Tiểu sử, Hồi ký
Tác giả: Nguyễn Hiến Lê

Gương Danh Nhân

Chương 9: ABRAHAM LINCOLN

Một người quân tử phương Tây đã lấy đức để trị dân

Mười năm trước, tôi không hề để ý tới Abraham Lincoln, chỉ lờ mờ biết rằng ông làm Tổng thống Huê Kỳ trong thời Nam Bắc phân tranh. Sau đọc sách, thấy Dale Carnegie ngưỡng mộ ông tới nỗi bỏ ra ba năm tra cứu hết các sách báo viết về ông, rồi tới những nơi ông đã ở, kiếm di tích của ông, phỏng vấn con cháu những người đã biết ông, về soạn cuốn Lincoln the unknown với mục đích duy nhất là để được soi tấm gương của ông mà tu tâm dưỡng tính. Tôi mới tò mò tìm hiểu “vĩ nhân bực nhất Huê Kỳ” đó và thấy rằng ông sở dĩ được mọi người kính mến, chỉ nhờ ông là người quân tử, đức thắng tài. Vâng, tài của ông có lẽ không đáng làm tổng trưởng, nhưng đức chân thành, khoan hồng nhân từ của ông thì trong số vua chúa, quốc trưởng, tổng thống từ xưa tới nay ít ai sánh kịp.

***

Coi qua chân dung ông, cũng thấy ông là có tướng vất vả: người cao mà gầy, trán rộng mà nhăn, má hóp, tóc rối, đầu nhỏ mà bàn tay rất lớn, tai như tai voi, mà cánh tay như cánh tay vượn, nhất là cặp mắt sâu lúc nào cũng có vẻ đăm chiêu, tư lự.

Vất vả ngay từ hồi nhỏ. Ông sanh năm 1809 ở Kentucky (Huê Kỳ) trong một gia đình nghèo hèn. Thân phụ ông thất học, khai phá những miền hoang vu nhưng lận đận hoài. Năm ông chín tuổi, thân mẫu ông mất, gia đình ông di cư qua miền Indiana. Tại đó ông sống mười bốn năm trong cảnh khốn khổ cùng cực. Nhà giữa rừng, không có sàn, không có cửa, chỉ gồm ba tấm vách gỗ đỡ một cái mái cũng bằng gỗ. Trong những cơn gió, tuyết, mấy anh em ông co quắp trên một đống lá trong góc nhà, y như một bầy chó. Thức ăn thì không có lúa, không có rau, tới khoai cũng không có. Gia đình ông sống bằng thịt thú rừng và trái cây rừng, y như hồi loài người còn ăn lông ở lỗ. Hễ đau ốm thì đành nằm mà chịu vì thiếu thuốc mà y sĩ thì ở cách nơi đó trên sáu chục cây số. Ông phải ăn bốc vì nhà không có dao, chén muỗng, và mỗi ngày phải đi hai cây số tới suối xách nước về giặt, rửa. Quần áo ông hôi hám, đầy rận. Cổ kim, tôi chưa thấy một bực vĩ nhân nào mà tuổi nhỏ cơ cực tới bực đó.

Nhờ công dạy bảo của bà kế mẫu nhân từ, năm mười lăm tuổi, Lincoln mới biết đọc một cách chậm chạp và được tới trường học. Trường cách nhà trên bảy cây số, ông và chị ông phải dậy từ canh tư, đi qua những khu rừng hoang để tới lớp kịp giờ. Sách và giấy thời đó rất đắt, ông làm gì có tiền mua, phải mượn sách của bạn để học và lấy cục than viết lên những tấm ván. Ông không được đi đều đều, tính gồm lại thì trước sau, ông chỉ tới trường khoảng mười hai tháng. Sau này khi được bầu làm Tổng Thống rồi, ông nnói với bạn bè:

“Tới tuổi trưởng thành, tôi mới chỉ biết đọc, biết viết và làm phép tam suất. Ngày nay tôi được biết thêm chút gì là nhờ đời sống đã bắt tôi thỉnh thoảng phải tự học”.

Và cũng như mọi người tự học, ông rất ham đọc sách. Ông nghiền ngẫm hết năm cuốn của bà kế mẫu ông, là Thánh kinh ngụ ngôn của Esope, Robison Crusoe, Sự tiến tới của một người hành hương, và Thủy thủ Sindbad, một truyện trong bộ Một ngàn lẻ một đêm.

Rồi ông mượn thêm sách gặp cuốn gì cũng mượn. Ông thích nhất là cuốn Scott”s Lesson, trong đó tác giả giảng cho ông hiểu nghệ thuật diễn thuyết của hai nhà hùng biện thời cổ: Cicéron và Démosthènes ông đọc ngày đọc đêm, đọc cả những khi ra đồng làm việc, tới nỗi ông thuộc lòng hết những đoạn hay.

Ít năm sau, ông mê thơ của Burns và Shakespeare. Ông nhận thấy hai thi hào đó hồi nhỏ đều thất học như ông mà cũng nổi danh được, và ông thầm nguyện sẽ noi gương sáng ấy.

***

Năm hai mươi hai tuổi, ông bắt đầu vào đời với hai bàn tay trắng và một số vốn học thức gần như số không. Nhưng ông có một sức mạnh phi thường, suốt ngày cày ruộng, đốn củi mà không biết mệt; ông làm mướn cho các chủ trại để kiếm miếng ăn, và lúc đó không ai ngờ rằng một anh lao công vai u thịt bắp như ông, sau này thành Tổng Thống Huê Kỳ được.

Một lần ông thả một chiếc ghe xuống New Orleans. Tại đây, đời sống tủi nhục của bọn nô lệ ghi một ấn tượng sâu trong óc ông. Ông thấy tụi mọi da đen bị xích với nhau, quất bằng roi da đến vọt máu. Ông được mục kích một phiên chợ bán mọi. Người ta bắt những con gái mọi đi đi lại lại, chạy nhảy, leo trèo để người mua xem xét những cử động của chúng; người ta vạch miệng vạch tai chúng ra để coi rồi trả giá y như trả giá những con bò, con ngựa. Trước cảnh đó, Lincoln phẫn uất ghê tởm, quay mặt đi, bảo các bạn “Ngó làm gì nữa các anh. Thực nhục nhã cho loài người”.

Ít lâu sau, ông tới New Salem, làm công trong các tiệm tạp hóa, nhà xay lúa và trại cưa. Ông thường dự các cuộc hội họp, kể chuyện, ngâm thơ cho các bạn nghe, lần lần ông nhận thấy rằng tài ăn nói của mình quyến rũ được nhiều người; do đó, lòng tự tín của ông tăng lên và đồng thời ông nuôi cao vọng thành một chính khách, chứ không an phận trong cảnh lao công nữa.

Nhân có bọn mọi da dỏ nổi dậy trong miền, ông tình nguyện đầu quân dẹp giặc. Người ta cử ông làm đội trưởng vì sức mạnh của ông. Ông chưa bắn một phát súng nào thì giặc đã tan, ông giải ngũ. Lúc đó, dân chúng New Salem đã hơi biết tiếng ông.

Năm 1832, ông ứng cử nghị viên trong tỉnh, thất bại nặng nề, chỉ được ba thăm trong số 208 thăm. Ông không thất vọng, hai năm sau lại ứng cử nữa: lần này thành công. Ông được tái cử trong ba khóa sau, vào những năm 1836, và 1838 và 1840.

Chức nghị viên hồi đó chắc nhàn và không có bổng lộc gì nhiều, ông vẫn phải kiếm cách khác sinh nhai. Ông hùn với một người bạn mở một tiệm tạp hóa và vỡ nợ.

Một lần đọc bộ Phê bình về luật của Blackstone, ông thích quá, quyết chí học luật để thành một luật sư. Ông mượn sách luật về học, lại học thêm văn phạm và Toán học vì một luật sư phải viết và nói cho đúng, phải lý luận chặt chẽ như một nhà toán học.

Hồi đó, nghề luật sư không cần có bằng cấp như ngày nay. Ông học thuộc luật, cãi được vài vụ và năm 1837 nghiễm nhiên thành một luật sư, lại Springfield mở phòng. Nói là mở phòng, chứ sự thực phòng làm việc của ông chỉ là một phòng ngủ với một bàn viết. Tòa án ở rải rác khắp nơi và mỗi tòa án mỗi năm chỉ họp có vài kỳ, cho nên ông cùng vài bạn đồng nghiệp phải cưỡi ngựa về những miền xa xôi để cãi, có khi nửa tháng, một tháng mới về nhà một lần.

Chẳng bao lâu, ông nổi tiếng là một luật sư có tài và biết thương người.

Ông nhận rất ít tiền công. Các bạn đồng nghiệp trách ông là làm hại lây cho họ, ông đáp:

Tôi thấy nhiều thân chủ cũng nghèo như tôi, nỡ lòng nào mà lấy của họ nhiều tiền cho được?

Một lần một thân chủ đưa ông hai mươi lăm Mỹ kim, ông trả lại mười Mỹ kim, bảo như vậy cũng là rộng rãi rồi.

Một lần khác ông cãi cho người vợ góa của một cựu chiến binh. Vụ kiện thắng và người đó được lãnh trọn số tiền cấp dưỡng là bốn trăm Mỹ kim. Nhưng thấy bà đó già cả và nghèo, ông đã không chịu nhận tiền công mà còn trả tiền phòng ngủ và giấy xe cho bà ta về nhà nữa.

Ông lại rất có lương tâm, thấy vụ nào mà thân chủ hoàn toàn có lỗi, thì nhất định không chịu biện hộ. Có lần, ở giữa tòa, ông nghe luật sư bên kia đưa ra những chứng cớ chắc chắn rằng thân chủ mà ông bênh vực đã gian trá, ông bèn bước ra khỏi phòng liền. Viên thấm phán cho người gọi ông, ông không vào, nhắn lại:

- Tôi phải đi rửa tay vì tôi đã vô tình nhúng tay vào một vụ dơ dáy.

Làm luật sư mà như vậy thì tất nhiên phải nghèo và bị vợ cằn nhằn, nhất là khi bà vợ Mary Todd sinh trong một gia đình quý phái quen thói xa xỉ.

***

Ông gặp May Todd ở Springfield. Về cuộc tình duyên của hai người, mỗi tác giả một khác. Stefan Lorant trong cuốn The life of Abraham Lincol nói hai ông bà rất thương nhau, và những khi xa nhau thường viết những bức thư đậm đà cho nhau. Chẳng hạn một lần ông ở Hoa Thịnh Đốn gởi những hàng này về cho bà:

“Ở cái thế giới sầu khổ này, không bao giờ chúng ta được hoàn toàn như ý. Khi ở gần mình thì anh trách mình ngăn cản anh ít nhiều trong công việc làm ăn; nhưng bây giờ đây, cắm cổ làm ăn không có sự thay đổi gì cả anh lại thấy đời vô vị quá đỗi... Anh ghét ở một mình trong cái phòng cũ kỹ này”...

Và bà trả lời ông:

“Em buồn chán khi nghĩ rằng đêm nay là đêm thứ bảy, con chúng ta đương ngủ... Em ước mong làm sao có mình ở bên cạnh đêm nay... Xa mình em thấy buồn lắm”.

Còn Dale Carnegie và nhiều tác giả khác lại quả quyết rằng bà đã ve vãn ông, bắt ông phải cưới bà vì bà chỉ ham làm bà Tổng thống mà tin chắc rằng ông sẽ thành Tổng thống. Chính ngày cưới, ông đau khổ quá, trốn trong phòng giấy khóa cửa lại, để họ hàng hai bên phải mỏi mắt đợi chú rể ở nhà thờ rồi bẽn lẽn, tức giận về không.

Sau vụ đó, bà năn nỉ ông, khóc lóc than thở với ông; ông muốn giữ danh dự, đành phải nhận lời. Bà nắm ngay cơ hội, bắt ông cấp tốc cưới bà nội đêm đó, một đêm tháng mười một năm 1842. Và từ đó, gia đình ông thành một cảnh địa ngục vì tính lăng loàn, chua chát hung dữ, ghen tuông vô lý của bà. Dale Carnegie kể rằng có lần bà hất cả một ly cà phê nóng vào mặt ông trước người lạ, và cảnh bà cầm chổi đuổi ông diễn ra rất thường.

Tôi không biết hai thuyết đó, thuyết nào đúng; nhưng có điều chắc chắn tác giả nào cũng nhận là tính tình hai ông bà trái hẳn nhau. Ông thì quê mùa cử chỉ vụng về, ăn mặc lôi thôi, nằm bệt xuống sàn đọc sách, bạn bè của bà tới, ông cũng thản nhiên. Bà thì sang trọng, giỏi khiêu vũ, lịch thiệp, rất ưa trang sức, quá trọng thể diện, lại có tính kiêu căng, phách lối. Chỉ coi hình của bà: mặt vuông trán dô, mắt lớn lưỡng quyền cao, môi mỏng, ta cũng thấy người đàn bà đó hách dịch chứ không nhu mì. Như vậy ta đủ rõ cặp vợ chồng đó dù có thực tâm yêu nhau thì cũng rất thường gây lộn với nhau, và những lúc gây lộn, phần thắng không luôn luôn về ông.

***

Lập gia đình xong được ít lâu, ông ứng cử vào Quốc hội. Lần đầu thất bại. Năm 1846, ông lại ứng cử lần nữa, thắng. Lúc đó chiến tranh giữa Huê Kỳ và Mễ Tây Cơ đã gần đến lúc tàn. Ông đứng trong đảng đối lập với chính phủ, chỉ trích Tổng thống đã gây chiến tranh “xâm lăng, bất công và nhục nhã” đó.

Bài diễn văn của ông không gây một tiếng vang gì ở Hoa Thịnh Đốn, vì lúc đó, ông là một nghị sĩ vô danh, nhưng tại Springfield, nơi ông ra ứng cử, dân chúng nổi lên phản đối ông dữ dội, vì ông đã mạt sát quân đội trong chiến tranh đó, mà miền Springfield có rất nhiều lính trên mặt trận.

Ông chán nản, thú với một người bạn: “Tôi đã làm hại đời chính trị của tôi”, rồi trở về Springfield, làm luật sư như trước.

Nhưng một việc bất ngờ xẩy ra, thay đổi hẳn tương lai của ông và đưa ông tới Bạch ốc. Người đã vô tình giúp ông thành công là một địch thủ lợi hại của ông, Stephen A. Douglas.

Douglas cũng ở Springfield, có tài hùng biện và cũng làm nghị sĩ.

Từ đầu thế kỷ 19, vấn đề nô lệ đã làm cho các tiểu bang phương Nam bất bình với các tiểu bang phương Bắc. Phương Nam muốn giữ chế độ vì có lợi cho các điền chủ: họ được tự do bóc lột nhân công của bọn da đen. Phương Bắc trái lại, không phải là một miền canh nông mà là một miền kỹ nghệ, ít dùng nô lệ nên hô hào bỏ chế độ nô lệ.

Năm 1839, hội Chống chế độ nô lệ ở Huê Kỳ xuất bản một cuốn sách nhỏ nhan đề là Thực trạng chế độ nô lệ ở Huê Kỳ, ghi những điều tai nghe mắt thấy của một ngàn người đã được mục kích những cảnh tàn nhẫn dã man như: nhúng tay bọn nô lệ vào nước sôi, hoặc gí sắt nung đỏ vào da thịt họ. Người ta ác tới nỗi bắt đàn bà da đen nào khỏe mạnh phải sống chung với những người da trắng vạm vỡ để sinh những đứa con lai bán cho được nhiều tiền. Nếu người đàn bà đó sinh ra con thì người đàn ông da trắng được thưởng hai mươi lăm Mỹ kim, nếu rủi mà không sanh, thì người đàn bà bị đánh đập. Những vụ người da trắng hiếp dâm đàn bà da đen xẩy ra hàng ngày và Wendell Phillips đã phải la lên rằng phương Nam là “một ổ điếm khổng lồ” trong đó nửa triệu đàn bà da đen bắt buộc phải làm đĩ, nếu không thì bị quất tới nát thịt.

Dân chúng phương Bắc phẫn nộ trước những hành vi vô nhân đạo đó. Khi cuốn Cái chòi của chú Tom xuất bản, hàng triệu người vừa đọc vừa khóc. Chính tác giả cuốn đó, bà Harriet Beecher Stowe cũng vừa khóc vừa viết và bảo Thượng đế đã đọc cho bà chép, chớ bà không sáng tác gì hết.

Năm 1854, lòng phẫn uất của dân phương Bắc đã hơi nguôi nguôi thì Douglas lại làm cho nó bùng lên. Ông đi diễn thuyết khắp nơi, bênh vực người phương Nam, bảo phải để cho phương Nam muốn làm gì với bọn nô lệ thì làm. Ông nói: “Dân Kansas và Nebraska tự cai trị lấy nhau được thì tất cũng có thể cai trị một bọn da đen khốn nạn được”.

Có lẽ ông làm như vậy để lấy lòng người phương Nam và hy vọng năm 1856, ra ứng cử Tổng thống sẽ được nhiều phiếu của họ. Ông không ngờ rằng ông bị phản đối dữ dội ở phương Bắc. Người ta mắng ông, chửi ông là quân phản bội đê tiện. Lincoln nắm cơ hội đó, dùng tài hùng biện để đả đảo Douglas. Một phần vì ông hăng hái bênh vực chủ trương của ông, một phần vì chủ trương đó hợp với ý phần đông người phương Bắc, nên những diễn văn của ông được hoan nghênh nhiệt liệt, và chỉ trong ít ngày, danh ông nổi lên như cồn.

Ông đòi hủy bỏ chế độ nô lệ, thống nhất phương Nam và phương Bắc. Ông nói:

“Một gia đình chia rẽ không thể đứng được. Tôi tin rằng chính phủ nầy không thể chia rẽ hoài, nửa nô lệ, nửa tự do như vậy. Tôi không muốn cho Liên hiệp bị tiêu tan - tôi không muốn cho nhà đổ sụp - nhưng tôi muốn rằng không có sự chia rẽ nữa. Hết thảy phải theo chế độ nầy hoặc chế độ kia”

Douglas la lên rằng ông muốn cho người da đen ngang với người da trắng về phương diện xã hội[16]. Ông đáp:

“Người da đen không ngang hàng với tôi về nhiều phương diện nhưng về cái quyền được hưởng “đời sống, tự do và hạnh phúc”, về cái quyền được ăn miếng cơm mà tay họ kiếm ra, thì họ ngang hàng với tôi, với ông Douglas và với mọi người khác.”

Douglas đuối lý, buộc tội càn ông là muốn cưới vợ da đen, ông bực mình cãi:

“Tôi không muốn cho phụ nữ da đen làm nô lệ, như vậy không có nghĩa rằng tôi muốn cho họ làm vợ tôi. Tôi đã sống năm chục năm rồi mà chưa hề nuôi một người đàn bà da đen nào làm nô lệ hay làm vợ... Nếu một người tuyên bố quả quyết, lặp đi lặp lại rằng hai với hai không phải là bốn, thì tôi không có cách nào bắt họ phải nín tiếng được. Tôi không muốn bảo ông Douglas là một người nói dối, nhưng tôi không thấy tiếng nào khác để gọi ông cho đúng bằng”.

Hai bên tranh biện với nhau hàng tháng, không ai chịu thua ai.

Ít lâu sau, ứng cử vào Thượng nghị viện, Lincoln lại thất bại, nhưng tới năm 1860, ông được đảng Cộng Hòa đưa ông ra ứng cử ghế Tổng Thống, và nhờ những sự vụng về của đảng đối lập, đảng Dân chủ, ông được bầu một cách bất ngờ. Năm đó ông 51 tuổi. Từ một địa vị thấp hèn nhất trong xã hội, trong ba chục năm phấn đấu ông đã leo lên địa vị cao quý nhất. Nhưng ông đâu được hưởng cảnh giàu sang, ngày mà ông bước chân vào Bạch ốc ở Hoa Thịnh Đốn là ngày ông tự đặt trên vai ông cái gánh nặng những ưu tư cùng trách nhiệm của vị Tổng thống một nước sắp bị tàn phá vì nội chiến.

Trước khi nhậm chức, ông lại Charleston thăm kế mẫu ông. Cụ ôm lấy ông, khóc lóc: “Má không muốn cho con được bầu làm Tổng thống. Tâm linh báo cho má rằng con sẽ gặp tai nạn và hai má con thấy nhau lần nầy là lần cuối”.

Ở Charleston ông trở về Springfleld nghỉ ngơi ít bữa. Ngày ông từ biệt Springfield, trời mưa tầm tã, mà hàng ngàn người ra tiễn ông ở sân ga. Ông vừa khóc vừa nói:

“Các bạn không ở trong hoàn cảnh của tôi thì không ai có thể thấu nỗi buồn của tôi trong lúc chia tay nầy. Nhất thiết cái gì, tôi cũng mang ơn nơi này và dân tình ở đây. Ở đây tôi đã sống một phần tư thế kỷ, từ tuổi xanh cho tới tuổi bạc đầu. Ở đây con cái tôi từ biệt các bạn, không biết bao giờ mới trở lại đây nữa”.

Tâm linh của bà kế mẫu Lincoln đã báo đúng. Trong suốt thời kỳ làm Tổng thống, ông không ngày nào khỏi lo nghĩ, và tới lúc nội chiến kết liễu, ông bắt đầu được vui vẻ với toàn dân thì ông bị ám sát.

Khi hay tin ông được bầu làm Tổng thống, các tiểu bang phương Nam biết rằng ông sẽ đả đảo chế độ nô lệ bèn họp nhau, tuyên bố độc lập và tách ra khỏi phương Bắc. Jefferson Davis được bầu làm Tổng thống phương Nam, bảo quốc gia của ông dựng trên chân lý lớn lao nầy: “Tình trạng nô lệ là tình trạng tự nhiên và bình thường của người da đen”.

Lincoln không chịu nhận sự phân chia đó mà cố giữ cho Huê Kỳ được thống nhất và chiến tranh nổ ở Sumter (South Carolina) mấy bữa sau khi ông nhậm chức.

Sức hai bên không đều nhau: phương Bắc đông dân hơn, có nhiều kỹ nghệ hơn, nhưng quân đội ô hợp không được luyện tập, không có kỷ luật. Phương Nam ít dân, nhưng có nhiều lính thiện chiến và vị chỉ huy của họ Robert E. Lee, là một tướng đại tài.

Lincoln kêu được 19.000 người nhập ngũ, nhưng nhìn chung quanh không thấy ai đáng chỉ huy cả, đành phải giao cho tướng Scott. Cổ kim chưa có ông tướng nào như Scott. Ông ở hậu tuyến ngủ khò, điện tín ở mặt trận bay về nườm nượp báo tin quân phương Bắc thua không còn manh giáp, đè xéo lên nhau mà chạy, ông cũng không hay. Lincoln tới đánh thức ông, ông dụi mắt, ngáp, ngồi dậy không được vì gần như tàn tật. Lincoln phải đỡ dậy, hỏi ông, ông đáp:

“Tôi không biết chút xíu gì hết, có bao nhiêu quân, khí giới ra làm sao, nhất thiết tôi không được rõ”.

Ông coi xong những điện tín, bảo chưa có gì đáng lo, phàn nàn về bệnh đau lưng, rồi lại nằm xuống ngủ nữa.

Đó vị tổng tư lệnh phương Bắc như vậy đó.

Lincoln chán ngán, phải giao quyền chỉ huy cho McClellan. Nhưng nỗi lo lắng của Lincoln chẳng nhờ vậy mà giảm, lại tăng lên gấp bội.

McClellan là một ông tướng trẻ tuổi, hay khoe khoang mà lại nhút nhát, sợ cầm quân như sợ bệnh dịch. Nhờ may, McClellan thắng được một trận nhỏ ở Virginia, dân chúng hoan hô tặng ông huy hiệu “Tiểu Nã Phá Luân”, lỗ mũi ông phồng lên. Người ta thúc ông nên thừa thắng mà tiến quân, thì ông cứ nằm ỳ ra, viện hết lý lẽ này lý lẽ khác: nào là quân sĩ còn mệt, nào là ngựa còn phải nghỉ ngơi, nào là số quân còn ít, khí giới chưa đủ.

Chính phủ gởi một trăm ngàn viện binh cho ông, yêu cầu ông tấn công tướng Lee, thì hôm sau ông đánh điện xin thêm quân nữa vì “tình báo cho hay rằng Lee có tới 400.000 quân”. Ông đòi nửa triệu quân kia, nhưng nếu có được nửa triệu thì lại đòi một triệu, rồi hai triệu, ba triệu.

Lincoln lại thăm ông, ông bắt đợi nửa giờ rồi mới tiếp. Một lần khác, ông đi đâu về, lính thị vệ bảo rằng Tổng thống đã ngồi đợi hàng giờ trong phòng khách rồi, ông bước qua cửa phòng, làm bộ không thấy Lincoln, leo thang lên lầu rồi cho lính xuống bảo “đại tướng mắc ngủ”. Ông còn lớn tiếng chửi nội các là bầy chó chết, đã không gởi quân lính và khí giới, để ông thua trận.

Vậy mà Lincoln vẫn nhẫn nhục chịu ông, vì chưa thấy ai thay được. Dân chúng nhao nhao lên, trăm người như một, yêu cầu Lincoln kiếm một vị tướng khác. Thấy nỗi lo của dân như vậy, Lincoln khóc, cử John Pope thay McClellan.

Nhưng McClellan không chịu giao binh quyền cho Pope, lại ghen tị không đem quân cứu Pope bị Lee tấn công làm cho phương Bắc thua một trận lớn nữa. Tình thế rất nghiêm trọng. Quân phương Nam tiến rất mau, Hoa Thịnh Đốn có thể bị chiếm, dân chúng ở kinh đô rối loạn, đã rục rịch tản cư.

Vậy mà Lincoln không hề trách Pope vì biết rằng Pope không thể làm hơn được. Ông đành trao quyền cho McClellan, vì McClellan tuy nhút nhát, nhưng ít nhất cũng có tài tổ chức, huấn luyện quân đội. Tới khi McClellan không chịu tuân lệnh truy nã quân đội Lee sau trận Antictam, ông mới truất quyền để trao cho tướng Burnside.

Burnside tự thú là bất tài, khăng khăng từ chối; khi bắt buộc phải nhận thì khóc mướt! Quân đội Burnside cũng bị Lee đánh tan tành. Chức tổng tư lệnh phương Bắc lại chuyển qua tay Joe Hooker.

Hooker khoe khoang rằng có một bộ đội hùng cường nhất thế giới, và trời có tha Lee thì tha chứ ông ta không khi nào tha.

Nghe vậy, ai mà không phấn khởi! Nhưng kết quả ra sao? Kết quả ra mới quân lần đầu, Hooker đã chạy dài và thiệt 17.000 sĩ tốt.

Lincoln hay tin, trách trời sao độc địa không cho phương Bắc một vị tướng nào giỏi như Lee.

Quân đội làm cho Lincoln đau lòng như vậy, mà chính nội các của ông cũng làm cho ông điêu đứng. Có bốn vị bộ trưởng quan trọng là Seward, bộ trưởng nội vụ, Chase, bộ trưởng tài chính, Welles, bộ trưởng hải quân, Stanton bộ trưởng quốc phòng.

Họ ghen tị nhau, nói xấu nhau, và ai cũng tự cho mình là tài giỏi hơn Lincoln, đáng được làm tổng thống hơn Lincoln, cùng chê Lincoln là một anh bán đồ tạp hóa ở New Salem, nhờ may mà được ngồi ghế đó. Stanton vô lễ nhất, gọi ông là “con vượn trời đánh” là “đồ ngu”, và bảo: “Người ta tốn công qua châu Phi tìm đười ươi làm gì, trong khi có một con đười ươi ngồi ở giữa Bạch Ốc.”

Những lời mắng chửi đó, thiên hạ đồn rầm lên đến tai bà, bà bắt ông truất quyền những bộ trưởng đó đi, ông không chịu, biết rằng họ giúp nước được nhiều việc. Ông lại còn khen Chase là có tài gấp rưỡi những danh nhân mà ông được biết.

Ông đại lượng đến nỗi khi người ta cho ông hay Stanton không tuân lệnh, bảo ông là đồ điên, ông chỉ đáp:

“Nếu ông Stanton bảo tôi là đồ điên thì có lẽ tôi điên thật, vì ông ấy gần như luôn luôn có lý. Để tôi lại nói chuyện với ông ấy”.

Rồi ông đi kiếm Stanton, hai bên bàn cãi với nhau. Lincoln nhận là có lỗi, huỷ lệnh trước đi.

Lần lần lòng đại lượng của ông thu phục được mọi người và khi ông mất, chính Stanton nói: “Thế giới chưa bao giờ có một nhà cầm quyền hoàn toàn như Tổng thống Lincoln”.

***

Cuối năm 1862, các cường quốc Âu châu nhất là Anh và Pháp thấy quân phương Nam nắm chắc phần thắng, muốn giúp phương Nam, hy vọng xong công việc, sẽ được chia phần, Lincoln vội tuyên ngôn giải phóng nô lệ để chặn đứng âm mưu đó. Ông biết rằng tuyên ngôn đó sẽ làm cho dân phương Nam tức giận và một số nhỏ dân phương Bắc sẽ bỏ hàng ngũ của ông mà theo phương Nam, nhưng ông cho rằng cái hại đó không bằng cái hại có ngoại quốc xen vào cuộc nội chiến, mà một khi lời tuyên ngôn truyền qua châu Âu, thì không có quốc gia nào ở châu Âu dám ra mặt bênh vực phương Nam, vì như vậy là bênh vực chế độ nô lệ. Tờ tuyên ngôn ký ngày nguyên đán 1863. Quả nhiên dân chúng châu Âu đã được đọc cuốn Cái chòi của chú Tôm, hoan hô nhiệt liệt, hướng cả về ông, coi như một vị thần tự do và cầu chúc cho phương Bắc thắng.

Tình hình ngoài mặt trận bắt đầu được khả quan hơn. Quân hai bên gặp nhau ở Gettysburg. Mới đầu quân Nam thắng, sau vì một lỗi lầm của Lee, quân Nam thua chạy tới sông Potomac, qua sông không được vì nước dâng cao và chảy xiết. Lincoln rất mừng, đánh điện cho tướng Meade bảo đuổi theo ngay thì thế nào cũng đại thắng. Meade nhút nhát trù trừ án binh bất động để cho nước sông rút xuống và quân Nam thoát được.

Lincoln giận vô cùng la lên:

- Trời cao đất dầy, như vậy là nghĩa lý gì?

Rồi ông than với con rằng: “Quân địch đã ở trong tay ta mà để cho chúng thoát! Trong tình thế đó, bất cứ ai cầm quân cũng có thể đánh bại được tướng Lee. Mà nếu cha có mặt tại đó, chắc chắn cha đã thắng trận rồi”.

Đoạn ông viết bức thư nầy cho Meade:

“Đại tướng thân mến.

Tôi không tin rằng ông nhận chân được sự trốn thoát của đại tướng Lee tai hại là dường nào! Quân đội y ở trong tay ta, là vì y đã bại nhiều phen, nếu đánh ngay lúc đó thì chỉ một trận là chiến tranh đã kết liễu. Nay thì nó sẽ kéo dài ra không biết đến bao giở. Thứ hai trước, ông đã không thắng nổi Lee, bây giờ y đã qua sông mà lực lượng của ông chỉ có thể bằng hai phần ba hôm đó thì làm sao thắng được y nữa?... Dịp may ngàn năm một thuở của ông đã qua rồi, và tôi buồn vô cùng vì vậy”.

Lời trách trong thư thực nhẹ nhàng. Vậy mà rồi ông cũng không gởi, sau khi ông mất, người ta tìm thấy bức thư đó trong hộc tủ của ông. Có lẽ ông đã nghĩ: “Mình không ở trong tình cảnh của ông ấy, mà trách ông ấy chẳng là bất công ư? Nếu mình cầm quân, thấy hai bên đã đổ máu nhiều như vậy, có lẽ mình cũng không nỡ lòng nào mà tàn sát nữa. Vả lại việc qua rồi, trách móc chỉ vô ích”.

Chính nhờ tấm lòng quảng đại, hiểu người đó mà Lincoln đáng làm Tổng thống và được cả một dân tộc kính mến.

Sau trận Gettysburg phương Bắc thường thắng, nhờ tài cầm quân của tướng Grant.

Grant là một con người kỳ dị, rất làm biếng, rất sợ học, bạn bè thân thuộc ai cũng cho là vô dụng. Hồi học trường võ bị West Point, Grant chuyên đọc những tiểu thuyết kiếm hiệp, và suốt đời không đọc một binh thư nào cả. Vì không có cách gì kiếm ăn nữa, nên ông mới vào quân đội, rất ghét cái nghề cầm súng. Vậy mà khi ông cầm súng thì nổi danh liền.

Ông định tấn công đồn Donelson ở trên bờ sông Cumberland. Các nhà quân sự chuyên môn bảo ông là điên, là muốn tự tử. Ông mỉm cười, cứ cho tấn công và chỉ trong một buổi chiều, chiếm được đồn, bắt được 15 ngàn tù binh. Trận đó đã quyết định cuộc nội chiến: Quân phương Bắc thẳng tiến xuống phương Nam. Danh của Grant vang lừng cả bên châu Âu.

Nhiều kẻ thấy thắng lợi đó của Grant, sinh lòng ghen ghét, nhân một lỗi lầm khá nặng của ông, gièm pha với Lincoln để truất quyền ông. Lincoln không nghe bảo: “Ông ấy đương chiến đấu, tôi không thể truất ông ấy được”. Người ta lại bảo Grant say sưa be bét. Lincoln cười: “Ông ấy thích thứ rượu gì? Tôi muốn gởi tặng ông ấy và các vị tướng ít thùng rượu nữa”.

Lincoln hoàn toàn tin cậy ở Grant và Grant đã xứng đáng với lòng tin đó. Tháng bảy 1863, Grant thắng một trận lớn nữa ở Vicksburg, bắt được 4 vạn tù binh. Lincoln phong ngay chức tổng tư lệnh cho ông.

Tháng năm năm sau, quân hai bên gặp nhau trong một trận quyết liệt ở Bắc Virginia. Sau ngày đầu, thấy sĩ tốt bị thương và chết nhiều quá, Grant đau lòng, khóc, nhưng vẫn cương quyết ra lệnh tiến tới. Sau sáu tuần lễ, phương Bắc mất 55 ngàn người. Linlcon thấy cảnh chết chóc, tuy đứt ruột mà cũng không chịu lùi, kêu thêm nửa triệu người nhập ngũ. Dân chúng phương Nam và cả phương Bắc nổi lên chỉ trích Lincoln, gọi ông là quân “đồ tể khát máu”. Cũng may là lòng phẫn uất đó chưa nổi lên khi ông tái ứng cử tổng thống vào hồi tháng sáu 1864. Ngày được tái cử, ông đọc một bài diễn văn lâm ly cầu Trời cho chiến tranh mau dứt, nhưng cũng tỏ ý cương quyết chiến đấu tới khi quốc gia thống nhất mới thôi. Bài đó được hậu thế coi là áng văn chương bất hủ của Huê Kỳ.

Chí ông rất cương quyết mà lòng ông rất nhân từ. Kẻ nào gọi ông là tên “đồ tể khát máu” đã không hiểu tâm sự của ông. Ông đau khổ lo lắng cho đồng bào, đến nỗi mới cầm quyền có bốn năm mà sức lực vạm vỡ của ông đã suy tàn. Ông ăn không được, ngủ không được, má hóp đi, vai nhô lên. Những người thân cận ông thường thấy ông khóc. Người ta khuyên ông đi nơi khác nghỉ ngơi, ông đáp:

“Dẫu nghỉ hai ba tuần cũng không ích lợi gì cả. Làm sao tôi trốn thoát được ý nghĩ của tôi?”

Nghỉ làm sao được khi: “tiếng khóc của những vợ góa và con côi luôn luôn văng vẳng bên tai ông”, như viên bí thư của ông đã nói? Mà thực vậy, ngày nào cũng có những người vợ và người mẹ lại xin ông ân xá cho chồng hay con. Ông luôn luôn ái ngại cho họ và nếu có một người mẹ bồng con mà khóc trước mặt ông thì không thế nào ông từ chối được một điều gì hết.

Một người bị xử tử vì đào ngũ. Ông tha tội cho, nói: “Nếu tôi ở giữa chiến trường thì cũng không chắc gì tôi không bỏ súng mà trốn”.

Một người khác nhớ nhà, cũng đào ngũ. Ông bảo: “Bắn chết hắn có ích lợi gì đâu?”

Có lần ông đánh điện cho tướng Meade bảo đừng xử tử những thanh niên dưới 18 tuổi.

Và ông thường nhắc câu này trong Thánh kinh: “Đừng phê bình ai để khỏi bị người khác phê bình mình”.

Đầu năm 1865, Grant thắng Lee một lần cuối cùng ở Richmond và chiến tranh kết liễu, sau hơn bốn năm đổ máu. Lincoln đưa những điều kiện rất nhẹ cho phương Nam. Các tướng phương Nam không những không bị tội mà còn được giữ khí giới; sĩ tốt được về quê làm ăn thong thả.

***

Đầu tháng tư năm 1865, Lincoln thấy một giấc mộng kỳ dị. Đêm hôm đó ông thức rất khuya vì đợi những điện tín ở mặt trận gởi về. Khi lên giường, ông mệt mỏi ngủ thiếp ngay. Rồi ông mộng thấy Bạch Ốc có vẻ tang tóc. Văng vẳng có tiếng sùi sụt, thút thít. Ông ngạc nhiên xuống thang gác, tìm xem tiếng khóc ở đâu. Ông qua hết phòng này tới phòng khác, vẫn nghe tiếng khóc mà không gặp một người nào cả. Sau cùng ông tới phòng ở phía đông, ngạc nhiên thấy một nhà táng trên đó đặt một thây người đã liệm rồi. Chung quanh có lính đứng canh và nhiều người ôm mặt khóc. Ông hỏi một người lính: “Ai mới chết trong Bạch Ốc vậy?” Đáp: “Ngài tổng thống đã bị ám sát”. Tiếng khóc bỗng vang lên trong phòng. Ông tỉnh dậy, thì là một giấc mộng.

Tâm linh đã báo cho ông biết trước tai nạn sắp xảy ra. Lúc đó ông rất buồn, nhưng cũng rán quên đi.

Ngày 14 tháng đó là ngày vui độc nhất trong hơn bốn năm chấp chánh, mà cũng là ngày cuối cùng của ông. Cờ bay phấp phới khắp nơi, báo tin chiến tranh đã dứt, quốc gia đã thống nhất.

Buổi sáng ông họp Nội Các, lập chương trình kiến thiết lại quốc gia.

Buổi chiều hai ông bà dắt nhau đi chơi, tính toán về đời sống sau này. Ông hy vọng được sống vui vẻ bốn năm nữa trong cảnh thanh bình, cho hết khóa Tổng Thống, cố dành dụm ít tiền rồi về Springfield hoặc Chicago làm luật sư như trước.

Buổi tối hai ông bà đi coi diễn tuồng Our American cousin ở rạp Ford. Ông đương coi thì một kẻ lẻn vào tiến tới sát ông, bắn một phát súng lục vào đầu ông. Ông gục xuống. Thừa lúc lộn xộn, tên đó trốn thoát. Bốn người lính khiêng ông ra khỏi rạp, tới một căn nhà nhỏ ở gần rạp rồi mời y sĩ lại. Vết thương quá nặng, viên đạn nằm ở trong óc. Ông hấp hối tới bảy giờ sáng hôm sau thì tắt thở, không trối trăng điều gì hết. Mưa lạnh trút lên nóc nhà. Stanton hồi trước chỉ trích ông kịch liệt, lúc đó vừa khóc vừa nói: “Bây giờ ông thành người thiên cổ”.

Trong khi bốn người lính khiêng ông từ rạp hát ra, máu ông chảy trên đường, nhiều người quỳ xuống lấy khăn chấm máu, mang về giữ làm bảo vật truyền lại cho con cháu.

Chính phủ làm lễ quốc táng, đưa ông về Illinois để chôn. Khi đám táng qua Nữu Uớc, nửa triệu người chen chúc nhau đợi suốt đêm để chào lần cuối cùng vị Tổng thống đã yêu họ như con, chung vui chia khổ với họ. Có những người phải trả mười mỹ kim một chỗ đứng trên lề đường để được nhìn ông trong một giây.

Ít lâu sau, tên ám sát ông, Wilkes Booth, bị bắt và xử tử. Y thú thực không ghét gì ông mà chỉ muốn làm một việc kinh thiên để được người đời biết tên. Đã không làm được một việc “lưu hương” thì y làm một việc “lưu xú” đời đời. Thật lạ lùng! Một vĩ nhân có công lớn với dân tộc mà chết vì một nguyên do vô lý như vậy!

HẾT

[1] Nguyễn Gia Tường (1905 – 1985): Tốt nghiệp trường cao đẳng sư phạm Đông Dương, giáo sư tại trường Bưởi. Sau năm 1945 ông là hiệu trưởng người Việt đầu tiên của trường này.

[2] Người Pháp.

[3] Biển nhỏ ở phía đông Hy Lạp

[4] Thành Troy bị Hi Lạp tấn công trong mười năm, sau thất thủ. Nhưng trang sử đó được chép trong Iliade của Homere

[5] Một đảo lớn của Hy Lạp. Theo Truyền thuyết, Ulysse làm vua tại đó trước khi tấn công Troie

[6] Vua cuối cùng của thành Troie, bị Pyrrhus giết khi thành thất thủ

[7] Một tỉnh thời cổ La Mã.

[8] Thời đó, chỉ hạng quí tộc mới được giữ những chức cao trong triều đình, mà Quản Trọng vốn sinh ra trong một gia đình bình dân. Chức "tướng" đó là chức của những người có tài năng giúp ý khiến cho vua chứ không phải chức tể tướng sau này.

[9] Đừng lẫn lộn với nhà Chu, Châu là một nước hầu nhỏ.

[10] Có sách nó Bão Thúc chết trước Qủan Trọng, chưa biết thuyết nào đúng

[11] Cùng chỉ sự vật chi lý, dục kỳ cực xứ vô bất đáo dã

[12] Coi Trung Quốc văn học sử cuốn III của tác giả

[13] Bản dịch của Đào Trinh Nhất trong Vương Dương Minh (Tân Việt)

[14] Có người đọc là Thổng

[15] Nho giáo, Cuốn II (Tân Việt)

[16] Tinh thần phân biệt màu da ở Huê Kỳ thời đó rất thạnh, mà hiện nay vẫn chưa mất hẳn.

Hết Chương 9: ABRAHAM LINCOLN
Thông tin sách