọi máy bay phản lực đến trút bom xuống những vị trí các chiến sĩ vừa chiếm được. Ở đồi Đại Liên, địch, ta chỉ cách nhau năm chục mét. Thấy địch ném một loạt hỏa mù tím và đỏ, có chiến sĩ vội vã hét to "Hóa học, Đạn hóa học" Phó đại đội trưởng Quang nhảy bật khỏi công sự quan sát và ra lệnh: "Chúng nó phân tuyến cho máy bay đến ném bom đấy. Tiếp cận nhanh lên"

Đã từng "bám thắt lưng" ngụy mà đánh ở Đèo Nhông đường 7 để tránh bom nên vừa nghe lệnh Quang, các chiến sĩ di chuyển ngay về phía địch. Mới tiến lên được ba chục mét, một loạt bom bi đã nổ rền sau lưng. Lính Mỹ thấy bom nổ gần quá vội lủi qua chỗ khác. "Bám sát nữa". Quang nhắc. Anh nhằm vào gáy một tên Mỹ đeo khẩu Côn trễ bên hông, bóp cò. Bỗng anh thấy cánh tay trái lạnh toát. Biết mình đã bị thương, Quang bình tĩnh tự băng bó rồi dùng cánh tay còn lại hạ tiếp hai tên Mỹ nữa.

Ở khu vực đồi Thao Trường, đại đội 1 tạm rút xuống mương nước để tránh bom. Sau loạt bom bi, bọn giặc đổ thêm một tiểu đoàn ở đồi tranh phía sau, chia làm hai cánh tràn lên đánh chiếm lại. Giữa lúc chúng đang lộn xộn thì từ mương nước, chính tri viên Nguyễn Bốn dẫn đại đội đánh thốc tới. Với khẩu CKC, chiến sĩ Vũ Văn Đề bắn bảy phát diệt bảy tên Mỹ. Tiểu đội trưởng Bông dùng trung liên quét ngã 10 tên. Chiến sĩ Phạm Hiền diệt 15 tên. Hai xạ thủ trung liên Tam và Bình bắn hai loạt đạn, hạ ba trực thăng Mỹ. Xác giặc ngổn ngang trên mặt đồi. Một trung đội địch hoảng sợ dồn vào chiếc hầm giữa đỉnh đồi cố thủ. Tiểu dội trưởng Nguyễn Ba dẫn một mũi đánh vào sườn căn hầm. Địch ném lựu đạn ra tới tấp, các chiến sĩ nhặt lựu đạn ném trả. Cả trung đội Mỹ chết chồng lên nhau trong hầm.

Trước tình trạng dẫm chân tại chỗ của lính dù, Ki-na vội ra lệnh cho 50 trực thăng chở bọn lính không vận tới cứu viện. Bọn này đổ xuống Thuận Phong, cách Thuận Ninh ba ki-lô-mét định kéo lực lượng ta giãn về phía đông bắc, giải vây cho Thuận Ninh nhưng không được. Điều này làm cho bọn chỉ huy sư đoàn không vận rất lúng túng. Thấy tình hình phát triển thuận lợi, tiểu đoàn trưởng Thư ra lệnh cho các đơn vi tổ chức xuất kích nhỏ. Từ đó cho đến chiều, thung lũng Thuận Ninh không lúc nào ngớt tiếng súng. Đường dây điện thoại xuống các đại đội bị đứt, chiến sĩ Lê Thưa trên đường đi truyền đạt mệnh lệnh cũng bắn rơi được máy bay Mỹ. Nắng chiều tím dần trên thung lũng bề bộn xác Mỹ và ầm ĩ tiếng trực thăng, tiếng máy bay phản lực.

Bị thiệt hại nặng và biết không thể làm gì được đối phương, tên trung tá Xmít, chỉ huy cuộc hành quân đành báo cáo với Ki-na là đã "hoàn tất việc tảo thanh thung lũng Thuận Ninh' và xin lệnh rút. Tối hôm ấy, địch phải dùng máy bay C130 thả đèn dù và bắn trọng liên yểm trợ cho trực thăng tiếp tục vớt lính, vớt xác. Một giờ sau khi địch rút, ánh trăng đầu tháng rải đều trên thung lũng. Các chiến sĩ tiểu đoàn 2 thu dọn chiến trường và chuẩn bị hành quân bước vào đợt hoạt động theo kế hoạch.

Ở đầu thôn, có tiếng hỏi của tham mưu trưởng trung đoàn: "Thế nào, bọn Mỹ xài có gay lắm không, các cậu", "Cũng không khó mà cũng không dễ. Nhưng đánh được thủ trưởng ạ" - Tiếng một chiến sĩ đáp. Chưa kịp tìm hiểu về đối tượng tác chiến mới, các chiến sĩ Sao Vàng đã đánh thắng chúng trong một cuộc chạm trán bất ngờ ở thung lũng Thuận Ninh.

Hơn 200 tên Mỹ bị tiêu diệt, 11 máy bay bị bắn rơi, 40 chiếc khác bị trúng đạn. Tên trung tá trưởng phòng tình báo bị cách chức. Còn tên trung tá Xmít thì bị gọi về Sài Gòn khiển trách. Hắn thanh minh: "Vì tình báo không phát hiện được nơi đổ quân là khu vực đóng quân của Việt cộng". "Lính dù đã rơi vào một tổ ong vò vẽ của Việt cộng". Hắn thú nhận: "Quân giải phóng và du kích đánh rất giỏi, được tổ chức tốt, rất có kỷ luật" và ngày hôm đó đã "qua đi như một cơn ác mộng" trong đời hắn1 (Chú thích 1. Những tư liệu về địch trong mục này chúng tôi tham khảo báo Quân giải phóng Khu 5 số ra ngày 30-10- 1965. 15-11-1965 ;báo Quân đội nhân dân ngày 10, 17, 19 tháng 10 năm 1965.)

Đối với sư đoàn Sao Vàng, trận Thuận Ninh còn những nhược điểm về tổ chức, chỉ huy, về đánh tiêu diệt và bảo đảm thông tin. Nhưng ở Thuận Ninh, cán bộ. chiến sĩ tiểu đoàn 2 đã thể hiện một tinh thần chiến đấu rất cao. Mặc dù chỉ tạm trú quân ở một thôn nhỏ trên đường hành quân và quân Mỹ đã xuất hiện hoàn toàn bất ngờ cả về thời gian, quy mô lực lượng, số lượng máy bay và bom đạn. Cũng chưa trận nào, các chiến sĩ tiểu đoàn 2 cùng một lúc phải đánh trả với nhiều máy bay, nhiều bộ binh địch đến thế. Nhưng do được rèn luyện, lăn lộn trong nhiều tình huống phức tạp ở chiến trường, họ đã khắc phục nhanh chóng hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Từ trạng thái bị động, họ đã chuyển sang vận động tiến công tiêu diệt địch. Từ phương án đánh quân ngụy, họ không do dự, lúng túng trước sự xuất hiện của quân Mỹ, một đối tượng tác chiến cho đến lúc đó, đối với tiểu đoàn vẫn còn là một dấu hỏi lớn, nhất là chiến thuật "trực thăng vận" và các thủ đoạn tập kích đường không của chúng.

Chiến thắng Thuận Ninh chứng tỏ quân chiến đấu Mỹ không phải ghê gớm như bộ máy tuyên truyền và bọn tướng tá cửa chúng tâng bốc. Nó không những là đòn giáng vào đầu bọn lính dù Mỹ mà còn là đòn cảnh cáo nghiêm khắc đối với sư đoàn không vận số 1 Mỹ vừa đặt chân lên mảnh đất Khu 5. Tuy vậy, qua trận Thuận Ninh, các chiến sĩ Sao Vàng đã nhận thấy khả năng chiến đấu của quân Mỹ so với quân ngụy. Chúng có khả năng cơ động rất nhanh, tạo bất ngờ lớn do được chuẩn bị hành quân từ xa, có khả năng nhanh chóng cân bằng hoặc tạo ưu thế về binh hỏa lực khi trận đánh kéo dài. Nhưng các chiến sĩ cũng nhận ra những hạn chế và nhược điểm của quân Mỹ. Chúng có khả năng cơ động nhanh, nhưng một khi đã trút quân xuống, lập tức bị cô lập hoàn toàn với phía sau. Chúng dễ tổ chức những mũi vu hồi, nhưng do không thông thạo địa hình nên dễ bị các lực lượng ta đánh chặn, chia cắt và tiêu diệt. Chúng đến nhanh chóng nhưng rút khó nếu bị hỏa lực ta khống chế đường không chặt chẽ...

Sau trận Thuận Ninh, các chiến sĩ tiểu đoàn 2 bảo nhau : Cứ tích cực hạ trực thăng và xáp thật gần quân Mỹ mà đánh là có thể tiêu diệt gọn từng trung đội, đại đội. Đối với cán bộ, vấn đề được đặt ra lớn hơn, thận trọng hơn. Đó là việc phải đặc biệt chú ý tới tính cơ động, phản ứng nhanh và hỏa lực của quân Mỹ. Từ đó dẫn tới việc chuẩn bị chiến trường, dự kiến các vi trí địch đổ quân để bố trí vật cản hoặc nghi binh. Mặt khác, phải tập trung huấn luyện bắn máy bay và trong tác chiến phải "nắm thắt lưng Mỹ mà đánh"

Điều quan trọng là sau trận đánh đầu tiên đó, những băn khoăn về quân Mỹ đã được giải đáp. Và câu giải đáp là: "Cứ đánh, dám đánh, ắt sẽ tìm ra cách đánh".

Đối với chiến trường Quân khu 5, sau chiến thắng Núi Thành, Vạn Tường, Thuận Ninh được ghi nhận là một chiến công xuất sắc. Nếu như Vạn Tưởng là "ấp Bắc" của Quân khu 5 thì Thuận Ninh là trận mở đầu cho khả nặng đánh bại sư đoàn kỵ binh bay Mỹ - niềm hy vọng của Nhà trắng và Lầu năm góc trên chiến trường Việt Nam. Nó còn là tiếng súng mở màn giòn giã cho phong trào thi đua lập công "Quyết chiến,- quyết thắng giặc Mỹ xâm lược" đang dấy lên trên chiến trường Quảng Ngãi -Bình Định.

4. TỪ PHỦ CŨ ĐẾN MINH LONG

Mặc dù xảy ra cuộc chạm trán bất ngờ với quân viễn chinh Mỹ ở thung lũng Thuận Ninh, phương án tác chiến cơ bản của sư đoàn vẫn không hề thay đổi. Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 9, cùng một lúc, sư đoàn tiến công vào hai đồn bảo an chốt giữ ở đèo Phủ Cũ và cầu Phù Ly trên trục đường số 1

Sau bốn giờ chiến đấu giành giật quyết liệt, tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 3 đã hoàn toàn làm chủ mục tiêu. Tin chiến thắng của hai trận đánh trên bay nhanh vào các thị trấn, thôn ấp nằm dọc hai bên đường số 1. Ở đâu cũng nghe nhân dân bàn tán: "Chui cha, cách mạng lớn mạnh hung rồi. Súng to, súng nhỏ chi chi cũng có hết. Bây giờ nẫu (Chú thích 1 Tiếng địa phương, đại từ chỉ ngôi thứ ba, số nhiều, giống từ 'họ" ở miền Bắc ) đánh đâu được đó, lấy đồn mà cứ y như trở bàn tay vậy".

Đang giữa chiến dịch nối giao thông , lại bị cắt giao thông, bọn chỉ huy quân khu 2 ngụy lồng lên. Mất đèo Phủ Cũ, hai huyện Hoài Nhơn, Hoài ân bi cô lập. Mất cầu Phù Ly, huyện Phù Mỹ bi chia cắt. Nửa tỉnh phía bắc Bình Định đông dân, nhiều của có nguy cơ mất trắng. Không còn cách nào khác, chúng phải tung quân viện từ hai đầu, bằng mọi giá chiếm lại những vị trí đã mất. Ngày 23 tháng 9, hai tiểu đoàn lính cộng hòa, một chi đoàn xe bọc thép được tung vào cuộc hành quân giải tỏa. Nhưng cả hai cánh quân từ Bồng Sơn vào, từ Phù Cát ra đều bị chặn đánh tan tác. Hàng trăm tên bị diệt, bảy xe M113 chở đầy lính bị bắn cháy, buộc chúng phải co về vị trí xuất phát

Phối hợp với tiến công quân sự, lực lượng đấu tranh chính trị của quần chúng từ các xã kéo vào thi trấn Phù Mỹ, Bồng Sơn vây chặt các đồn bảo an. dân vệ, kêu gọi binh lính địch bỏ ngũ, trở về với gia đình, vợ con. Bọn chỉ huy ngụy quân ra lệnh cho bọn lính ngồi lì trong đồn, không tiếp xúc với dân, mặt khác, chúng xin máy bay ném bom dữ dội vào các vị trí đã mất. Chúng hiểu rằng, chỉ có đẩy lùi được các mũi tiến công quân sự mới có thể dập tắt được các mũi đấu tranh chính trị.

Những ngày sau đó, từ sáng đến tối. máy bay các loại lồng lộn theo trục đường số 1 trinh sát, bắn phá. Từ Phủ Cũ Đèo Nhông. đến Phù Ly, Chợ Gồm, bom nổ không lúc nào dứt, rồi chất độc hóa học rãi bừa bãi dọc theo các vùng giáp ranh. Pháo biển được huy động bắn vào các làng ven biển từ Tam Quan, Phú Thứ đến Tân Phụng, Đề Di... Lính giải tỏa tăng từ năm lên 12 tiểu đoàn. Lính thủy đánh bộ, biệt động, cộng hòa, bảo an nhốn nháo chật ních trong các điểm xuất phát hành quân. Tên tư lệnh vùng 2 chiến thuật ra lệnh cho sư đoàn 22 ngụy phải "tái chiếm bằng được Phủ Cũ để giải tỏa đường số 1".

Phán đoán âm mưu của địch. bộ tư lệnh sư đoàn một mặt chỉ thị cho các đơn vị tranh thử rút kinh nghiệm, chuẩn bị đánh lớn hơn, mặt khác tổ chức một số bộ phận kết hợp với lực lượng địa phương phá banh một số "ấp chiến lược" nằm sát quận lỵ Bồng Sơn, tiếp tục tạo thế cho quân chúng đấu tranh chính trị.

Sau năm ngày dùng phi pháo đánh phá, thăm dò, tiểu đoàn biệt động số 22 biệt danh "Cọp đen" mới điều từ Phú Phong về được ném vào cuộc hành quân. Tiêu đoàn này có bốn đại dội bộ binh, là một tiểu đoàn tác chiến độc lập trong lực lượng dự bị của quân khu 2 ngụy. Bọn tưóng tá quân khu 2 rất cưng lính "Cọp đen" bởi sự hung hãn và khả năng luồn rừng như hổ đói của chúng. Tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng thường huênh hoang rằng lính "Cọp đen" chưa hề biết run sợ trước bất cứ đối thủ nào, rằng không có sắc lính nào kỷ luật nghiêm như tiểu đoàn lính Cọp của hắn.

Sáng ngày 28 tháng 9, tiểu đoàn "Cọp đen" bắt đầu xuất quân. Chúng chọn đường sắt làm hướng tiến quân chủ yếu. Mục tiêu trước mắt của chúng là phải đánh chiếm bằng được ấp Diễn Khánh, lấy ấp Diễn Khánh làm bàn đạp để giải tỏa toàn bộ khu vực đèo Phủ Cũ.

8 giờ sáng, tiểu đoàn 6 trung đoàn 12 được lệnh để ngỏ cửa cho dịch vào ấp Diễn Khánh. 8 giờ 10 phút, từ ven dồi, toàn tiểu đoàn bất ngờ đổ ra. Những vành lá ngụy trang rùng rùng như một rừng cây đang chuyển động. Hai chiếc L19, từ nãy vẫn như hai chiếc lá thả trôi giữa trời, bỗng hốt hoảng vọt lên rồi nhào xuống ném hỏa mù nhưng không kịp nữa. Bộ đội đ ang phân thành nhiều mũi chia cắt địch ra mà đánh, 15 phút sau, đại đội 1 báo cáo đã chiếm được Vườn Xoài, chặn đường rút về phía Phủ Cũ, đại đội 2 đánh chiếm làng Văn Công khóa chặt đường chạy về Bồng Sơn, đại đội 3 đánh thẳng vào ấp Diễn Khánh.

Địch ỷ quân đông, chống trả quyết liệt. Các chiến sĩ đại đội 3 đang đà truy kích cứ tràn tới. Nhiều chỗ, các chiến sĩ nhảy xuống hào là cưỡi luôn lên đầu giặc. 10 giờ, địch bị dồn vào giữa ấp cố thủ. Lập tức đội dự bị được điều lên cùng với đại đội 3 tiếp tục tiến công, không để cho địch hồi sức.

Trận đánh đang tiếp tục thì chính trị viên đại đội Trần Tửu bị thương nặng, cánh tay trái của anh rời ra lủng lẳng. Giữa lúc đó, xạ thủ trung liên hy sinh. Bộ đội đang bị ghìm lại trên một khoảng vườn trống. Không do dự. Trần Tửu tới bên người xạ thủ dùng cánh tay còn lại áp báng súng vào vai nghiến răng bóp cò. Có hỏa lực chi viện, bộ dội lại tràn tới đánh giáp lá cà với giặc. 12 giờ, địch bật khỏi ấp, chiếm khu Mả Vôi và đường số 1 chống trả.

Trong đợt tiến công cuối cùng của đại đội 3 kết thúc số phận của tiểu đoàn "Cọp đen", chính trị viên Trần Tửu trúng đạn hy sinh. Nhưng các chiến sĩ trong đại đội của anh và các đại đội bạn đã tràn lên khu Mả Vôi. Đến 14 giờ, toàn bộ bọn chỉ huy tiểu đoàn địch bị tiêu diệt. Tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng bị bắn chết tại chỗ. Số tàn binh sống sót chạy thục mạng về phía Bồng Sơn cũng bị bộ phận khóa đuôi của tiểu đoàn 6 bắt sống và tiêu diệt.

Ở bộ phận chặn đầu, đại đội 1 tiêu diệt gọn một đại đội Cộng hòa tại khu vực Cầu Chui - Vườn Xoài. Chiến sĩ Tạ Đình Viết, mặc dù bị thương nặng vẫn đứng thẳng người dùng đôi vai lực lưỡng của mình làm giá súng cho đồng đội bắn rơi một máy bay phản lực Mỹ. Trận tiêu diệt gọn một tiểu đoàn biệt động khét tiếng gian ác và một đại đội Cộng hòa trong ngày 28 tháng 9 của tiểu đoàn 6 1à một chiến công xuất sắc. Để tiêu diệt gọn tiểu đoàn này, chiến sĩ ta đã áp dụng chiến thuật phục kích vận động, bao vây, chia cắt, tiêu diệt từng bộ phận quân địch rất có hiệu quả. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 6, từ chính trị viên Trần Tửu đến các trung đội trưởng Hoạt, Cương, các chiến sĩ Phạm Lới, Nguyễn Như Kính. . . đã chiến dấu với một tinh thần dũng cảm tuyệt vời. Họ đánh áp đảo quân địch, không cho chúng kịp trở tay. Sau này, tiểu đoàn 6 trung đoàn 12 còn lập được nhiều chiến công vang dội hơn, nhưng chiến công tiêu diệt tiểu đoàn "Cọp đen" ở Diễn Khánh - Văn Công là chiến công lớn đầu tiên, từ khi tiểu đoàn đặt chân vào chiến trường

Đối với địch, việc mất gọn một tiểu đoàn quân tinh nhuệ ngay sát quận ly Bồng Sơn đã gây ra sự tranh cãi gay gắt tròng nội bộ bọn chỉ huy tỉnh Bình Định và vùng 2 chiến thuật ngụy. Chúng muốn gia tăng lực lượng nhưng không còn lực lượng để gia tăng. Rốt cuộc, thủ đoạn chiến thuật hành quân "sâu đo" lại được chúng áp dụng. Thăm dò, đóng chốt, hành quân Lại thăm dò, đóng chốt, dồn quân từ một đến ba ki-lô-mêt. Ban đêm chúng cụm lại từng tiểu đoàn, dùng hỏa lực pháo binh làm hàng rào bảo vệ xung quanh vị trí đóng quân.

Trước thủ đoạn đó của địch, trung đoàn 2 từ phương án phục kích nhanh chóng chuyển sang tập kích liên tiếp vào bọn địch vừa ra líp cầu Phù Ly, diệt gọn ba đại đội bắt sống 28 tên. Lực lượng pháo binh sư đoàn tổ chức những trận bắn phá dữ dội vào sân bay Thiết Đính, khu vực quận lỵ Hoài Nhơn, hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh kìm chế các trận địa pháo của địch ở Bồng Sơn hỗ trợ cho trung đoàn 2 chiến đấu.

Ngày 1 tháng 10, địch buộc phải rút chạy khỏi hàng loạt vi trí dọc đường số 1 Đệ Đức, Thánh Giá, Tân ốc. Bình Dương, Chóp Vung, Núi Núng. Chợ Gồm... Quận ly Hoài Nhơn và Phù Mỹ hoàn toàn bị cô lập như hai hòn đảo chơ vơ giữa vùng giải phóng.

Tình hình trên buộc quân Mỹ không thể đứng ở vòng ngoài được nữa. Chúng tìm mọi cách đối phó với nguy cơ bị cắt làm đôi ở Bình Định. Chúng thỏa thuận mở cuộc hành quân hỗn hợp Mỹ-ngụy mang tên "Lưỡi lê sáng ngời" đánh vào thung lũng Hội Sơn, một thung lũng hẹp nằm ở phía tây-bắc huyện Phù Cát, nơi bọn chúng nghi phần lớn lực lượng của sư đoàn Sao Vảng đang dừng chân tại đó.

Trong cuộc hành quân này, Ki-na quyết định tung 6.000 quân của hai lữ đoàn thuộc sư đoàn không vận số 1 có 170 máy bay lên thẳng chở quân. Bọn ngụy cũng ồ ạt dồn sáu tiểu đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược từ Sài Gòn ra. Chúng định áp đảo đối phương, tạo nắm đấm lớn giáng vào "cái sư đoàn mang tên Sao vàng" và du kích Việt cộng đang ẩn náu ở một thung lũng không đầy bảy ki-lô-mét vuông, hy vọng có thể mở rộng được một hành lang an toàn ở phía bắc đường số 19.

Hơn một tuần lễ trinh sát, ném đủ các loại bom (riêng B.52, trung bình ba lần trong một ngày). bắn đủ các loại đạn vào Hội Sơn, sáng ngày 10 tháng 10, bọn địch bắt đầu tiến quân. Hàng trăm chiếc trực thăng chở quân Mỹ từ trên trời chụp xuống. Gần 10 tiểu đoàn ngụy "bủa lưới" từ dưới đất lên, tưởng giang tay ra là có thể vây kín được từng hốc cây, từng khe suối. nhưng trớ trêu thay, ở cái thung lũng hẹp đó, chúng đã không gặp sư đoàn Sao Vàng mà lại vấp phải một đối thủ lúc ẩn, lúc hiện và những trận đánh nhỏ, lẻ, đánh nhanh, rút nhanh của bộ đội huyện, du kích xã và một tiểu đoàn của sư đoàn Sao vàng. Ngày thứ nhất, 33 tên Mỹ bị chết, vì mìn, súng cối và đạn bắn tỉa. bốn trực thăng và một L.19 bị bắn rơi tại chỗ. Ngày thứ hai, hai máy bay lên thẳng bị bắn rơi. Bọn Mỹ hấp tấp gọi pháo. Pháo bắn quá gần làm tan xác thêm hai chiếc trực thăng khác.

Đêm ngày 12 tháng 10 , tiểu đoàn 1 trung đoàn 2 tổ chức một trận tập kích vào vị trí đóng quân của quân Mỹ ở suối Ngang, tiêu diệt một đại đội. Những ngày tiếp theo, bộ đội huyện Phù Cát, du kích Hội Sơn, Long Định tiếp tục luồn lách từ trong đánh ra, tiểu đoàn 1 trung đoàn 2 từ ngoài đánh vào, đánh khắp nơi, đánh cả ngày lẫn đêm làm cho quân Mỹ buộc phải bốc đổ lung tung. Cho đến ngày 15 tháng l0; ngày thứ năm của cuộc càn, chúng vẫn chưa đánh được một trận nào ra trò

Biết đã bị hẫng, nếu tiếp tục kéo dài cuộc hành quân chỉ thêm tốn kém và thiệt hại, Ki-na đành ra lệnh lui quân. Khi đó, tổn thất của sư đoàn không vận đã lên tới con số 433 lính chết, 17 máy bay lên thẳng bị bắn rơi, 23 chiếc khác bị trúng đạn. Phóng viên AFP đi theo trận này đã phải chua chát thừa nhận: "Cuộc hành quân ở suối La Tinh (Hội Sơn) chứng tỏ du kích Việt cộng cơ động hơn nhiều so với lính Mỹ thuộc sư đoàn kỵ binh bay do ông bộ trưởng quốc phòng Mắc Na-ma-ra lập ra". Như vậy là nửa tháng, hai lần xuất quân, Ki-nạ tư lệnh sư đoàn không vận chưa làm nên trò trống gì đáng kể. Quân ngụy bị tiêu diệt, những con đường chiến lược số 19, số 1 liên tiếp bị cắt đứt. Thực chất về sức mạnh của quân viễn chinh Mỹ đã lộ rõ. Từ Thuận Ninh đến Hội Sơn tuy mới là bước đầu nhưng cán bộ, chiến sĩ Sao Vàng và quân dân địa phương có thể nói : Quân Mỹ không có gì đáng sợ.

Mùa mưa ở miền Trung thường. kéo dài liên tiếp hết tháng này sang tháng khác. Những trận mưa lớn làm những vách núi sụt lở, nước sông suối dâng lên cuồn cuộn. Bấy giờ đang là tháng 10, tháng cao điểm nhất của mùa mưa năm ấy. Đội hình sư đoàn Sao Vàng hành quân trong mưa gió dữ dội. Chiến sĩ đi kiên nhẫn, lầm lũi mũ tai bèo lót đòn khênh pháo, dép cao su dắt thắt lưng. Mồ hôi trộn lẫn nước mưa mặn chát. Sau ba ngày đêm lặn lội. vùng đồng bằng Mộ Đức, Đức Phổ (nam Quảng Ngãi) đã trải rộng trước mặt, trắng xóa trong màn mưa mù mịt. Cũng như Bình Định, Quảng Ngãi là một trong những tỉnh đông dân trù phú của miền Trung. Nói đến Quảng Ngãi, người ta nghĩ ngay đến đường phổi, đường phên, quế Trà Bồng, những đặc sản quý hiếm của miền quê giàu có. Người dân Quàng Ngãi có truyền thống cách mạng bất khuất. Nhiều cuộc khởi nghĩa lớn, nổi tiếng của miền Nam nói chung, của Khu 5 nói riêng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như khởi nghĩa Ba Tơ (3- 1945), khởi nghĩa Trà Bồng (8- 1959) đều nổ ra ở miền tây Quảng Ngãi. Cùng với Bình Định. Quảng Ngãi là địa bàn hoạt động quen thuộc của sư đoàn Sao Vàng.

Bước vào chiến dịch Đông 1965, Bộ tư Lệnh quân khu giao cho sư đoàn Sao Vàng cùng với các lực lượng vũ trang Quảng Ngãi đảm nhiệm một trong năm hướng tiến công của quân khu. suốt hai tuần qua, các đơn vi bạn trong quân khu đã dồn dập nổ súng. Sư đoàn 1 ở Gia Lai, sư đoàn 5 ở Phú Yên, sư đoàn 2 ở Quảng Nam... .Đồng bào ở khắp nơi đã nổi dậy đồng loạt, bao vây các đồn bốt, kéo vào các thành phố, thị trấn, tố cáo tội ác của quân ngụy, đòi quân Mỹ rút về nước...

Trong khí thế chung đó, mặc dù vừa trải qua một cuộc hành quân gian khổ trong mưa lũ, bộ tư lệnh sư đoàn Sao Vàng vẫn hạ quyết tâm tiến công các mục tiêu đúng thời hạn quy định, hỗ trợ cho lực lượng nổi dậy của quần chúng Quảng Ngãi, phối hợp với chiến trường quân khu.

Mở đầu đợt hoạt động là những trận đánh vào ấp Mỹ Trang, căn cứ Núi Thụ và đồn cây số 7. Nhưng ở cả ba trận đánh. do trời mưa tầm tã, nước tràn ngập các vị trí chiếm lĩnh nên không dứt điểm. Trong khi đó, trên chiến trường toàn quân khu chiến dịch Đông đang thu được những thắng lợi giòn giã ở Plâyme, ở thung lũng Ia-drăng nam Tây Nguyên.

Một câu hỏi lớn đặt ra cấp bách đối với bộ tư lệnh sư đoàn: Nên tiếp tục tiến công dứt điểm các vì trí hay chuyển hướng mục tiêu, tiến công các vị trí khác? Sau khi phân tích tình hình địch, ta và địa hình, thời tiết, bộ tư lệnh sư đoàn nhận thấy nếu tiếp tục tiến công ấp Mỹ Trang, căn cứ núi Thụ vẫn có khả năng dứt điểm nhưng bộ đội sẽ tổn thất nhiều vì bọn lính thủy đánh bộ Mỹ từ Chủ Lai đã nhảy vào và quân Cộng hòa cũng đã kịp thời tăng cường cho khu vực. Căn cứ vào mục tiêu chủ yếu của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai kết hợp với xây dựng đơn vị, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định chuyển hướng tiến công lên miền tây Quảng Ngãi. Mục tiêu được chọn là quận ly Minh Long một căn cứ kiên cố, lớn hơn nhiều so với Núi Thụ, nhưng hoàn toàn bị cô lập bởi nằm sâu trong vùng giải phóng. Đối với bọn lính đi viện, sư đoàn có thể tập trung lực lượng tiêu diệt chúng ở một khu vực nằm rất xa căn cứ xuất phát của chúng.

Đây là một quyết định chính xác, làm chuyển biến hẳn tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ. Mấy ngày sau. được sự đồng ý của Bộ tư lệnh Quân khu, toàn bộ đội hình sư đoàn lặng lẽ hành quân về phía tây để lại nỗi day dứt không nguôi đối với vùng đồng bằng Mộ Đức, Đức Phổ.

Không giống những chi khu quận lỵ dưới đồng bằng, quận lỵ Minh Long có thành cao, sông sâu bạo bọc, có hệ thống "ấp chiến lược" và các cứ điểm bảo vệ dày đặc. Gọi là quận lỵ nhưng từ lâu nó đã biến thành một cụm cứ điểm bố trí theo kiểu một "mẹ", hai, ba "con" (mẹ cỡ từ một đại đội, con từ một đến hai trung đội). Nằm lọt giữa lòng chảo một thung lũng rộng khoảng 24 ki-lô-mét vuông, quận có đồn Gò Quang cao 175 mét và Gò Găng 26 mét, án ngữ ở đông-bắc và tây-nam như hai vọng gác rất lợi hại. Bọn bảo an đóng giữ ở đây là lính người Nùng, người Hoa bị nhồi sọ trở nên hung ác, man rợ. Chúng bắn giết khủng bố nhân dân bất kể Kinh, Thượng. Chỉ cần một cớ rất nhỏ cũng có thể bị mổ bụng, moi gan uống rượu. "Các người nên nhớ rằng ít năm nay vùng đất này là của chúng tao, cái sông, cái suối cũng của chúng tao...". Mỗi lần sục càn vào dân. bọn lính đứa nào cũng nhai đi nhai lại câu nói của tên thiếu tá quận trưởng Vi Phương - một tên phản động khét tiếng hung bạo. Cơ sở ta bị chà đi, xát lại tổn thất bao lần. nên mặc đầu đã tăng cường cán bộ từ Sơn Hà, Ba Tơ, Nghĩa Hành tới mặc dù vùng giải phóng bao bọc bốn phía, phong trào ở Minh Long vẫn không nhích lên được. Địch vẫn duy trì quận lỵ như một bán đảo làm điểm xuất phát hành quân, càn quét đánh phá vùng giải phóng của ta.

Sau một tuần lễ đi nghiên cứu thực địa, sư đoàn trưởng Giáp Văn Cương quyết định chọn quận lỵ làm mục tiêu chính trong trận đánh sắp tới. Phương án cơ bản dứt điểm quận lỵ ngay từ trận đầu. Đánh đêm không xong, đánh tiếp ban ngày. Các mục tiêu khác sẽ bao vây. diệt gọn từng điểm và sẵn sàng diệt quân viện nếu có. Trung đoàn 22 và trung đoàn 12 đảm nhiệm mục tiêu quận ly.Trung đoàn 2 làm lực lượng đánh viện.

0 giờ 45 phút ngày 29 tháng 12 năm 1965 thung lũng Minh Long đang chìm sâu trong giấc ngủ, chợt vang lên một loạt đạn ga-răng ở phía nam quận ly. Mấy chiếc pháo sáng từ các ấp xung quanh bắn vọt lên đung đưa trong sương đặc. Cạnh sân bay dã chiến, một quả mìn sáng nổ. Những tia lửa xanh lóa lên như lửa hàn. Một phút sau tất cả lại chìm trong im lặng. Lúc đó ở sở chỉ huy, trưởng ban tác chiến báo cáo với sư đoàn trưởng là bộ phận hỏa lực cửa tiểu đoàn 7 vào chiếm lĩnh vướng mìn. Một khẩu đội cối bị thương gần hết. Trung đoàn 22 có thể chiếm lĩnh chậm.

Nghe báo cáo, sư đoàn trưởng bình tĩnh nói "Nhắc trịnh sát theo dõi địch thật chặt. Chưa lộ đâu". Nhìn các mũi tên đỏ, biểu thị hướng đánh của từng trung đoàn trên bản đồ, sư đoàn trưởng thấy trung đoàn 22 phải vượt qua nhiều quãng đồng trống và luồn lách giữa hệ thống "ấp chiến lược" dày đặc. Đó là hướng sơ hở nhất của địch và là hướng có thể thọc vào quận lỵ gần nhất nhưng cũng khó khăn nhất. Vì thế trong phương án, sư đoàn ưu tiên trung đoàn 22 nổ súng trước. Nếu hướng của trung đoàn 22 bị lộ, trung đoàn 12 phải kịp thời nổ súng kéo địch về phía bắc và phía tây, tạo điều kiện cho trung đoàn 22 đột phá dưới sự chi viện của hỏa lực sư đoàn.

1 giờ 18 phút, trưởng ban tác chiến lại báo cáo, tiểu đoàn 4 vấp quả mìn sáng thứ hai. "Lộ rồi" - Sư đoàn trưởng nói. Lập tức anh ra lệnh cho trung đoàn 12 nổ súng mặc dù lúc đó trung đoàn 22 còn cách hàng rào thứ nhất 300 mét. Trận đánh diễn ra ác liệt ngay từ đầu. Tranh thủ kết quả của hỏa lực, mũi chủ yếu của tiểu đoàn 4 trung đoàn 12 phá tiếp được hai lớp rào nữa, nhưng đến lớp rào cuối cùng, tiểu đội bộc phá gặp lưới lửa dày đặc phải ùn lại. Đội hình đại đội 1 bị ghìm trước cửa mở. Đại đội trưởng Kiên đưa ĐKZ, B.40 lên tiêu diệt các hỏa điểm địch. Một lát sau, trong tiếng nổ dữ dội của đạn ĐKZ và B.40, các chiến sĩ lao lên phá nốt hàng rào cuối cùng. Địch tập trung hỏa lực bắn rát. Toàn bộ tổ bộc phá hy sinh. Đội hình đại đội 1 vẫn bị ghìm lại trước cửa Mở, chưa phát triển được. Ở mũi thứ hai của tiểu đoàn 4, tình hình còn khó khăn hơn. Bộ đội phải đánh từ hàng rào thứ hai, vượt qua một bãi mìn mới tới hàng rào thứ ba. Trung đội trưởng Bình, một mình dùng cả trung liên, AK, B.40 kiềm chế địch cho các chiến sĩ vượt hào lên phá rào, nhưng cả Bình và các chiến sĩ đều hy sinh.

Bộc phá hết. Đội bộc phá chỉ còn lại một chiến sĩ. Anh quay trở ra tìm bộc phá thì gặp đại đội trưởng Khiết đưa "đột kích 1" tới. Có bộc phá, anh chiến sĩ liền lao lên. Khiết nằm lại bắn chi viện. Một lát sau, bộc phá nổ. Khiết và "đột kích 1" cùng lao tới "Chú ý chúng nó thả lựu đạn". Tiếng một người nào đó thét to. Khiết nhìn xuống, thấy anh chiến sĩ đánh bộc phá gãy nát một chân nằm ép vào cọc sắt rào bùng nhùng. Thì ra khi đặt bộc phá sát bờ thành, anh bi bọn giặc phát hiện, chúng đáp lựu đạn xuống ; anh vẫn cắn răng giật nụ xòe rồi bò ra, được một đoạn, bộc phá nổ hất anh tới sát hàng rào thứ tư.

Trung đội trưởng trung đội 1 theo lệnh Khiết lên đánh chiếm lô cốt đầu cầu, vượt tường thành vào bên trong nhưng lại bật ra ngay vì luồng đạn đại liên bắn từ lô cốt trung tâm. Địch ở các hầm tràn ra chiếm lại đầu cầu. Từ đó chúng bắn như đổ đạn xuống đường mở. 3 giờ sáng, tình hình vẫn hết sức căng thẳng. Tất cả các mục tiêu của sư đoàn đều đã nổ súng nhưng chưa chỗ nào làm chủ được trận địa. Trung đoàn 22 chưa liên lạc được với tiểu đoàn 9 ở Gò Găng. Tiểu đoàn 4 chưa liên lạc được với đại đội 53. Ở mục tiêu chính, địch đánh bật các mũi tiến công của ta ra hào phản xung phong. Các lô cốt bị bắn sập, có cái tưởng như đã tê liệt nhưng khi bộ đội vượt qua, địch lại trỗi lên nổ súng. Phán đoán địch có lô cốt ngầm hoặc hầm ngầm, sư đoàn trưởng ra lệnh cho các đơn vị phát huy hỏa lực đi cùng, đánh chắc, bám chắc. Đánh tới đâu, tảo trừ tới đó

Vừa lúc trung đoàn 12 báo cáo tiểu đoàn 4 đã bắt liên lạc được với đại đội 53, cho biết đại đội 53 đã chiếm được lô cốt đầu cầu bắt được tù binh, nó khai có hầm ngầm. nhưng khi đánh xuống lại không thấy địch đâu cả Như vậy là chúng có nhiều đường ngầm chứ không chỉ có hầm ngầm. Sư đoàn trưởng cho phép trung đoàn 2 tung dự bị vào. Trung đoàn trưởng Trần Soạn xuống tiểu đoàn 4, qua kiểm tra, anh điều thêm một trung đội của đại đội 3 tiếp sức cho đại đội 1

5 giờ 45 phút, đợt tiến công thứ hai vào quận lỵ Minh Long bắt đầu. Hai khẩu ĐKZ.57 theo mũi chủ yếu của trung đoàn 12, cùng với cối, ĐKZ.75 của trung đoàn, sư đoàn bắn liên tiếp vào khu trung tâm. Trong đêm, đạn vạch lên từng làn sáng rực, phá vỡ từng lô cốt, dập tắt từng hỏa điểm địch. "Lô cốt hai tắt rồi. Đại đội 1 theo tôi". Đại đội trưởng Ngọc Kiên hô lớn. Anh dẫn đầu đơn vị vượt qua hào phản xung phong. Phó đại đội trưởng Cận đứng làm thang cho chiến sĩ nhảy qua vai mình. Tới bờ thành, Cận gặp đội hình đại đội 1 của Ngọc Kiên đang dồn lại. Biết giặc lợi dụng bờ thành bên kia làm chậm bước phát triển của đại đội 1 . Cận nhanh chóng dẫn đơn vị đánh vòng về bên phải. Bọn địch đang đối phó với mũi của Ngọc Kiên vội giãn ra đối phó với Cận. Kiên ra lệnh cho bộ đội công kênh nhau, vừa câu lựu đạn, vừa lao qua bờ thành. Chớp thời cơ, tiểu đoàn 4 đưa thêm hai trung đội còn lại của đại đội 3 tăng cường cho đại đội 1. Tham mưu trưỏng đưa "đột kích 2" tăng cường cho đại đội 2.

Trời tối, địa hình bên trong rất phức tạp. Ngoài các hầm hào, ụ súng kiên cố, còn nhà ngang, nhà dọc, mỗi gian đều biến thành ổ đề kháng. Bọn địch thông thạo địa hình luồn lủi như chuột. Ngọc Kiên ra lệnh cho bộ đội tiến thật chắc, bám thật chắc. Đánh tới đâu, tảo trừ tới đó. Trên hướng của tiểu đoàn 7, bộ đội đã đánh chiếm được hào bảo an, bắt sống tù binh, nhưng đại đội 1 chỉ còn bảy chiến sĩ. Biết nếu tiếp tục đánh trực diện sẽ không thu được kết quả, đại đội trưởng liền chia bảy người thành hai tổ, bắt hai tên bảo an dẫn đường, bất ngờ đánh thọc vào sau lưng lô cốt đầu cầu. Đội hình địch lập tức rối loạn. Chúng lúng túng quay lại đối phó. Từ bên ngoài, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Luyện cũng kịp thời tung đại đội 2 vào tiếp sức cho đại đội 1 . Địch chết ngổn ngang trong các đường hào. Số sống sót xô nhau chạy về khu trung tâm

Cũng trong thời gian ấy, ở phía bắc, tiểu đoàn 4 đưa thêm hai khẩu ĐKZ vào trong thành. Đại đội trưởng Bính, chính trị viên Cừ dẫn đầu hai bộ phận của đại đội 53 đánh từ phía tây tới. Tất cả các mũi đều dồn về. phía chiếc lô cốt hai tầng ở khu trung tâm,

Một tốp sĩ quan ác ôn theo đường ngầm định tẩu thoát ra phía cổng chính, nhưng khi chúng ló đầu lên thì ba mũi súng của các chiến sĩ tiểu đoàn 7 đã chĩa vào

- Hết đường rồi. Thằng Vi Phương quận trưởng của chúng mày đâu?- Một chiến sĩ quát

- Dạ, ông còn tử thủ ở lô cốt trung tâm -.Dạ các anh tha chết, em xin dẫn đường.

Bộ đội đổ dồn về phía lô cốt trung tâm. Từ những lỗ châu mai đã vỡ nát, những loạt đại liên vẫn bắn ra quyết liệt và lựu đạn vẫn ném xuống liên tiếp. Các mũi đều dừng lại. Không nén nổi căm thù, Khiết ôm quả bộc phá khối nhảy qua hào giao thông, dùng chân đá bay hai qua lựu đạn địch vừa thả xuống, tiến sát tới lô cốt. Bộc phá nổ nhưng chỉ phá được một mảng nhỏ Khiết chạy lộn trở ra. Một mảnh đạn xiết qua tay. Anh nhổ ra một ngụm máu rồi xông vào một lần nữa. Lần này, anh chập hai quả bộc phá lại. Một tiếng nổ dậy đất. Chiếc lô cốt hai tầng đổ sụp. Lúc ấy là 5 giờ 30 phút sáng.

Ở các vị trí vây bức Gò Quang. Gò Găng và đồn cộng hoà, bọn giặc nằm câm lặng, không dám nổ một phát súng. Chúng cuống quýt xin tăng viện, nhưng tên trưởng tiểu khu Quảng Ngãi đã ra lệnh cho chúng rút chạy. Số này bị các tổ đón lõng và du kích tóm gần hết.

Chiến thắng Minh Long đã kết thúc chiến dịch Đông 1965 của sư đoàn Sao Vàng.

Lần đầu ra quân, cũng là lần đầu tiên đụng đầu với quân Mỹ, sư đoàn Sao Vàng chứng tỏ khả năng có thể đánh thắng các đối tượng địch trong mọi điều kiện. Qua hai trận đánh ở thung lũng Thuận Ninh và thung lũng Hội Sơn, cán bộ và chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng cơ bản đã nắm được cái mạnh cái yếu của quân viễn chinh Mỹ. "Quân Mỹ không còn là một ẩn số, một dấu hỏi như khi chúng mới ồ ạt đổ bộ vào chiến trường Khu 5 nữa.

Tuy vậy, việc tìm hiểu về chiến thuật và thủ đoạn hành quân tác chiến của quân Mỹ, đặc biệt đổi với sư đoàn không vận số 1 còn là vấn đề đòi hỏi sư đoàn phải nghiên cứu. Bởi vì có hiểu thấu đáo được kẻ thù mới có thể tìm ra cách đánh thắng được chúng. Qua hai thất bại ban đầu ở Thuận Ninh và Hội Sơn, nhất định quân Mỹ sẽ rút kinh nghiệm, rồi đây chúng sẽ điên cuồng hơn, thủ đoạn của chúng sẽ xảo quyệt hơn. Điều quan trọng là ta phải phán đoán, nắm bắt được những thay đổi đó.

Vừa ra đời, sư đoàn Sao Vàng đã góp phần cùng quân và dân Khu 5 đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ trên chiến trường Quảng Ngãi - Bình Định. Hàng loạt vị trí phòng ngự cơ bản của quân ngụy trên các trục giao thông chiến lược bị đánh chiếm, nhiều quận lỵ, chi khu bị tiêu diệt. Đã đến lúc quân ngụy buộc phải lui về phía sau giữ nhà để quân viễn chinh Mỹ nhảy ra phía trước. Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" với công thức quân ngụy + trang bị, cố vấn Mỹ đã thất bại rõ rệt. Chiến lược "chiến tranh cục bộ" do chính lực lượng quân sự của Mỹ và chư hầu được bắt đầu một cách chật vật. Phải hành động trong thế của một chiến lược ra đời một cách bị động, các sư đoàn quân viễn chinh Mỹ không thể nào dành được thế chủ động trên các chiến trường.

Lần đầu ra quân, đảm nhiệm một hướng hoạt động của quân khu, sư đoàn Sao Vàng đã thành công bước đầu trong việc tổ chức chiến dịch và chỉ huy chiến đấu. Việc vận dụng các hình thức chiến thuật của các cấp chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội trong chiến dịch có tiến bộ rõ rệt. Điều này chứng tỏ sở trường và truyền thống của các đơn vị tiền thân đã được phát huy và được nâng lên một bước. Do ra đời và hoạt động trên một vùng dân cư và vùng đất có nhiều đặc điềm, nên ngay chiến dịch đầu tiên này, sư đoàn Sao Vàng đã phải hoạt động độc lập xa sự chỉ đạo của quân khu xa sự chi viện của hậu phương lớn, có lúc là một đơn vị chiến thuật (trận Minh Long) có lúc làm nhiệm vụ của đơn vị chiến dịch (đợt 1 ở Bình Định). Hầu hết lương thực đều dựa vào dân, lấy mục tiêu giải phóng dân, giải phóng đất làm mục tiêu chủ yếu. Từ khi còn là những trung đoàn độc lập hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ tư lệnh Quân khu, không có chiến dịch nào, trận đánh nào các đơn vị không phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng vũ trang địa phương, đặc biệt với phong trào nổi dậy của quần chúng.

Trong lúc bộ đội chủ lực đánh vào các cứ điểm lớn thì quần chúng bao vây những cứ điểm nhỏ. các chốt nhỏ. Bộ đội chủ lực nổ súng tiêu diệt sinh lực địch thì đội ngũ đấu tranh chính trị làm tan rã tinh thần; tư tưởng chúng. Sự phối hợp đó từ nay đã trở thành nguyên tắc để tồn tại và phát triển của sư đoàn Sao Vàng trong những điều kiện mới với trình độ và quy mô ngày càng được mở rộng và nâng cao. Chiến dịch Đông kết thúc thắng lợi đã đẩy phong trào cách mạng của quân dân hai tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi lên một bước mới, củng cố lòng tin đánh thắng 'chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, nâng cao quyết tâm giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc.

Đầu năm 1966, sư đoàn được lệnh gấp rút trở về Bình Định, chuẩn bị bước vào một chiến dịch mới. Các trung đoàn 2, 12, 22 lần lượt rời vùng rừng núi miền tây Quảng Ngãi, trở về đồng bằng. Dọc hai bên đường, đồng bào H're, Co đứng chật ở các đầu bản lưu luyến tiễn đưa. Mới gần một tháng trời chiến đấu ở Minh Long mà vùng đất này đã trở nên gắn bó, thân thiết biết bao. Người dân miền tây Quảng Ngãi nói ít, cười nhiều. Những ngày bộ đội chiến đấu là những ngày đồng bào đi cõng gạo, gùi đạn cho cách mạng. Có nơi cả làng, cả bản cùng đi. Gạo nộp không tính cân mà tính gùi. Người lớn có gùi lớn, người nhỏ có gùi nhỏ. Tới kho, chờ lượt bản làng mình vào nộp, nộp xong về ngay, không cần giấy biên nhận, không cần lấy muối thưởng, chỉ biết về báo cáo với cán bộ "đã đem gạo đến nơi cho bộ đội rồi, bộ đội nó nhận đủ rồi". Tối đến, đồng bào thường tụ tập ở nhà rông. Khi bếp lửa bén lớp củi đầu tiên thì những câu chuyện về bộ đội Giải phóng cũng bắt đầu nổ râm ran. Người kể, kể say sưa. Thỉnh thoảng lại cười rũ quanh một câu chuyện lạ. Chuyện anh giải phóng trước khi về xuôi đòi đổi kẹp tóc lấy chiếc vòng của một cô gái trong bản làm kỷ niệm: "Không biết kỷ niệm đâu" "Kỷ niệm là nhớ mãi nhau. Đồng bào có nhớ Giải phóng không", "Nhớ lắm nhưng không biết kỷ niệm"

Lòng dân ở vùng núi cũng như ở vùng xuôi, từ chiến dịch đầu tiên đó đã trở thành niềm tin thành điểm tựa vững chắc của sư đoàn Sao Vàng. Tất cả mọi cán bộ chiến sĩ trong sư đoàn đều hiểu rằng, một khi họ đã dựa được vào dân dựa được vào đất thì không một kẻ thù nào, dù đông, mạnh đến đâu có thể quật ngã được họ.

Hết Chương 3
Thông tin sách