Tiểu sử, Hồi ký
Tác giả: Nguyễn Hiến Lê

Gương Danh Nhân

Chương 7: LÉON TOLSTOI

Một Á Thánh

Trong khoảng một trăm năm nay, khắp thế giới có một người được nhân loại tôn sùng vào bực thánh sống: Ông Gandhi và một người nữa được sắp vào hàng thánh: Ông Léon Tolstoi.

Gandhi tới đâu thì những dân quê Ấn Độ từ hang cùng ngõ hẻm, từ núi sâu rừng rậm, dắt díu nhau, bồng bế nhau, đeo giỏ cơm bầu nước đi hàng trăm cây số để đón rước ông, chiêm ngưỡng dung nhan ông, nụ cười từ bi của ông và khi thấy ông thì họ khóc rưng rức, có kẻ áp mặt vào vết chân ông đặt trên cát mà hôn. Còn Tolstoi thì hồi tám chục tuổi, bận bộ đồ vải thô, lom khom khâu giày hoặc cưa gỗ, vậy mà ngoài cửa không lúc nào ngớt ngựa xe của đủ các hạng người khắp châu Âu, châu Mỹ lại chầu chực để được nhìn ông trong một vài phút, được sờ chiếc áo của ông, và mỗi lời ông thốt ra được người ta ghi chép như lời trong thánh kinh vậy.

Cả hai đều là bực chí nhân, đều có một lòng thương người vô biên, đều chủ trương bất bạo động, nhưng từ hình dáng đến tính tình, thì khác nhau xa biết bao.

Gandhi có nét mặt thanh nhã của một nhà tu hành đắc đạo lúc nào cũng khoan hồng tươi cười với mọi người, còn Tolstoi thì buồn bã, đau khổ, vầng trán cao lúc nào cũng có nét nhăn, cặp lông mày rậm lúc nào cũng cau cau, mắt nhỏ thì đăm đăm mà môi dày thì mím lại, tai to, mũi lớn, mặt dài và nặng, vẻ tàn bạo.

Tính tình của Gandhi bình thản, trong trẻo, tính tình của Tolstoi ồ ạt chua chát, đục ngầu những dục vọng, cao thượng cũng có mà ti tiện cũng có. Romain Rolland, một văn hào Pháp, so sánh hai ông, đã viết:

“Ở Gandhi, cái gì cũng là tự nhiên, nhũn nhặn, giản dị, trong sạch và tất cả các chiến đấu của ông đều có cái hào quang thanh tĩnh của tôn giáo. Còn ở Totstoi, cái gì cũng là kiêu hãnh, phản động lại kiêu hãnh, căm thù chống căm thù, phẫn nộ chống với phẫn nộ. Cái gì ở Tolstoi cũng là bạo động, kể cả thuyết bất bạo động của ông.”

Đúng vậy, mà trước hết là ông căm ghét căm thù ngay cái bản thân ông của ông. Tâm hồn ông rất thanh thản mà bản tính ông lại rất trọc. Hai phần đó luôn luôn mâu thuẫn nhau, càng về già, mâu thuẫn càng mạnh, làm cho suốt đời, ông sống trong một cơn dông tố gần như bất tuyệt.

***

Léon Tolstoi sanh năm 1828 ở Iasnaia Polonia trong điền trang mênh mông của thân phụ là bá tước Tolstoi. Cách Moscou khoảng hai trăm cây số. Thân mẫu ông là công chúa Maria Volkonski, gia sản vào bực nhất nước Nga thời đó.

Hai tuổi mồ côi mẹ, chín tuổi mồ côi cha. Hồi nhỏ biếng học, mà thông minh chưa phát, đến nỗi thầy dạy học phải bảo: “Có đứa muốn học mà không học được, có đứa học được mà không muốn học, thằng Léon đã không học được mà cũng không muốn học”. Lời xét đó sai, vì chỉ ít năm sau, Toistoi vào trường đại học Kazan để học môn ngoại giao và tỏ ra có khiếu về sinh ngữ.

Hồi đó, tiếng Phần Lan còn trọng dụng nhất châu Âu, ông cũng như mọi nhà quý phái Nga, thông tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ. Ngoài ra ông học thêm tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Đức và chỉ trong 4 tháng, hiểu được tiếng cổ Hi Lạp. Nhưng ông ghét phương pháp dạy cổ lỗ của trường, nên đổi môn, xin học luật. Ông lại thất vọng lần nữa, thấy khoa pháp luật chán ngán, rắc rối vô ích, không hợp lệ công bằng ở trong lương tâm con người.

Ngay từ hồi đó, ông đã tỏ ra khác thường, không chịu sống như mọi người, muốn tìm tòi một triết lý, một cuộc sống riêng cho mình. Cũng như Vương Dương Minh đã thử theo đạo Phật, đạo Lão và đạo Nho để rán kiếm ra chân lý. Tolstoi, trong một năm, đã thí nghiệm đủ các chủ nghĩa mới đầu là: Chủ nghĩa khổ hạnh, tự đầy đọa tấm thân, chịu đói rét để cầu đạo. Rồi tới chủ nghĩa khoái lạc, sống trác táng với bên thanh sắc. Sau lại theo thuyết linh hồn di thể, thuyết hư vô. Suốt ngày ông phân tích tâm hồn ông, càng phân tích càng thấy rối bời, càng mất hết những tin tưởng hồi trước, càng thấy lạc lõng, bơ vơ. Và năm mười sáu tuổi, ông thôi không tụng kinh, không bước chân vào giáo đường nữa.

Ông tự xét một cách sáng suốt và nghiêm khắc: Tôi sống hoàn toàn như con vật rồi tìm nguyên nhân thì thấy mình có đủ tật: Nhu nhược, quạu quọ, dễ thay đổi, thiếu suy nghĩ. Mà ông nhu nhược thật: Bị bạn bè rủ rê, ông chơi bời, cờ bạc, lấy đêm làm ngày, bê tha trong các quán rượu và bên cạnh các gái điếm. Chỉ nhờ mỗi một điểm thiên chân mà ông không đến nỗi thành con người bỏ đi, điểm thiên chân đó là tấm lòng thành thực hoàn toàn của ông. Ông tự nhận mình là hà tiện, cho nên khi đọc tập “Thú tội” của J. J. Rousseau ông thích quá, tưởng chừng như gặp một tâm hồn vừa là bạn vừa là thầy, rồi đeo hình Rousseau ở cổ như đeo hình Chúa vậy.

Chán, tởm cái giới sinh viên đại học và cả cái xã hội thượng lưu, ông về ruộng (1847 - 1850), muốn nhờ thiên nhiên gột rửa bụi phồn hoa. Lãnh địa của ông rộng trên ngàn mẫu tây vừa rừng vừa ruộng, gồm năm làng và khoảng mấy trăm nông dân. Ông nhiệt tâm muốn giúp đỡ họ, dạy dỗ họ, an ủi họ, tìm hạnh phúc của mình trong hạnh phúc của họ. Nhưng ông thất vọng ngay khi thấy họ hoặc vì ngu dốt, hoặc vì quá an phận, chỉ cam tâm sống lây lất mùa này qua mùa khác, không dám bỏ hủ tục mà mạnh bạo cải thiện đời sống. Có ý gì mới đem bàn với họ thì chẳng những họ dửng dưng, mà còn nghi kị, chế nhạo ông nữa. Lại thêm bọn quản gia của ông thấy ông dễ dãi, khờ khạo, một mặt lường gạt ông, một mặt bóc lột nông dân để cho đầy túi tham. Ông chán nản, tự hỏi có đi lạc đường không và có nên để mặc kệ họ sống sao thì sống không.

Mấy năm sống ở thôn quê đó sau này được ghi lại trong truyện Buổi sáng của một lãnh chúa.

Tất cả con người của ông hiện rõ trong tiểu thuyết đầu tay đó: Óc nhận xét thì tinh vi mà tâm hồn thì mơ mộng.

***

Sau lần thất bại đó, ông trốn nợ vào miền Caucase, sống trong quân đội với một người anh làm sĩ quan. Ở giữa cảnh hùng vĩ, núi xanh, tuyết trắng, ông tìm lại được Chúa nhưng tâm hồn vẫn chưa lắng trong, ông vẫn ham cờ bạc, ham thanh sắc, vẫn kiêu ngạo. Tài trước tác bắt đầu nẩy nở, kế tiếp nhau, bốn tác phẩm xuất hiện: Tuổi thơ được độc giả rất hoan nghênh vì tươi nhã, Buổi sáng của một lãnh chúa, một truyện mà phần tả rất tinh vi, Xâm nhập với nhiều cảnh thiên nhiên rất đẹp và Thanh xuân với những nhận xét tế nhị về tâm lý.

Mới đầu ông viết chỉ có mục đích để tiêu khiển, tuyệt nhiên không nghĩ đến lợi mà cũng chưa dám nghĩ đến danh, cho nên khi gửi tập Tuổi thơ cho một tạp chí quan trọng đương thời, ông ngại ngùng không biết người ta có đăng không, phải viết ít hàng này gợi cho viên chủ bút: “Xin ông coi qua bản thảo, nếu không đáng in thì xin ông gửi trả lại tôi. Tùy quyết định của ông, tôi sẽ tiếp tục viết, hoặc sẽ đốt hết cả đi”. Viên chủ bút trả lời: “Bản thảo của ông có nhiều đoạn thú lắm, tôi sẽ đăng”.

Ông mừng quá, gần như hóa điên. Nhưng chỉ một lúc, ông nghĩ lại, hơi bất mãn, tự hỏi: “Tại sao chỉ có lời khen mà không nói gì về nhuận bút?” Và mặc dầu viết để tiêu khiển, ông vẫn đòi tiền nhuận bút cho kỳ được. Viên chủ bút phải hứa những lần sau se trả ông mỗi trang 12 rúp, tức số tiền nhuận bút cao nhất trả cho các nhà văn đương thời. Sau này ta sẽ thấy ông còn nhiều lần chiến đấu để đòi tăng tiền nhuận bút lên nữa.

Hồi đó ông cũng ghi tài liệu để viết cuốn Dân Cosaque, văn tươi đẹp, du dương mà tình cảm nồng nàn. Trong cuốn Xâm nhập ông phản đối chiến tranh:

“Vậy ra loại người không thể sống yên ổn trong các thế giới đẹp đẽ, dưới bầu trời mênh mông lấp lánh những sao này ư? Làm sao ở nơi thiên nhiên này họ còn có thể giữ lòng độc ác, trả thù và hăng hái tàn sát đồng loại được? Tất cả những cái xấu xa đáng lẽ phải tiêu tan khi tiếp xúc với thiết nhiên chứ, vì thiên nhiên là biểu hiện rõ ràng nhất của cái mỹ cái thiện”.

Nhưng mâu thuẫn làm sao, năm 1851 ông lại tình nguyện đầu quân đánh giặc núi và chiến đấu rất hăng, suýt được thưởng quân công. Rồi hai năm sau, Nga tuyên chiến với Thổ, ông qua Sêvastopol, ra ngoài mặt trận. Ông viết ba bài phóng sự. Bài thứ nhất tả lòng dũng cảm của quân đội, làm cho hoàng hậu cảm động tới khóc và Nga Hoàng trọng đãi ông, cho ông được ở xa mặt trận để khỏi nguy hiểm đến tính mạng. Trong bài thứ nhì, lời văn thay đổi hẳn, ghi chép những bỉ ổi của con người, những bi hài kịch diễn thường ngày ở bên cạnh thần chết. Lần này ông mạt sát chiến tranh và nhất định xin giải ngũ.

***

Năm 1855, về Saint Petersbourg, ông được hoan nghênh là một vị anh hùng và một nhà văn có tài. Giao thiệp với giới văn nhân, nghệ sĩ, chán ngán vì lòng ham danh lợi, về đời sống trụy lạc của họ, ông du lịch qua Đức, Pháp, Thụy Sĩ, Anh để xem văn minh của phương Tây ra sao. Ông vốn trọng dân tộc Pháp, một dân tộc đã gieo tư tưởng bình đằng, bác ái cho nhân loại, cho nên khi tới Ba Lê (1857) ông hồi hộp như sắp được bước vào cõi thiên đường.

Nhưng chẳng bao lâu ông thất vọng và mất lòng tin ở tiến hóa. Nhìn vẻ mặt và dáng điệu của hạng người đầu cơ ở thị trường hối đoái, ông muốn khạc, nhổ. Đi coi Điện Phế binh, nơi chôn di hài Nã Phá Luân. Ông ghê tởm cho một dân tộc đã thần thánh hóa một kẻ bạo tàn.

Xúc động nhất là lần ông nhìn đầu một kẻ bị tử hình rớt từ máy chém vào trong một cái giỏ và ông tự hỏi không hiểu làm sao loài người lại có thể biện hộ cho một hành vi như vậy được.

Sang nước Anh, được mục kích thái độ của bọn phú hào Anh đứng dưng trước một đứa trẻ tàn tật hát dạo mà không cho nó được một đồng xu, ông khinh cả cái xã hội mà người ta gọi là văn minh, rồi hấp tấp về nước nhà để săn sóc dân quê.

Lần này ông quyết tâm khai thác đất đai, tiếp xúc với nông dân để hiểu tính tình, phong tục của họ rồi tìm cách giúp đỡ họ. Ông tự hứa chỉ tiêu 2.000 rúp một năm (mỗi rúp thời đó bằng khoảng 100 đồng bạc bây giờ), còn bao nhiêu ông sẽ dùng để cải thiện đời sống của tá điền.

Ông mở nhiều trường trong đồn điền để dạy con nông dân. Được ít tháng, thấy phương pháp của các trường tiểu học Nga không thể áp dụng được mà chương trình thì vô lý, ông lại du lịch một lần nữa, (1860 - 1861) qua các nước Tây Âu và nghiên cứu những chế độ giáo dục của họ. Những chế độ đó không được như ý, ông lại về nước, chủ trương rằng dân quê phải học ở ngoài học đường, phải có tự do, muốn học gì thì học.

Cũng như Rousseau và Lão Tử, những triết gia mà ông tôn là bực thầy, ông tin rằng văn minh đã làm cho loài người trụy lạc, và muốn cứu linh hồn, muốn tìm hạnh phúc thì chúng ta phải mau mau trở về thiên nhiên, sống đời giản dị, chất phác không bó buộc.

Năm 1862 ông sáng lập một nguyệt san giáo khoa để đả đảo chế độ giáo dục đương thời. Ông viết:

“Từ xa xưa tới nay, bất kỳ dân tộc nào cũng nhận rằng trẻ em là ngây thơ, trong sạch, là hiện thân của cái đẹp, cái thiện, cái chân, cái mỹ. Chúng sinh ra đã hoàn toàn rồi. Không ai có quyền bắt chúng phải nhận một nền giáo dục nào cả. Giáo dục theo quan niệm ngày nay là uốn nắn con người theo một kiểu mẫu đã định trước. Quan niệm đó đã không có kết quả, không thể thực hiện được mà còn phi pháp... Không ai có quyền đào luyện ai. Tôi phủ nhận quyền đó. Trường học văn minh chỉ làm cho trẻ hư thôi.

Phải để cho trẻ giữ được tính tự nhiên của chúng, phải để cho chúng tự đào tạo lấy chúng. Có nhân quyền, có tự do phát triển, và ta phải để cho học sinh tùy ý, muốn học cái gì thì học, khi nào thích thì học, không thích thì thôi.”

Lớp học của ông chỉ là một nơi cho trẻ em tụ họp, chơi với nhau, và khi muốn hỏi ông thầy điều gì thì ông thầy mới giảng. Ngay tới học đọc, học viết, học tính cũng không phải là cần thiết và bó buộc. Ông cho trẻ muốn làm gì thì làm: Đóng bàn, cuốc đất, trồng cây, nuôi súc vật để chúng phát triển thiên tư của chúng.

Lạ nhất là một văn sĩ như ông lại chủ trương cho học sinh diễn tả cách nào cũng được, không bắt lỗi văn phạm, không buộc phải theo những qui tắc hành văn, nhất là không phải học thuộc những bài kiểu mẫu. Về điểm đó Tolstoi còn đi xa hơn Rousseau, và mãi đến ngày nay, một nhà tân giáo dục ở Phần Lan là Freinet mới dám theo gót ông.

Ngoài công việc giáo dục. Tolstoi còn tận tâm và can đảm đứng ra bênh vực nông dân mỗi khi bị chủ điền áp bức.

Nhưng cũng như lần trước, ông lại thất vọng. Thấy tá điền không góp đủ lúa, có kẻ lại gạt ông, bán đắt cho ông một con ngựa, ông phân vân tự hỏi không biết nên trừng trị họ, hay chỉ nên thương hại họ. Giận quá, ông nổi xung đánh họ, nhưng đánh xong, ông lại ân hận kêu họ lại để xin lỗi và cho họ tiền. Chán nản, ông đâm ra cờ bạc, chơi bời, đến nỗi mắc nợ, phải cầm cố ruộng đất.

Sau mỗi lần trác táng, ông ghê tởm con người của ông mà thấy tủi nhục cho tính nhu nhược, mặc dầu vậy, ông vẫn không chừa.

Hồi đó ông trước tác cũng nhiều: Hai khinh kỵ binh, Albert, Ba cái chết, Pohkouchka.

***

Rồi một việc xảy ra làm thay đổi đời Tolstoi trong mười năm. Ông làm quen với gia đình một viên ngự y, bác sĩ Behrs, và lui tới thường vì nhan sắc của ba cô con gái bác sĩ.

Cái con người chán chường, đã trên ba chục tuổi, nổi tiếng là bạc hạnh trong giới phấn son ấy, lại đâm mê một cô còn trong trắng, mới mười bảy tuổi, cô Sophie Andréievna Behrs, thứ nữ của bác sĩ. Tự biết mình đã thừa xấu xa, trong ba năm, ông do dự, không dám hỏi cô, và khi ông đành bạo tỏ tình thì ngượng ngùng lấy cục phấn viết nhưng mẫu tự đầu của mỗi tiếng mình muốn nói. Cô Sophie đoán được và nhận lời. Cũng như Levine trong Anna Karênine, ông thú với cô tất cả những tội lỗi trước. Nếu chỉ vậy thôi thì cũng không sao vì quá khứ của ông, ai mà không biết. Nhưng ông lại đưa cô coi những tập nhật ký ghi chép tỉ mỉ đời trác táng của mình. Cô can đảm lặp lại lời hứa, mặc dầu, cũng như Kitty trong Anna Karénine, cô rất đau khổ.

Hôn lễ cử hành năm 1862, mở đầu cho một cuộc đời mới đầu là thiên đường rồi sau hóa ra địa ngục.

Ông xa hết bạn bè, sống bên người vợ trẻ, hạnh phúc tràn ngập trong lòng. Trong nhật ký năm 1862, ta đọc những câu như: “Tôi sung sướng làm sao, sung sướng làm sao, tôi yêu thương nàng biết bao!”, “hạnh phúc mênh mông”, “nàng thực dễ thương”, “tôi sung sướng đến lỗi như ngạt thở”. Có lần hai ông bà cùng quỳ xuống cầu Chúa cho được sống trong cảnh đó suốt đời. Bà mến tánh ngây thơ và văn tài của ông. Ông quý lòng trong sạch và tài quán xuyến của bà. Chẳng những bà giỏi việc nội trợ mà còn khéo giúp ông, khuyến khích ông trong sự sáng tác đem cho ông sự phong phú của tâm hồn phụ nữ. Bà thường tự hào: Tôi thực đúng là vợ một nhà văn. Lời đó rất đúng, ông đọc cho bà viết, và chép bản thảo cho ông, chép tới bảy lần bộ Chiến tranh và hoà bình dày trên ngàn trang.

Bộ đó, viết xong năm 1869, được sắp vào hạng tiểu thuyết tràng giang vô tiền trong văn học thế giới. Trong truyện, Tolstoi tả sự biến chuyển của xã hội Nga, nhất là giới quý phái, hồi Nã Phá Luân xâm lăng. Đời sống phù phiếm vô ý nghĩa của các lãnh chúa, các bà hoàng, cảnh chiến trường mênh mông, cảnh Moscou cháy ngùn ngụt, cảnh rút lui của quân đội Pháp trong những cơn bão tuyết, nhất nhất được ghi lại bằng những nét sắc xảo của một bút pháp tả chân và tấm lòng nhiệt thành của một nghệ sĩ mơ mộng. Khéo nhất là sau những bối cảnh đó, ta thấy hiện lên sự bình tĩnh của những luật bất dịch của định mạng, nó làm cho tác phẩm giữ được tính cách nhất trí. Ba nhân vật ta mến nhất là Natacha trong sạch cả những khi tội lỗi, Andrê cao thượng và hiền từ, và Pierre Besoukhov ngây thơ vụng về, ráng tìm hạnh phúc và rốt cuộc thấy nó ở trong tình thương và lòng tin tưởng. Pierre một phần của ông và Natacha là một hình ảnh gần đúng của bà.

Bộ đó được hoan nghênh nhiệt liệt. Ông viết tới đâu cho đăng ngay vô tờ truyền tin, mỗi trang lãnh được 20 rúp. Khi đăng hết, ông cho xuất bản kỳ đầu 4.800 cuốn, lời 29.000 rúp, tiền tác giả cứ mỗi ngày một tăng, lần tái bản thứ năm, ông lời được 60.000 rúp. Nhà Hachette ở Pháp mua quyền dịch lại, trong 40 năm tái bản 20 lần và từ hồi đó tới nay mới khoảng 80 năm, mà riêng ở Pháp, đã có trên mười bản dịch của mười nhà xuất bản.

Chưa có tác giả nào ngoài André Gide gián tiếp tả đời sống của mình nhiều bằng Tolstoi. Trong cuốn Anna Karénine (1873 - 1877) một tiểu thuyết có tính cách tự truyện và tả tâm trạng một người có ngoại tình, ông đã cho Constantin Levine, nhân vật chính, diễn những tư tưởng của ông, như câu: “Lý trí không dạy cho tôi biết chút gì cả hết thảy nhưng điều tôi biết là do trái tim phát giác cho tôi”. Tác phẩm đó tuy già giặn, nhưng thiếu giọng nồng nàn của thời niên thiếu. Ông đã hết tin ở hạnh phúc gia đình, lại thấy đời là trống rỗng, là ghê tởm, lại muốn chết.

Có người bảo nguyên nhân tại bà hay ghen, ghen với mọi người ông đã biết, ghen cả với những thôn nữ ông thường tiếp xúc hàng ngày nữa, đến nỗi có lần bà giả trang là một người nhà quê để đánh bẫy ông, vì bà biết ông là một người tình dục rất mạnh. Đó chỉ là một nguyên nhân phụ. Nguyên nhân chính là tính tình hai người tương phản nhau. Ông thì mơ mộng, bà thì thực tế. Bà thích đời sống vui vẻ ở châu thành, ông lại chỉ thích làm một dân quê. Nhất là ông bị những ý tưởng tôn giáo, triết lý, nhân đạo ám ảnh, còn bà chỉ nghĩ đến việc thu được nhiều tiền sống cho sang trọng, và cho ông là gàn.

Mà ai chẳng bảo ông gàn? Tiểu thuyết ông đương được hoan nghênh nhiệt liệt, nhất là bộ Chiến tranh và hòa bình được dịch ra khắp các tiếng ở Châu Âu thì bỗng nhiên, ông thôi sáng tác, bỏ ra bốn năm soạn một cuốn vần cho em nhỏ, theo phương pháp First, Second and Third reader của Mỹ. Một nhà báo đề nghị đưa trước ông 10.000 rúp và hứa trả ông mỗi trang 30 rúp (khoảng 3.000 đồng của ta ngày nay) để ông viết một tiểu thuyết, ông từ chối bảo: “Tôi muốn viết những sách thật rẻ mà chứa những điều có ích nhất, sắp đặt tuần tự dễ tới khó cho trẻ em đọc”. Thấy vậy bà chua chát phàn nàn: “Sao không viết tiểu thuyết, mà lại phí sức làm công việc vớ vẩn ấy!”. Bà đã lầm lớn. Tập vần đó mới đầu bán không chạy nhưng sau được cả nước dùng, và trước khi ông mất, đã được tái bản 25 lần, trong 5 lần cuối, mỗi lần in 100.000 bản.

Nhưng gàn nhất, theo bà, là quan niệm của ông về điền địa.

Ông là một điền chủ lớn, gia đình mấy đời sống xa hoa nhờ lúa ruộng, mà ông lại yêu cầu Nga Hoàng bỏ hết các sắc thuế chỉ đánh một thứ thuế là thuế điền thổ mà đánh rất nặng, do đó gây ác cảm với tất cả giai cấp cầm quyền trong nước.

Không những vậy, ông còn tuyên bố với tá điền là cứ đóng đủ thuế ruộng trong 2 hay 3 chục năm thì ông sẽ cho làm chủ ruộng. Nghe tới đó bà lồng lộn lên: “Như vậy thì ít chục năm nữa sẽ tay trắng à? Mà chính các tá điền càng nghi ngờ ông gạt họ, cho rằng ông biết được thế nào Nga hoàng cũng sẽ có chương trình cải cách điền địa, trả ruộng cho dân cày, nên tuyên bố như vậy để ra vẻ nhân từ đại độ mà kỳ thực là buộc họ vào tròng.

Nhiều lúc ông tỏ giọng chán đời ghê gớm: Tôi ráng khuếch trương điền sản của tôi, rồi thì sao? Rồi thì tôi chết. Tôi xuất bản Chiến tranh và hòa bình để cầu danh vọng rồi thì sao? Tôi nuôi con tôi để làm gì? Để sau này chúng chết cũng như tôi và chết rồi là hết, có còn chăng là những con ròi lúc nhúc và một xú khí nôn ruột.

Rồi một sáng mùa xuân, thơ thẩn trong rừng một mình, đột nhiên ông tìm được lại lòng tin ở Chúa. Về nhà ông đọc lại Phúc âm, và kiếm được trong bài thuyết giáo trên núi của GiêSu, bốn quy tắc cho đời sống hàng ngày:

Yêu Chúa và người khác như yêu mình.

Không giận dữ

Không gian dâm

Không lấy ác chống với ác.

Thấy sự giả dối của nhiều nhà tu hành đương thời, nhất là tinh thần bài xích ngoại đạo của họ, ông bất bình, chỉ trích. Ông bảo:

“Đạo Kitô chỉ là một trong những tôn giáo đẹp đẽ mà thánh hiền đời xưa ở Ai Cập, Do Thái, Trung Hoa, Ấn Độ... Đã truyền lại cho ta. Sở dĩ tôi theo đạo Kitô vì tôi sống trong một gia đình theo đạo đó... Tôi cho yêu Chúa là yêu sự hoàn toàn tuyệt đối”.

Giáo hội chính thống tất nhiên không chấp nhận những tư tưởng đó, nên trục xuất ông, ông thản nhiên.

***

Năm 1881, ông chiều lòng bà, phải theo bà về Moscou. Sự hy sinh đó không ích lợi gì cho ai cả, ông đã khổ mà bà cũng khổ.

Ông chép trong nhật ký: “Những đau khổ nhất trong đời tôi: Dọn lên Moscou. Vậy thì bao giờ họ mới bắt đầu sống nhỉ? Tất cả những cái đó đâu phải là để sống, mà chỉ vì người khác làm ra sao thì họ làm như vậy! Tội nghiệp cho họ”.

“Họ” đó là gia đình ông, nhất là bà. Bà cũng ghi trong sổ tay:

“Moscou ngày mai này chúng tôi lên ở đấy được đúng một tháng. Hai tuần lễ đầu ngày nào tôi cũng khóc vì anh Léon buồn rũ rượi. Anh không ăn không ngủ, khóc hoài”.

Năm sau, nhân giúp chính phủ trong một vụ kiểm tra nhân khẩu, Tolstoi có dịp len lỏi vào những hang cùng ngõ hẻm ở Moscou, được mục kích cảnh khốn khổ của dân nghèo, mà phẫn uất, muốn phát điên, vừa kể lể với bạn bè, vừa khóc lóc, la lớn, nghiến răng đưa nắm tay ra như đòi đấm ai: “Con người không thể sống như vậy được. Không thể như vậy được. Không thể như vậy.”

Trong hàng tháng, ông thất vọng ghê gớm. Bà hỏi ông: “Hồi trước, mình nói là vì thiếu lòng tin mà mình muốn tự ải. Bây giờ mình lấy lại được lòng tin rồi mà sao mình cũng còn khổ sở?”.

Bà hiểu sao được lòng ông? Lòng tin của ông không phải là lòng tin của người thường, tin mà chẳng hành động gì cả, vẫn sống thỏa thích trên xương máu của kẻ khác, còn ông khi đứng trước những khốn cùng của dân chúng, tự cho mình phải gánh một phần tội lỗi. Gặp một gái điếm mới mười sáu tuổi, bị nhà cầm quyền bắt giam, ông không cứu được, không nhận nó làm cháu mà đem về nhà nuôi được, ông ân hận tới mất ngủ. Thấy một người đàn bà thợ ủi đau, hết tiền, bị chủ nhà đuổi, chết ở đường, ông cũng cho là lỗi tại cả cái giới quý phái của ông tham lam quá, ích kỷ quả, bóc lột kẻ nghèo quá.

Rồi ông nhớ lại dĩ vãng mà đau đớn, ê chề, tủi hổ cho cái con người của ông. Trong nhật ký, ông tự thú: “Tôi đã giết người ở mặt trận... Tôi đã cờ bạc, điếm đàng, tôi đã phung phí những số tiền mà nông dân cực khổ đóng góp cho tôi... Tôi đã trừng phạt họ... Nói dối, ăn cắp, tham lam, không có tội nào mà tôi không mắc phải. Tôi viết sách vì tham danh, vì tham tiền, vì kiêu căng... Không thể tiếp tục sống như vậy được nữa. Phải tìm một lối thoát”. Ông đọc lại những sách về triết lý, tôn giáo.

Ông suy nghĩ, tìm cách giải quyết và viết cuốn: Chúng ta phải làm gì? (1884 - 1886) trong đó ông trút trách nhiệm lên hạng phú hào, hạng cầm quyền và giáo hội. Và ông quyết định ra khỏi xã hội của ba hạng đó, nghĩa là từ bỏ tiền của, đất đai, không làm một việc gì cho triều đình nữa. Theo đúng lời trong thánh kinh: “Con phải đổ mồ hôi trán đề kiếm miếng ăn”, ông cầy ruộng lấy, khâu giày lấy, sống một đời khắc khổ, bỏ cả thú tiêu khiển ông mê nhất là săn bắn, bỏ cả quyền tác giả về những cuốn viết sau năm 1881 nó đem lại cho ông những số tiền khổng lồ, để sống chung với dân quê, y như dân quê.

Ông viết: “Trong xã hội trưởng giả của chúng ta, người ta chỉ ăn không và tìm khoái lạc, rồi hoá ra chán ngán mọi sự. Đời sống của dân quê trái lại, tuy khó nhọc mà sung sướng”. Và ông thấy không có một nỗi vui nào, kể cả nỗi vui sáng tác văn nghệ, có thể ví với nỗi vui của một cuộc đời thanh đạm, làm việc bằng tay chân ở giữa đám dân cày và giữa cảnh thiên nhiên.

Những tư tưởng bất hợp tác trong cuốn đó, nhất là tư tưởng “không lấy ác để chống lại ác” đã ảnh hưởng lớn đến Gandhi sau này khi nhà lãnh tụ Ấn phản đối chính phủ Anh bằng cách không đi lính cho Anh, không mua đồ của Anh, không đóng thuế cho Anh, khuyên dân để mặc cho người Anh đánh đập và bỏ tù, không thèm chống cự.

Khắp Âu châu đọc cuốn Chúng ta phải làm gì? Và xét hành động của Tolstoi mà ngưỡng mộ ông, nhưng ở Nga, thì trừ nông dân ra, mọi giới đều coi ông như kẻ thù. Ông là con chiên ghẻ đối với giáo hội, là tên phiến loạn đối với triều đình. Người ta ghét những lời hô hào tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận của ông. Mặc dầu bị kiểm duyệt cấm ngặt, các tiểu thuyết cùng truyền đơn của ông cũng được quảng bá khắp nơi, dịch ra mọi thứ tiếng, rồi hàng ngàn thanh niên Nga chép tay lại những bản dịch đó, lén lút đưa cho nhau đọc.

Người ta ghét nhất là việc ông mở trường cho con em nông dân học mà không theo chương trình chính phủ. Và khi ông tuyên bố sẽ cho tá điền được làm chủ thửa ruộng họ cày cấy nếu họ góp lúa đều đều ba chục năm, thì các lãnh chúa, chủ điền ở Nga cho ông là đứa con hoang, vua cho ông là xúi dân làm loạn, là phá nền kinh tế quốc gia. Triều đình cho lính lại khám nhà trong lúc ông vắng mặt, lục xét hết những thư từ, bản thảo của ông, rồi bắt ông đóng cửa trường.

Tới quân đội cũng mạt sát ông là không có tổ quốc vì đã hô hào thiên hạ theo lời GiêSu “không lấy ác chống lại ác” lại còn dám bạo miệng báo rằng “quân lính là những con vật người ta luyện cho hung dữ để cắn mọi người”. Như vậy là gieo rắc sự hỗn loạn ở khắp nơi rồi, làm sao dung thứ được? Viên thượng thư bộ nội vụ muốn nhốt ông. Một bà cô Tolstoi hay tin, vào tâu với Nga Hoàng:

- Bệ hạ muốn cho cả thế giới coi nước Nga này là một xứ dã man sao?

- Cái gì vậy?

- Viên Thượng thư bộ nội vụ muốn bỏ khám vị thiên tài của Nga đó.

- Muốn nhốt Léon ư? Đâu được.

Và khi viên thượng thư trình tờ chiếu đã thảo sẵn thì Nga Hoàng gạt đi và bảo:

- Xin ông đừng chạm gì đến hắn, trẫm không muốn cho hắn mang thêm cái danh của một kẻ khổ nhục vì đạo mà gây sự bất bình ở trong nước và ngoài nước nữa. Nếu hắn có tội, thì kệ hắn.

Danh tiếng và tuổi tác của ông đã cứu ông, vì lúc đó, ông đã là ngôi sao bắc đẩu trên văn đàn thế giới. Mà chòm râu bạc và dài đã cho ông cái vẻ một tộc trưởng trong cựu ước kinh.

***

Vậy, tuy bị oán ghét, ông vẫn được sống yên ổn trong xã hội. Nhưng trong gia đình thì bi kịch xảy ra hàng ngày.

Trừ cô út, cô Alexandra, là hơi hiểu ông và quý ông, còn hết thảy đều chống lại ông. Ngày nay thấy chồng ăn bận lam lũ, hết học tiếng Do Thái cổ, lại bửa củi, khâu giày, vá áo, trong khi nhà có biết bao người để sai, bà Tolstoi nổi điên lên, bứt tóc, khóc lóc, đay nghiến: “Khổ quá thôi! Cứ như thằng khùng! Sao cứ phí sức vào những việc ti tiện đó?”

Ta phải nhận bà là một người rất tốt. Khi giáo đường trục xuất chồng, bà can đảm đứng ra bênh vực chịu chung với chồng sự khinh bỉ của các bạn. Nhưng bà thiếu lòng tin, không thể thay đổi đời sống được, nhưng không khi nào chịu bỏ gia sản cho kẻ khác. Bà la lên: “Khi không sao bỏ quyền tác giả đi? Cho ai hưởng? Mà con cái thì ai nuôi. Rồi đất đai, vài ba chục năm nữa về tá điền hết lấy gì mà ăn?”. Ông lại giảng triết lý: “Chỉ có sự làm việc chân tay là cao cả. Chỉ cần vào nhà một người nông dân là thấy tâm hồn ta trổ bông lại”.

Trông thấy các cậu ấm ăn không ngồi rồi, trưng diện, đú đởn, sống xa hoa trên lưng thằng dân, ông ghét cay ghét đắng. Mà các cậu con chẳng ưa gì cha. Khi cha thuyết giáo thì cậu nào cậu nấy ngó đi chỗ khác, hoặc đưa tay che miệng ngáp. Ông thất vọng: “Tôi cô độc làm sao. Mọi người chung quanh khinh tôi. Vợ con tôi cũng không hiểu tôi”.

Có lần bực mình quá, ông trách bà là “ham bạc cắc” bà lại trách ông là “khát danh vọng” bỏ quyền tác giả và muốn chia đất chỉ là để cho tên mình được nổi khắp Châu Âu. Ông chua xót hóa ra lầm lì, suốt ngày hí hoáy làm việc chân tay không nói năng với ai, vẻ mặt xa xăm, đau khổ. Tình trạng đó kéo dài gần ba chục năm.

***

Đau khổ nhất là ông bất bình với chính bản thân ông. Thế giới càng ngưỡng mộ ông, ông tự xét càng thấy tủi nhục, vì ông đủ sáng suốt để nhận thấy đủ, thành thực để tự thú rằng đời sống của mình không hoàn toàn phù hợp với những thuyết giáo của mình. Bộ đồ ông bận tuy bằng vải thô nhưng còn lành lặn quá. Phòng của ông tuy chỉ có mỗi một chiếc giường sắt, không trang hoàng gì cả, nhưng vẫn còn ấm quá. Đất cát, nhà cửa còn rộng lớn quá. Những tác phẩm viết trước năm 1881 còn đem lại nhiều tiền tác giả quá. Khi ông đau ốm còn được bác sĩ chăm sóc, còn hàng triệu dân nghèo đói chết rét, có ai cưu mang cho đâu. Tiền than để sưởi của gia đình ông đã cất được bao nhiêu căn nhà cho dân quê. Mỗi bữa tiệc phí tổn năm, sáu trăm rúp đủ nuôi được bao nhiêu gia đình. Mà những tiền đó ở đâu ra? Của ông bà để lại, của tá điền đóng góp, của các nhà xuất bản trả ông. Ông mang tội với xã hội, vì sống quá sung sướng trong khi biết bao người cực khổ.

Chí ông rất lớn, ông muốn ôm hết cả những bàn dân khắp thiên hạ trong hai bàn tay già lóng cóng, muốn như Giê Su đi lang thang hết nơi này đến nơi khác, an ủi kẻ bị bóc lột, hiếp đáp, nhưng trăm phần ông làm không được một, vì ông nhu nhược. Ông viết:

“Hoạt động của tôi dù có một số người cho là ích lợi tới đâu đi nữa thì cũng mất một phần lớn giá trị vì tôi không sống đúng với thuyết của tôi”.

Ý nghĩ đó dày vò ông hoài, ông tìm cách giải quyết mâu thuẫn mà không ra. Ông chỉ còn cách cắm cổ viết. Từ cuốn Chúng ta phải làm gì? Chủ trương sáng tác của ông thay đổi, lấy sự chiến đấu cho nhân loại làm mục đích.

Nghệ thuật chân chính phải biểu diễn sự nhận định sứ mạng và hạnh phúc chân chính của mọi người. Hoạt động khoa học hay nghệ thuật chỉ ích lợi khi người ta chỉ nghĩ đến bổn phận mà không nghĩ đến quyền lợi. Chỉ vì tính cách không vụ lợi đó, mà nó được nhân loại tôn sùng. Hy sinh và chịu đau khổ đó là số phận của nhà tư tưởng và của nghệ sĩ vì mục đích của họ là giúp ích nhân loại biết cách tìm phước và tránh họa...

Ông hăng hái đả đảo phái chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật, hăng hái quá tới thiên lệch. Trong bài Nghệ thuật là gì?. Tolstoi mạt sát Shakespeare, thi hào bực nhất của Anh, cho là một cây bút hạng tư, vụng tả tính tình mà thiếu thành thực.

Theo ông, nghệ thuật phải diễn ý thức tôn giáo của thời đại. Ý thức đó không phải là đạo lý của giáo đường đâu, mà là ý thức tứ hải giai huynh đệ, vì ông tin rằng loài người chỉ có mỗi một con đường để tiến tới hạnh phúc là con đường tương thân tương ái. Cho nên ông rất ca tụng Victor Hugo, Charles Dickens, Đostoievsky, những nhà văn bênh vực kẻ nghèo.

Tất cả các văn sĩ đương thời đều ngại rằng chủ trương mới đó làm giảm nghệ thuật của Tolstoi. Nhưng không, lòng tin tưởng ở thượng đế và đạo bác ái không giết nghệ thuật của ông mà còn truyền cho nó thêm một nguồn sinh khí mới. Trong khoảng mười lăm năm, từ 1884 đến 1899, ông viết được những cuốn Cái chết của lvan Ilitch (1884 - 1886), Truyện bình dân (1881- 1896), Chủ và tớ (1895), Khúc nhạc tặng Kreutser và Phục sinh (1899). Hai cuốn sau nổi tiếng nhất.

Tác phẩm Khúc nhạc tặng Kreutser như một trái bom liệng vào xã hội giả dối đương thời. Tolstoi mạt sát nền giáo dục phụ nữ, quan niệm về ái tình và chế độ hôn nhân mà ông gọi là chế độ mãi dâm trong gia đình, làm cho chẳng những độc giả mà chính ông, khi đọc lại, cũng phải thấy kinh khủng cho giọng văn tàn bạo. Về nghệ thuật, cuốn đó rất cao, lời nồng nhiệt, nét sắc bén.

Tiểu thuyết Phục sinh viết hồi bảy chục tuổi, tả đời một vị hoàng thân quyến rũ một cô gái quê rồi ân hận muốn chuộc tội, bỏ cảnh sang trọng theo cô sang Sibêrie ở. Tác giả cũng vạch những giả dối bỉ ổi của xa hội quý phái, nhưng giọng điềm tĩnh như của một nhà tu hành, không cay độc như trong cuốn trên.

Qua đầu thế kỷ hai mươi, xã hội Nga bước vào một cảnh hỗn loạn báo trước một sự sụp đổ. Nhà cầm quyền bất tài và tàn nhẫn. Dân quê đói rét, nổi lên khắp nơi.

Tolstoi biết thế nào cũng có sự thay đổi, quyết dùng cây viết để mở con đường mới cho quốc gia và nhân loại. Trong những cuốn Chiến tranh và cách mạng, Trọng tội, Thời tàn của thế giới, ông nói tất cả sự thật, tất cả ý nghĩ của mình, đả đảo chế độ độc tài của vua chúa, đả đảo chủ nghĩa xã hội mà ông cho là giả dối, thiếu bác ái, chỉ gây oán thù, đả đảo khoa học là vô ích và có hại. Nghiên cứu về nguồn gốc vạn vật, về các kim chất trên tinh tú, về các số nguyên tố để làm gì, trong khi vấn đề sinh tử của nhân loại chưa giải quyết xong và hàng triệu người đang chết vì đói rét, vì bệnh tật, vì chiến tranh. Vẫn là cái giọng căm hờn hồi trước.

Năm 1905, Nga thua Nhật, cách mạng nổi lên.

Tolstoi tin rằng cách mạng đó sẽ mở đầu cho một kỷ nguyên mới bình đẳng và bác ái, và dân tộc Nga như dân tộc Phần Lan năm 1789, sẽ đi tiên phong trong công cuộc cải tạo thế giới. Tư tưởng đó chẳng có gì mới mẻ, lại quá viển vông, nhưng giọng ông rất thành thực, và văn ông rất già giặn. Ảnh hưởng ông chịu của J. J Rousseau hồi nhỏ vẫn không giảm một phần nào.

Cách mạng 1905 thất bại. Chế độ đã không cải thiện mà nỗi khốn cùng của dân chúng còn tăng. Ông hết tin tưởng ở dân tộc Nga mà hy vọng vào dân tộc Trung Hoa, dân tộc “lớn nhất và hiền triết nhất thế giới” như ông nói. Ông thư từ với vài danh sĩ Trung Hoa như Cố Hồng Minh, thuyết họ phát động chủ nghĩa hòa bình bác ái. Nhưng dân tộc Trung Hoa lúc đó đương say mê nghe Khương Hữu Vi và Lương Khải Siêu, quyết tâm Âu hóa để hùng cường lên mà lật đổ ngai vàng Mãn Thanh và bứt xiềng xích đế quốc thì ai mà chịu theo Tostol kia chứ. Lại thất vọng, nhưng vẫn còn tin tưởng ở tương lai: “Không ai gây nổi một khu rừng trong nháy mắt. Phải đợi cho cây lần lần lớn lên”. Vâng, thì phải đợi. Nhưng “muốn thành một khu rừng, phải có nhiều cây, mà Tolstoi thì cô độc”.

Ông cô độc vì không muốn gây đảng phái, nghĩ rằng chân lý không cần kéo bè đảng. Mà dầu có muốn gây cũng không thành, dân tộc Nga khác dân tộc Ấn Độ và thuyết bất bạo động của Tolstoi, chính những thanh niên khâm phục ông nhất cũng không tán thành.

Nhiều nhà cách mạng viết thơ phản đối ông, đòi phải lấy ác trả ác. Ngay chính ông cũng không theo được lý tưởng của mình. Khi thấy người ta tới cướp lúa, cướp tiền của dân, ông phẫn nộ, đòi phải đền tội. Ông chán nản thốt:

“Khi người ta sống suốt một đời mong mỏi được thấy kỷ nguyên của bác ái, mà rồi phải nhắm mắt giữa những cảnh giết chóc, oán thù! Thế thì buồn thật”. Danh nhân khắp thế giới vẫn viết thư cho ông, từ A Rập, Trung Hoa, Nhật Bản. Cuốn Phục sinh được dịch ra mọi thứ tiếng. Thanh niên Pháp coi ông như cha già. Romain Rollanđ viết:

“Chúng tôi - tức cả thế hệ Rolland - không chỉ tán thưởng những tác phẩm của ông (Tolstoi) mà còn sống với nó như là tác phẩm của chúng tôi... Đời sống nhiệt thành của ông, tấm lòng trẻ trung của ông cũng là của chúng tôi. Những mộng bác ái và hoà bình của ông cũng là của chúng tôi. Lời buộc tội ghê gớm của ông khi ông mạt sát những giả dối của văn minh cũng là của chúng tôi”.

Nhưng tất cả những danh vọng đó đã không an ủi ông, chỉ làm cho vết thương lòng của ông thêm trầm trọng.

***

Đáng lý ra, sau khi viết cuốn Chúng ta phải làm gì? Ông phải có một thái độ dứt khoát, từ bỏ hết của cải, cất một cái chòi giữa đồng mà sống như dân quê, làm lấy mà ăn, không nhận sự giúp đỡ của ai hết. Nhưng ông nhu nhược, chỉ sống một cuộc đời lưng chừng. Ông sang tên hết cả đất cát, nhà cửa, xe cộ cho vợ con, song vẫn sống chung với vợ con, vẫn ăn trong phòng ăn lộng lẫy, vẫn ngủ trong biệt thự, mặc dầu biệt thự đó mang tên bà, ông bận bộ đồ vải, đi đôi dép thô song vẫn có hàng chục người hầu bận lễ phục, đeo bao tay hầu hạ ông.

Ông tự hủy quyền tác giả của ông, song chỉ hủy nửa chừng vẫn giữ nguyên về những tác phẩm xuất bản từ 1886 trở về trước, mà những tác phẩm đó, nhất là bộ Chiến tranh và hòa bình vẫn đem cho ông mỗi năm được một số tiền vĩ đại.

Ông nhận thấy tình cảnh đó là giả dối và ông đau khổ ghê tởm. Ông tự chê ông, tự khinh ông, bảo: “Ai cũng có quyền mắng tôi là một thằng gian trá, trách tôi là nói mà không làm là viết sách thuyết giáo về cuộc đời sống nghèo khổ mà lại sống trong cảnh xa hoa”. Ông mất ăn, mất ngủ, tìm cách giải quyết, và thấy chỉ có một cách là bỏ nhà ra đi, đoạn tuyệt với đời sống sang trọng trong gia đình thì mới khỏi mâu thuẫn với bản thân.

Năm 1896 ông đã có ý đó rồi. Ông viết một bức thư cho bà trong đó ta thấy uẩn khúc của một tâm hồn đa cảm và đáng thương. Thư rằng: “Em Sôphie thân mến, từ lâu rồi, anh đau khổ vì sự bất hòa hợp giữa đời sống và những tư tưởng của anh. Anh không thể bắt em và các con thay đổi đời sống cùng thói quen từ trước tới nay, mà anh lại cũng không từ bỏ em và các con được, vì anh nghĩ rằng sự xa cách của anh sẽ làm cho các con nhỏ dại mất chút ảnh hưởng nhỏ nhặt của cha chúng, mà em và chúng sẽ đau lòng lắm. Nhưng anh không thể tiếp tục sống như anh đã sống trong mười sáu năm nay lúc thì chống cự lại với em và các con, làm mọi người bực mình, thì lúc chịu thua những ảnh hưởng và quyến rũ hàng ngày ở chung quanh anh. Bây giờ anh đã quyết định làm cái việc anh muốn làm từ lâu, là bỏ ra đi... Người Ấn Độ, tới sáu chục tuổi, bỏ nhà vào rừng ở, người nào tu hành và già cũng muốn tặng những năm cuối cùng cho Chúa, mà từ bỏ những trò đùa cợt, những thú vui ồn ào ở đời đi, thì anh cũng vậy, nay đã tới tuổi bảy chục, chỉ thiết tha mong được yên tĩnh một mình và nếu không thể có một sự hòa hợp hoàn toàn thì ít nhất cũng ráng tránh những mâu thuẫn quá chướng giữa đời sống và lương tâm. Nếu anh tuyên bố trước rồi bỏ nhà ra đi thì em và các con sẽ năn nỉ, đưa lý lẽ này lý lẽ nọ và anh nhu nhược sẽ không thực hành được quyết định của anh, mà nó phải thực hành cho kỳ được. Vậy xin em và các con tha thứ cho anh nếu hành vi của anh làm cả nhà buồn. Và nhất là em, em Sophie, để cho anh đi, em ạ, đừng tìm kiếm anh, đừng trách anh. Cái việc anh bỏ em ở lại, không phải là tại anh oán hận gì em đâu... Anh biết rằng em không thể, em không thể nhìn thấy và tư tưởng như anh được, cho nên em không thể thay đổi đời sống và hy sinh cho một cái mà em không nhận là đúng. Cho nên anh không trách em, trái lại, nhớ tới ba mươi năm đằng đẵng sống chung với nhau anh thấy yêu em và biết ơn em lắm...”

Nhưng rồi ông cũng không nỡ bỏ vợ con ra đi. Bức thư viết xong, ông nhét vào trong một hộc tủ với hàng chữ này: “Sau khi tôi chết đưa lại cho nhà tôi”. Ông nhu nhược, cũng như phần đông chúng ta. Mà chúng ta mến ông cũng vì lẽ đó. Ông là một thiên tài thật, nhưng không phải là một thiên tài kiêu căng, đứng trên cao mà ngó xuống thiên hạ ở dưới chân. Ông chỉ là người anh, người bạn của chúng ta như ông thường tự xưng trong nhiều bức thư của ông.

Mười lăm năm trước đã có lần ông thú:

“Tôi xấu hổ đến chết thôi, tôi tội lỗi, tôi đáng khinh bỉ... Tôi không làm được một phần ngàn những việc phải làm, và nghĩ tới tôi mắc cỡ, vì tôi muốn làm lắm mà không được”.

Bây giờ ông lại nói:

“Tôi là một người hoàn toàn nhu nhược. Có những thói quen xấu xa. Tôi muốn phụng sự chúa và chân lý mà cứ vấp té hoài. Tôi là... một kẻ đáng thương, nhưng thành thực, đã luôn luôn và hiện bây giờ muốn thành một người tốt”.

***

Nhưng tới lúc ông không còn thể sống chung với vợ con được nữa. Một việc nhỏ xảy ra. Nửa đêm hôm đó ông còn thao thức, thấy bà rón rén lại mở hộc giấy má của ông, không biết nghi ngờ, tìm kiếm cái gì. Ông bất bình lắm, nhưng làm thinh, năm giờ sáng trốn đi với bác sĩ Makavitki, sau khi viết ít hàng từ biệt vợ con. Hôm đó là ngày 28 thăng 10 năm 1910.

Sáu giờ chiều, ông tới tu viện Optina, nghỉ đêm tại đó sáng dậy viết một bài đả đảo luật tử hình, rồi lại đi, tối tới tu viện Chamordino. Hôm sau, ông vào trong xóm kiếm nhà để mướn, chiều, cô Alexandra mà ông đã cho biết ý định tới cho hay rằng có người theo dò và ở đó không yên. Thế là nửa đêm hai cha con với viên y sĩ rời Chamorđino, tới ga Koselsk.

Xe lửa tới ga Astaporo thì ông đau, viên y sĩ và cô Alexandra đỡ ông xuống nghỉ tạm ở nhà viên xếp ga. Trời lạnh. Bệnh nặng: Tích huyết ở phổi. Bà tìm tới được, hối hận, khóc lóc, nhưng y sĩ không dám cho vào, sợ ông uất lên mà nguy đến tính mạng. Giáo hội hay tin, phái một tu sĩ lại làm lành với ông, người nhà cũng không dám cho vào. Sau ít ngày hấp hối, ông quy tiên (20-11-1910). Thế là ông mãn nguyện.

Trên giường bệnh, lời cuối cùng ông thốt ra được dân tộc Nga ghi lại như lời của một vị thánh:

“Trên thế giới có hàng triệu người đau khổ mà sao bà con chỉ săn sóc một mình Léon Tolstoi này?”

Tin ông mất bay khắp nơi, chính phủ Nga sợ quần chúng kích thích quá mà làm rối trật tự, bắt phải chôn ông trước ngày đã định và cấm những người ở xa tới đưa đám. Cấm thì cấm, người ta cũng kéo nhau tới và khi linh cữu của ông đi qua thì đám đông, không ai bảo ai, cùng quỳ cả xuống khóc.

Chỉ do tấm lòng thành thực, thành thực nhận tội mình và thành thực cứu vớt nhân loại, mà ông được người đời tôn sùng là một á thánh.

Hết Chương 7: LÉON TOLSTOI
Thông tin sách