Tiểu sử, Hồi ký
Tác giả: Nguyễn Hiến Lê

Gương Danh Nhân

Chương 5: BENJAMIN FRANKLIN

Một ấn công tự học mà thành một nhà khoa học, một nhà lập pháp và một vị thủ lãnh

Một ngày cuối năm 1776, dân chúng thành Ba Lê tụm năm tụm ba ở ngoài đường, hỏi nhau: “ông ấy đã tới chưa?” Ai cũng mong mỏi được trông thấy mặt vĩ nhân đó, một người đã thắng được Thiên Lôi và diệt được cường quyền, một nhà khoa học danh ngang với Newton, một triết gia danh ngang với Voltaire mà đồng thời cũng là một chính khách được khắp châu Mỹ, châu Âu trừ nước Anh ra kính mến như cha, như thầy. Hồi đó dân Paris sống những ngày bi thảm của một chế độ phong kiến đương lúc suy tàn. Vua Louis thập lục bỏ bê việc nước, chỉ ham đi săn và sửa ống khóa. Hoàng hậu thì ngày đêm yến tiệc và nhảy múa với cận thần. Quốc khố rỗng mà dân đói. Cho nên khi dân chúng hay tin một vị thủ lãnh đã chiến đấu cho tự do và độc lập, từ bờ bên kia Đại Tây Dương qua, ai nấy nhao nhao lên dắt díu nhau đi đón rước đầy đường. Nhưng tới buổi tối, có tin cho hay rằng “ông ấy” nghỉ lại một đêm ở Nantes, hôm sau mới tới.

Chiều hôm sau, đám đông ở đường Đại học thấy một chiếc xe ngựa, ngồi trong là một ông già và hai đứa nhỏ. Xe ngừng. Người ta chen lẫn nhau lại coi, có người đàn bà ráng lách vô, rờ cho được vạt áo của ông già.

Và tức thì khắp Paris hay tin: “Ông ấy đã tới”

Y phục của ông già rất giản dị: Một cái áo vải đen, một cái mũ tròn. Vẻ mặt ông phúc hậu, hiền từ, trán rộng, miệng tươi. Năm ấy ông bẩy mươi mốt tuổt. Người ta gọi ông là “ông tấn sĩ”. Tên ông là Benjamin Franklin.

***

Vị tấn sĩ đó không có một bằng cấp nào hết. Hồi nhỏ ông được học rất ít, nhưng người như ông không cần cắp sách tới nhà trường lâu năm mà cũng thành vĩ nhân.

Ông sanh ngày 17 tháng giêng năm 1706 ở Boston (Massachusetts). Lúc đó Huê Kỳ còn là một thuộc địa của Anh và gồm nhiều xứ khác nhau rất xa về phong tục dân tình, chính thể.

Cậu Út - vì Benjamin có nghĩa là con út - rất thông minh và tò mò. Ngay từ hồi mới tập nói, cậu đã tập đọc rồi và luôn luôn dò xét, tìm tòi, hỏi han về những điều cậu không hiểu. Ông thân sinh rất cưng cậu, thấy tính tình cậu bướng bỉnh, cũng phải sợ. Bảo cậu lại nhà thờ nghe thuyết giáo, cậu đáp: “Mất thì giờ vô ích”. Bảo cậu tập nghề gia truyền, nghề làm đèn cầy, thì cậu nhăn mặt, chê là mùi đèn cầy hôi lắm, chịu không nổi. Cậu chỉ thích mùi muối biển, suốt ngày ra bờ biển hít gió và ngắm những tàu buồm nhổ neo ra khơi. Cậu mê được du lịch, được biết những chân trời mới. Cậu còn mê một cái nữa là mùi mực in. Cậu thấy nó thơm tho làm sao, và khi nào không ở bờ biển thì cậu lại nhà in của một người anh ruột tên là James, để ngửi những tờ báo mới ở máy in ra.

Và năm mười hai tuổi, cậu xin thôi học, lại tập sự trong nhà in của anh. Cậu học sắp chữ, lên khuôn và chạy máy một cách mau lạ lùng. Cậu làm xong công việc hằng ngày trong khi các thợ khác mới làm chưa được một nửa thành thử có nhiều thì giờ tự học. Cậu gặp sách gì cũng đọc, đọc ngày đọc đêm. Nhờ ở trong nghề in, cậu được quen được với nhiều người làm công trong các tiệm sách. Cậu nhờ họ lấy lén sách về cho cậu đọc ban đêm, rồi sáng hôm sau trả ngay cho chủ khỏi biết. Vì vậy nhiều khi cậu phải thức gần suốt sáng. Cậu không thích tiểu thuyết, chỉ đọc những sách khảo cứu.

Rồi cậu bắt đầu viết. Cậu làm được ít bài thơ gần gần như hạng thơ “con cóc”, mà cũng lén in rồi đem bán. Tuổi trẻ thường ngông như vậy. Nhưng cậu hơn người ở chỗ sớm biết rằng thơ không phải là chỗ sở trường của mình, nên bỏ ngay, để viết văn xuôi.

Anh cậu không trả công cho cậu, chỉ thỉnh thoảng đưa cậu ít tiền tiêu vặt. Được đồng nào, cậu đem mua sách hết, đọc xong cuốn nào rồi thì đem bán lại để mua cuốn khác.

Cậu ham học tới nỗi cho sự ăn uống là một bó buộc phiền phức. Hồi mười lăm mười sáu tuổi, được đọc cuốn sách về sự ăn chay, bèn ăn chay để đỡ tốn tiền và thì giờ. Cậu năn nỉ người anh trả cho cậu một số tiền công bằng nửa các thợ khác thôi, mặc dầu cậu làm việc gấp đôi họ. Người anh bằng lòng, cậu dùng nửa số tiền đó để ăn, còn một nửa để mua sách.

***

Hồi đó, ông chủ nhà in là một nhân vật quan trọng vì thường thường chủ nhà in vừa làm chủ bút một tờ báo, vừa làm giám đốc một nhà xuất bản.

Cậu mới mười lăm tuổi, đã thấy tờ New England Courant của ông anh, đọc cũng chán như mọi tờ khác. Cậu quyết tâm làm cho nó vui lên, muốn vậy cậu phải mài cây viết. Cậu nhận thấy rằng dụng ngữ của cậu rất nghèo nàn, và cậu tìm ra một cách rất mới mẻ để luyện cho nó thành phong phú: viết những bài tùy bút bằng văn vần để tự bó buộc mình tìm chữ cho đúng, diễn tả cho gọn gàng và tinh xác; viết xong rồi thì đổi văn vần ra văn xuôi. Nhưng Franklin còn ngại một điều là tuổi nhỏ quá, ký tên thật thì ông anh không cho đăng, nên phải ký tên khác và đổi nét chữ, rồi đợi ban đêm, khi thợ đã về hết mới lén đút bài vô khe cửa.

Lần đầu tiên, cậu về nhà không ngủ được, trằn trọc nghĩ không biết bài báo của mình ra sao. Sau này, chép lại việc đó Franklin viết:

“Anh em trong nhà in đọc bài của tôi, phê bình nó và tôi nghe được hết, khoái vô cùng vì thấy họ khen tác giả rồi đoán tên tác giả, và những người được họ kể ra đều có tiếng là học rộng và ngay thẳng”

Từ đó, tuần nào, tờ Courant cũng có một bài châm biếm các nhà tai mắt Boston, từ các mục sư giả đạo đức tới các nhà mô phạm và các con buôn. Báo bán rất chạy nhưng hồi ấy làm gì đã có tự do ngôn luận, nên chủ báo, tức James Franklin bị nhốt khám. Ông biết em ông là tác giả nhũng bài đó, nhưng không khai ra, và để cho Benjamin thay ông quản lý tờ báo. Chính vụ bắt bớ, tra khảo đó để lại một ấn tượng sâu trong tâm hồn Benjamin mà sau này ông hăng hái chiến đấu cho tự do ngôn luận.

Khi James ở khám ra, hai anh em có điều xích mích với nhau, và cậu em nhất định xa quê, lại Nữu ước mưu sinh. Nhờ thạo nghề in, cậu kiếm việc được dễ dàng, nhưng cũng vì thạo quá, lại được lòng nhiều bạn bè trong nhà in, nên cậu bị chủ ghen.

Năm 19 tuổi Benjamin trôi giạt qua Luân Đôn, cùng sống về nghề in, làm quen được với ít nhà trí thức và nhất là được thấy đời sống ở đó văn minh gấp mấy đời sống ở Boston nên có ý định sau này sẽ cải thiện sự sinh hoạt ở quê hương.

Ở Luân Đôn ba năm rồi trở về Boston lại làm nghề in nữa. Kỹ thuật một ngày một tiến. Benjamin được khen là tài năng, kiên nhẫn, nhã nhặn và ngay thẳng. Năm hai mươi bốn tuổi, ông cưới cô Deborah Read. Deborah thất học, không hiểu được công việc cùng lý tưởng của chông, nhưng rất ngưỡng mộ kính mến chồng, chăm chỉ săn sóc nhà cửa nhờ vậy Franklin vui vẻ lo việc xã hội.

Lúc đó ông đã có một nhân cách khá cao và tự tìm cho mình được một triết lý.

Về công tu luyện của ông, chắc bạn đã được biết ông có một cuốn sổ tay chia làm mười ba tuần, mỗi tuần để luyện một đức mà ông tự xét là còn thiếu. Mười ba đức đó là: Điều độ, Yên lặng, Thứ tự, Quả quyết, Thanh đạm, Cần mẫn, Thành thực, Công bằng, Ôn hòa, Sạch sẽ, Bình tĩnh, Trong sạch và Khiêm tốn. Mỗi lần có một hành động nào trái với nhưng đức đó thì ông đánh một dấu đen trong sổ.

Ông định hết mười ba tuần luyện hết mười ba đức; rồi lại luyện trở lại từ đức đầu, như vậy một năm năm mươi hai tuần sẽ luyện được bốn lần mỗi đức. Ông nói:

“Tôi cũng như người phải rẫy cỏ trong một khu vườn để trồng trọt, không phải rẫy một lần mà hết, phải chia làm nhiều khu, rẫy khu này qua khu khác... Như vậy tôi hy vọng sẽ được cái vui thấy đức của tôi tăng tiến lên mà trong cuốn sổ tay lần lần những vết đen sẽ thưa đi và sau cũng mỗi trang giấy sẽ hoàn toàn sạch, không còn một vết.”

Tất nhiên là ông không theo phương pháp đó được tới cùng, nhưng nhân cách của ông được nhiều người trọng một phần cũng nhờ nó.

Ông lại vạch rõ mục đích trong đời ông là gây hạnh phúc cho nhân loại. Tư tưởng của ông rất thực tế, có thể làm tiêu biểu cho tư tưởng của dân tộc Huê Kỳ. Ông cho rằng hễ việc gì có ích thì nên làm, thuyết nào vô ích thì bỏ; hễ có ích thì là thiện, vô ích thì là ác. Chẳng hạn ta không được dối, ăn cắp, nói xấu người, hà hiếp người không phải vì các thánh nhân khuyên như vậy hoặc nền luân lý dạy ta vậy, mà chỉ vì nhưng hành vi đó không có lợi gì cho ta cả. Theo ông thì chân lý, lòng thành thực; liêm chính là những đặc tính quan trọng nhất trong đời sống giữa xã hội. Cơ hồ ông không nhắc đến đức nhân. Một thuyết như vậy không được cao siêu, nhưng rất hợp với hạng trung nhân, nên đã ảnh hưởng nhiều đến người đương thời.

Ông buồn rầu nhận thấy rằng đồng bào ông không có sách, báo để đọc, trình độ hiểu biết rất thấp. Trong nước chỉ có nhưng tờ báo thông tin, mỗi tuần ra một số, đọc độ nửa giờ là hết.

Ông nảy ra ý in những niên lịch, tháng thư để truyền bá những điều cần biết căn bản trong quân chúng. Ông soạn lấy niên lịch, viết đủ mục. Cách sống, cách làm việc, tôn giáo, hạnh phúc, kỹ nghệ, canh nông, thương mại, việc nhà, việc xã hội... ông không có ý “làm văn”, ông còn rất ghét “làm văn” nhân, chỉ muốn ghi một cách sáng sủa, gọn gàng hết thảy những ý nghĩ dồn dập trong đầu ông thôi. Và ông đặt tên cho niên lịch là Poor Richard.

Cuốn Poor Richard đầu tiên xuất bản năm 1773, được hoan nghênh nhiệt liệt vì hạng bình dân tìm ở trong đó được nhiều điều hữu ích về thời tiết, phép xử thế, cách làm ăn, nhiều truyện ngộ nghĩnh để tiêu khiển, nhiều câu vè hóm hỉnh để ngâm nga. Họ thích nhất nhưng lời khuyên thực tế trong sách. Trong gia đình nào, người ta cũng nghe thấy mỗi ngày hàng chục lần những câu như vầy:

Poor Richard bảo:

“Siêng năng cày cuốc đúng thời.

Tới mùa lúa chín của Trời đầy kho”

Hoặc:

Poor Richard bảo: “không gì mau khô bằng nước mắt”. Lời lẽ tuy mộc mạc nhưng nhiều câu ý thâm trầm lại dễ nhớ, quần chúng ai cũng thuộc, sau thành tục ngữ.

- Chưa có nhà để cưới vợ thì đừng cưới vợ.

- Người nghèo thì thiếu, kẻ ăn mày thì không có gì; người giàu thì dư, không ai có vừa đủ.

- Ngủ sớm, dậy sớm thì khỏe mạnh, giàu có và sáng suốt.

- Yêu cho roi cho vọt.

- Muốn được vừa lòng thì nhìn xuống những người nghèo hơn mình, đừng nhìn lên những người giàu hơn mình.

Phần nhiều ý trong những câu đó là mượn của người khác; nhưng cũng có những câu ý mới mẻ như:

- Một cái bao rỗng không đứng được

- Cáo ngủ không bắt được gà

- Ba lần dời nhà tai hại bằng một lần hỏa hoạn.

Niên lịch Poor Richard xuất bản trong hai mươi lăm năm, mỗi năm bán được mười ngàn cuốn mà dân số Huê Kỳ hồi đó có một triệu, tính ra cứ 100 người có một người mua.

Trai gái, già trẻ, truyền tay nhau đọc tới rách nát. Trẻ thì đọc những truyện vui của trẻ, già thì đọc những mục làm ăn của già, thanh niên nam nữ thì đọc những bài thơ tình mộc mạc cho nhau nghe. Có mục như mục Làm giàu được dịch ra mười thứ tiếng, kể cả tiếng Trung Hoa.

Nhưng chí hướng của Franklin không phải chỉ là truyền bá học thức trong dân gian mà thôi ông còn nhắm một mực đích cao hơn nữa: Sự thống nhất Huê Kỳ.

***

Đầu thế kỷ 19, Huê Kỳ gồm 13 thuộc địa của Anh Hoàng. Mỗi thuộc địa có một chính phủ riêng, có phong tục riêng, luật pháp riêng. Vì chánh quốc ở xa, nên sự cai trị của Anh Hoàng chỉ có danh chứ không có thực. Sự thống nhất rất khó khăn. Nhưng Franklin tin rằng thực hành được nhờ sự đồng ngôn ngữ của những thuộc địa đó.

Bước đầu của ông là phải làm sao cho sách báo được truyền bà dễ dàng khắp xứ chứ không phải chỉ trong khu vực mỗi thuộc địa một. Muốn vậy phải cải thiện phương tiện truyền tin, nghĩa là tổ chức lại sở Bưu Điện.

Hồi đó, đường giao thông rất hiếm mà sở Bưu Điện chưa dùng cò như ngày nay. Thư gửi đi có khi hàng tháng mới tới chỗ, người nhận thư phải trả số tiền quá đáng, nên vạn bất đắc dĩ người ta mới liên lạc với nhau bằng thư từ. Đã vậy lại còn cái nạn dìm báo: viên chủ báo của họ thì gửi đi không tốn tiền còn báo của người thì để nằm ỳ ra đó.

Franklin quyết thay đổi tình trạng, cho nên mặc dầu châm ngôn của ông là “không bao giờ xin, không bao giờ từ chối” mà lần này ông cũng phải vận động bên Anh xin chức chủ sự Bưu Điện Philadelphia. Rồi không đợi trả lời, ông bỏ ra hai tháng rưỡi nghiên cứu tổ chức Bưu điện. Một khi nhậm chức, ông liền cải thiện cho thư từ gởi đi mau hơn, số tiền người nhận thư phải trả được nhẹ hơn, phương tiện giao thông dễ dàng hơn, nhất là cho mọi báo chí được quyền ngang nhau trong việc phát hành. Ông không tư vị với tờ nào, ngay với tờ Gazette của ông cũng vậy. Nhờ làm việc đắc lực, ông được thăng chức Tổng giám đốc Bưu Điện cho 13 thuộc địa, và sau bốn năm làm việc không công (1753-1757), ông xin thôi việc vì mục đích của ông đã đạt. Ông tiến qua giai đoạn thứ ba, xin làm bí thư trong hội Lập pháp của Pennsylvania.

***

Vào hội Lập pháp, ông dùng uy quyền của ông và tờ Gazette để đòi cho được bốn sự cải cách lớn: tổ chức lại công việc cứu hỏa và cơ quan cảnh sát, lập một hội khoa học và một hàn lâm viện.

Nhờ ông hô hào trên báo, chính quyền phải mua những máy bơm mới, huấn luyện nhân viên cứu hỏa, hỏa hoạn bớt tai hại.

Công việc cảnh sát từ trước do tư nhân thay phiên nhau đảm nhiệm nhưng tư nhân thường mượn tụi đầu trộm đuôi cướp làm thay cho mình. Bọn này chẳng giữ gìn an ninh trật tự gì hết, chỉ say be bét rồi ăn cắp, ức hiếp dân. Ông đòi thành lập một sở cảnh sát mà nhân viên do chính phủ đào luyện và trả lương.

Ông lại sáng lập Đại học đường Pennsylvania thay đổi chương trình học: không dùng tiếng La Tinh mà dùng tiếng Anh làm chuyển ngữ, dạy những môn thiết thực, ích lợi như sử ký, địa lý, toán học, khoa học, chú trọng đến sự dạy nghề và bỏ môn thần học đề nền giáo dục khỏi có tính cách tôn giáo. Những cải cách đó, nay ta cho là tầm thường, nhưng hai thế kỷ trước đã làm náo động dư luận, và mãi tới đầu thế kỷ 19, các nước ở Âu châu mới theo kịp ông được, đủ biết tinh thần ông sáng suốt và tiến trước thời đại tới bực nào.

Lúc đó danh ông đã vang khắp Huê Kỳ và Anh, mà ông vẫn sống một đời sống giản dị, vẫn bận những áo thợ thuyền, đẩy xe một bánh chở đầy báo đi phát hành trong tỉnh, và làm mọi việc lặt vặt trong nhà tới chai tay. Bà vợ thấy nhà cửa đã phong lưu, chồng được thiên hạ trọng vọng, mua cho chồng một cái chén kiểu và một cái muỗng bạc. Đó là nhưng món xa xỉ đầu tiên trong đời ông. Ông hỏi bà, bà đáp: “Em thấy mình đáng dùng những thứ đó, nên mua về”. Còn bản thân bà thì vẫn dùng những chén muỗng thường. Ông cảm động tặng bà một bài hát trong đó kín đáo giấu tên bà, gọi bà là nàng Joan.

Ưu tư có chất nặng trong lòng tôi thì nàng chia xẻ với tôi một phần lớn

Để cho tôi không bao giờ phải lảo đảo

Và khi vận may tới thì nỗi vui của vợ tôi

Làm nỗi vui của tôi tăng lên gấp bội.

Năm 1945 lúc Franklin còn ở hội Lập pháp, có tin đồn rằng Pháp muốn tấn công biên giới phía tây Pennsylvania. Ta nên nhớ ở Bắc Mỹ thời đó, Anh Pháp thường tranh giành nhau đất đai, nên tình thế ít khi được yên ổn. Franklin lo lắng vì thấy dân chúng hay tin đó mà vẫn thản nhiên, ý kiến chia rẽ, không ai muốn bảo vệ xứ sở. Ông viết một bài văn hùng hồn, nhan đề là Phần Trình (Sự thực không giấu giếm) để hô hào đồng bào đoàn kết và đề nghị một chương trình chống giặc.

Rồi đích thân ông đi hòa giải các đảng phái, quyên tiền mua súng, đắp lũy. Người ta tặng ông chức Đại tá, ông từ chối, nhường cho người khác. Sau chiến tranh không xảy ra vì Anh Pháp ký kết với nhau hòa ước Aix la Chapene. Nhưng hòa ước đó chỉ tạm thời: năm 1754 nguy cơ chiến tranh lại hiện. Lần này ông cổ động cho tất cả 13 thuộc địa thống nhất thành một khối để chống ngoại xâm: do đó văn hào Pháp Balzac tặng ông mỹ hiệu là “người sáng chế ra Hiệp chủng quốc”. Theo đề nghị của ông các thuộc địa vẫn giữ hiến pháp, luật lệ của mình, chỉ góp tiền bạc với chính phủ trung ương và gởi đại biểu lại chính phủ đó. Đề nghị đó được chính phủ Anh xem xét nhưng rồi cũng không thực hành vì ý kiến chánh quốc cùng thuộc địa nhiều chỗ bất đồng.

Khi chiến tranh nổ ra, ông đã năm chục tuổi, đầu quân, lãnh những công tác binh vụ và tuyên truyền để giữ tinh thần quân đội.

***

Cách đây hai ba chục năm, các sách giáo khoa ban tiểu học thường chép hai chuyện về Franklin: truyện ông dốc hết tiền trong túi ra đề mua một cái còi mà ông mê, và truyện ông chơi diều với trẻ con ở ngoài đồng mà phát minh ra được cây thu lôi.

Phát minh đó làm cho danh ông vang khắp thế giới và cho ta thấy cái đa tài của ông.

Ông rất tò mò, luôn luôn tìm hiểu vũ trụ, mặc dầu công việc rất bề bộn. Khoảng 1743, ông sáng lập một hội khoa học đầu tiên ở Mỹ, tức hội khoa học Philadelphia. Hội viên gồm một y sĩ, một nhà thực vật học, một nhà toán học, một nhà địa lý học, và một nhà thiên nhiên học. Ông tạm giữ chức thư ký để “đợi có người xứng đáng hơn”.

Ông nghiên cứu về mọi lĩnh vực: y học, sinh lý, ánh sáng, địa chất, loài nhện, luồng nước biển, hơi trong đầm, khí cầu, gió bão...

Ông kiếm được nhiều điều mới mẻ về sức nóng. Chẳng hạn ông đạt nhiều miếng vải, mỗi miếng một màu trên tuyết, và nghiệm thấy rằng tuyết ở dưới miếng vải đen tan mau hơn ở dưới miếng vải đỏ, miếng vải trắng. Ông kết luận rằng màu đen hút sức nóng nhiều nhất, màu trắng ít nhất.

Bao giờ ông cũng tỏ ra nhũn nhặn và có tinh thần rất khoa học, không kết luận một cách võ đoán, mà tỏ vẻ nghi ngờ, bảo “có lẽ như vậy” hoặc “để sau này xét lại xem”, hoặc “có thể tìm được nguyên do đúng hơn”.

Trong khi thí nghiệm, ông không giấu giếm gì ai hết, không sợ người khác tìm ra được trước mình; trái lại còn mời nhiều bạn bè lại coi có thấy ông sơ sót chỗ nào thì chỉ bảo giùm.

Và khi phát minh một dụng cụ, máy móc gì mới, ông cũng không thèm xin chứng thư để được độc quyền chế tạo. Chẳng hạn khi ông chế được một kiểu lò mới, vừa tiết kiệm được than củi, vừa có lợi là làm cho không khí chung quanh ấm đều (chứ không chỉ riêng nóng ở cửa lò mà lạnh ở chỗ khác) viên Thống Đốc Thomas vừa ý lắm, tặng ông một chứng thư, ông từ chối, bảo:

“Chúng ta được hưởng biết bao cái lợi do những phát minh của người khác; nếu may mắn có cơ hội phát minh được cái gì để đền đáp lại, thì phải cho mọi người hưởng không, đừng giữ làm riêng của mình”.

Lòng ông thực quảng đại, nhưng hành vi đó không có lợi cho ai, vì một người Anh lợi dụng chỗ đó, ăn cắp kiểu của ông, xin chứng thư và được độc quyền chế tạo lò để bán thực đắt. Biết vậy, ông không hề phản kháng, cũng chẳng mỉa mai kẻ đó, chỉ bảo “để cho hắn kiếm ít tiền sinh nhai”.

Phát minh quan trọng nhất của ông là cột thu lôi, ông cũng tặng không nó cho nhân loại.

Từ thời thượng cổ, trên hai ngàn năm trước, loài người chà xát hổ phách đã kiếm ra được điện, mặc dầu hiện nay người ta vẫn chưa biết điện là gì. Thời Franklin đã xuất hiện những máy nhà phát tia điện và làm cháy những ống điện tựa như ống nê ông ngày nay, nhưng chưa ai giảng được tại sao điện phát ra.

Franklin cũng ham mê nghiên cứu về điện như các nhà bác học khác và đã đặt ra hai chữ âm và dương để chỉ hai điện cực.

Mùa hè năm 1749, trong một trận bão, nhìn chớp nhoáng trên trời ông nẩy ra một ý kỳ dị, cho sấm chớp do điện trong những đám mây mà phát ra. Ông bảo mỗi đám mây có chứa ít nhiều điện. Khi một đám mây chứa nhiều điện “gặp một đám mây hoặc một vật nào khác chứa ít điện, thì chúng truyền điện cho nhau mà gây ra sấm chớp. Ông viết thư bày tỏ ý kiến đó với một nhà bác học là Collinson. Ông này chuyển lại cho Hội Khoa học Luân Đôn. Các nhà bác học Luân Đôn giễu ông. Nhưng Thomas Francois d”Alibard ở Pháp được đọc bản dịch bức thư đó, bèn thí nghiệm bằng một bình nhỏ chứa điện, và một sợi dây chì, thấy đúng, tuyên bố kết quả với Hàn lâm vẫn Khoa học Ba Lê, thành thử Franklin nổi danh ở Châu Âu, trong khi ở xứ sở ông, chưa ai biết phát minh của ông.

Đồng thời, ông cũng thí nghiệm ở Philadelphia bằng một chiếc diều. Ông đem nó thả ở ngoài đồng, trong một cơn dông, chỉ dắt theo cậu William, con ông, lúc đó đã hai mươi mốt tuổi, chứ không phải là còn con nít như các sách giáo khoa thường chép. Ông thí nghiệm lén, sợ người ta biết mà cười ông. Ở đầu chiếc diều, ông cột một sợi dây chì nhọn. Cuối sợi dây diều bằng gai, ông nối thêm một miếng lụa làm chất cách điện, và giữa dây diều với miếng lụa đó là một cái chìa khóa. Mưa làm ướt dây diều, nhưng miếng lụa mà ông giữ ở trong nhà thì vẫn khô. Lấy ngón tay, ông làm bật lửa ở cái chìa khóa. Vậy thuyết của ông đã đúng, sấm chớp do điện trên trời thật. Ít lâu ông phát minh được cây thu lôi.

Trong niên lịch Poor Richard, ông tuyên bổ kết quả, viết: “Trời đã thương loài người, và vui lòng cho chúng ta tìm thấy cách đề phòng nhà cửa khỏi bị sét đánh”.

Dân chúng Mỹ thời đó vẫn tin rằng sấm sét là hình phạt của Trời để trị những kẻ gian ác, nên có kẻ lo ngại cho ông sẽ bị giáng họa vì làm cho hình phạt đó hóa vô hiệu. Ông mỉm cười, cứ dựng những cây thu lôi ở nhà ông, ở Hàn lâm viện Phaladephia và ở nhiều nhà khác. Rốt cuộc mọi người đều theo ông và Philadelphia thành một tỉnh có nhiều cây thu lôi nhất đương thời.

Ở Pháp, người ta áp dụng ngay phát minh của ông. Còn ở Anh, có hai phe, một phe chủ trương dùng đầu nhọn, một phe chủ trương dùng đầu tròn để thu lôi. Sau cuộc cãi vã đó nhuộm màu sắc chính trị. Anh Hoàng George III nhất định dùng đầu tròn. Nhà bác học John Pringle phản đối. Nhà vua lấy uy quyền bắt buộc ông phải đổi ý. Ông cứng cỏi đáp: “Luật tạo hóa không thề chiều ý nhà vua được” rồi từ chức ngự y và chức chủ tịch hội Khoa học Hoàng gia.

Nhờ công lao của ông với xứ sở, năm 1750, ông được bầu làm nghị viên hội Lập pháp và chẳng bao lâu ông thành hội viên có uy thế, được tín nhiệm nhất. Ông đem toàn lực ra chiến đấu cho Tự do và Dân chủ.

Hồi đó xứ Pennsylvania là lãnh thổ của một quý tộc mà ông tổ là William Penn đã được Anh Hoàng Charles đệ nhị nhường cho để trừ nợ từ năm 1681. Mới đầu William Penn để cho dân chúng nhiều quyền rộng rãi, nhưng qua đầu thế kỷ 18, sau khi ông mất, con cháu ông bỏ chính sách đó, lần lần tỏ ra độc tài. Họ lại sống cách biệt ở bên Anh, để một bọn tay sai cai trị Pennsylvania, nên Frankllin bất bình, nhiều lần tỏ ý không chịu lệ thuộc họ mà chỉ là thần dân của Anh Hoàng thôi.

Khoảng giữa thế kỷ 18, vì những sự gây hấn của Pháp và dân da đỏ, Pennsylvania phải tự vệ, mua khí giới, đắp thành luỹ, mà tiền thì không có. Hội Lập pháp mấy lần đề nghị đánh thuế những đất đai mà họ Penn giữ làm của riêng, bất khả xâm phạm, song lần nào cũng bị bác bỏ. Hội bèn cử Franklin qua Anh điều đình trực tiếp với họ Penn.

Lúc đó ông đã là một danh nhân của châu Mỹ được giới trí thức Anh rất trọng vọng, được trường Đại học Sĩ Andrews và trường Đại học Oxford tặng chức Tấn sĩ Luật khoa, vậy mà họ Penn vẫn khinh khỉnh với ông. Ông kiên nhẫn thương thuyết trong năm năm, tỏ tinh thần nhã nhặn và hiểu biết, rốt cuộc Penn phải nhượng bộ để hội Lập pháp đánh thuế vào những đất đai riêng, với điều kiện là đánh “một cách vừa phải thôi”.

Thắng lợi tới, Hội Lập pháp theo ước nguyện của dân chúng, muốn tiến một bước nữa, năm 1764 lại cử Franklin qua Anh xin Anh Hoàng cho Pennsylvania được coi là thuộc địa của Anh, chứ không phải là một lãnh thố của một họ nữa.

Nhưng đầu năm sau, Chính phủ Anh ra một đạo luật bắt các thuộc địa ở Huê Kỳ phải đóng thuế cho chánh quốc, bằng cách mua cò do chánh quốc phát.

Lần đầu tiên, các thuộc địa đoàn kết nhau đề phản đối. Dân chúng chẳng những không mua cò của chánh quốc mà còn xé, đốt đi, lại đánh đập các nhân viên bán cò. Họ tẩy chay hàng hóa Anh, dùng toàn đồ nội hóa.

Franklin hay tin đó, biết cuộc thương thuyết sẽ không có kết quả, muốn về nước. Ông thấy đã tới lúc mà Huê kỳ nên tách khỏi chánh quốc để độc lập rồi.

Chiến tranh bùng nổ giữa Anh và Huê Kỳ. Năm 1776, một hội nghị họp ở Philadelphia, tuyên bố độc lập, ủy ban thảo luận bản tuyên ngôn gồm Thomas Jefferson, Robert Rlivingston và Franklin được đề cử làm sứ thần qua Pháp để thương thuyết xin Pháp giúp đỡ chống lại Anh. Và như trên tôi đã nói, năm 1776, ông tới Ba Lê với hai người cháu nội, một người mười bảy tuổi, một người bảy tuổi.

Ông biết rằng chuyến đi đó rất nguy hiểm; trên Đại Tây Dương, chiến thuyền Anh bắt được ông thì ông sẽ bị xử giảo vì tội “phản quốc”, mà ở Ba Lê cũng không thiếu gì mật thám Anh tìm cách hại ông. Nhưng ông không từ nan, quyết hy sinh cho xứ sở.

Dân chúng Pháp hoan nghênh ông nhiệt liệt, gọi ông là vị “Tấn sĩ đem lại độc lập cho Huê Kỳ”, nhưng triều đình Pháp không niềm nở ngay với ông. Pháp vốn thù Anh, thấy Anh gặp nước khó khăn đó mà mừng thầm, muốn giúp Huê Kỳ để đập Anh một vố cho bỏ ghét; nhưng tin tức ở bên kia Đại Tây Đương đưa qua cho biết quân đội Huê Kỳ do Washington chỉ huy thắng ít mà thua nhiều, nên Pháp còn do dự, sợ nhỡ Anh thắng thì công toi. Vả lại vua Louis Thập lục hiểu dư rằng dân chúng Huê Kỳ chống chế độ quân chủ; nếu bênh vực họ thì có khác chi khuyên dân Pháp lật đổ ngai vàng của mình không?

Franklin biết là sứ mạng khó khăn, nhưng vẫn bình tĩnh và truyền lòng tin quyết thắng cho dân Pháp. Một lần, một người Pháp, mỉa mai bảo ông:

- Thưa ngài Tấn sĩ, tướng Anh Howe đã chiếm Philadelphia rồi, ngài hay không?

Ông đáp:

- Xin lỗi ngài, Philadelphia đã chiếm được Howe chứ.

Một lần khác, chơi cờ với một bà quý phái nọ, ông đùa, cầm quân cờ vua bỏ ra ngoài bàn cờ. Bà nọ phản đối

- Ai lại bỏ vua ra ngoài vậy ! Ông cười: Thưa bà, Ở Huê Kỳ chúng tôi làm vậy đó.

Nhờ tánh vui vẻ, nhũn nhặn của ông, ông được lòng nhiều người và trong lịch sử ngoại giao phương Tây, chưa một vị sứ thần nào được quý mến như ông. Kết quả là Nam tước La Fayette cùng nhiều thanh niên Pháp qua Huê Kỳ giúp quân Cách mạng, và một hiệp ước được ký kết giữa hai Chính phủ.

Chiến tranh kết liễu, Franklin còn ở lại Pháp tới năm 1785 mới hồi hương. Trong thời gian ở Pháp, đã trên bảy chục tuổi mà ông hoạt động hơn một thanh niên. Vừa làm đại sứ, vừa làm tùy viên về thương mại, về hải quân, lại vừa nghiên cứu về khoa học. Ông giao du với các nhà văn và nhà bác học châu Âu và được Hàn lâm viện Khoa học Pháp bầu làm hội viên, một danh vọng đặc biệt chưa người ngoại quốc nào được nhận. Về tới Huê kỳ, ông trình ngay chức Chủ tịch ủy ban Chấp hành Pennsylvania.

***

Năm 1787, mười ba xứ cử đại biểu lại Pennsylvania thảo luận để sửa đổi những điều ước liên hiệp lập từ 1776 và không còn hợp với tình trạng mới.

Franklin đề cử George Washington làm chủ hội, và mặc dầu đã 81 tuổi, ông không bỏ một buổi hội họp nào. Các đại biểu đều phục lòng hăng hái, tin óc minh mẫn, nhất là tánh tình nhũn nhặn của ông. Một lần, giữa hội nghị, sau khi trình bày ý kiến của mình rồi, ông nói thêm:

“Tôi đã sống nhiều, đã từng trải, thấy rằng đã nhiều lần tôi phải thay đổi ý kiến về những vấn đề quan trọng, và những điều mà hồi trước tôi cho là phải thì sau rồi cho là trái. Cho nên càng già tôi càng nghi ngờ sự xét đoán của tôi”.

Ông được mọi người kính mến chính nhờ tinh thần khoáng đạt đó.

Năm 1789, ông đau gan: mà cũng viết tập Tự truyện.

Ông bảo cháu ông chép lại hai bản, một gởi qua Pháp, một gởi qua Anh để nhờ bạn bè chỉ giùm những chỗ sai và sơ sót. Ông chép đến năm 1757 thì bỏ dở.

Tháng tư năm sau, một hôm đương vui vẻ tiếp khách thì ông gọi người con gái của ông, bảo dọn lại giường để ông chết được đàng hoàng, rồi ông lên giường nghỉ. Ông tắt thở, không đau đớn gì cả.

Hay tin ông mất, nhà hùng biện Mirabeau ở Ba lê hô hào Quốc hội Pháp để tang ông ba ngày, nói:

“Nếu Franklin sinh vào thời cổ thì dân chúng tất dựng đền thờ vị thiên tài oai nghiêm đã... ngăn được sấm sét và ngăn được bọn bạo chúa đó rồi. Châu Âu ít nhất cũng phải tỏ tình tưởng nhớ và buồn tiếc bực vĩ nhân đó, người đã hy sinh cho Khoa học và Tự do”.

Sự thực, công của Franklin với Huê Kỳ thì rất lớn, mà với nhân loại thì chỉ có cây thu lôi. Nhưng ông đã lưu một gương cần cù, hy sinh, nhất là khiêm tốn cho muôn thuở.

Hết Chương 5: BENJAMIN FRANKLIN
Thông tin sách