1. Văn minh Champa
1.1 Nguồn gốc và điều kiện
a. Nguồn gốc của văn minh Champa: Cách đây khoảng 5.000 năm, một số cư dân hải đảo trên Thái Bình Dương đã đổ bộ lên vùng đất trung Trung bộ, định cư và lập nên những cư trú cơ sở kinh tế và văn hoá riêng của mình. Dần dần, từ nền văn hoá đá mới, họ sáng tạo ra nghề luyện kim, bấy giờ chủ yếu là rèn sắt, và tạo nên một nền văn hoá sắt sớm mà khảo cổ học gọi là văn hoá Sa Huỳnh (một địa điểm thuộc huyện Đức Phổ - Quãng Ngãi). Cư dân Sa Huỳnh thuộc tiểu chủng Mã Lai - Đa đảo (Malaya - polinésien) sống rải rác trên các châu thổ nhỏ của các sông Thu Bồn, Trà Khúc, Đồng Nai v.v... và các vùng ven núi, ven rừng của đất nam Trung bộ và bắc Nam bộ ngày nay.
Ở đây không có mỏ đồng nhưng lại có một số núi có quặng sắt, do đó công cụ kim loại chủ yếu làm bằng sắt. Người ta tìm được nhiều rùi, dao, kiếm, giáo, lưỡi cuốc sát bên cạnh một số ít mũi tên, đục xoè cân xứng bằng đồng. Người Sa Hùnh cũng đã phát minh ra nghề nông dùng cuốc. Khảo cổ học phát hiện được nhiều lưỡi cuốc, thuổng, liềm bằng sắt.
Nghề làm đồ trang sức đạt trình độ cao Cư dân Sa Huỳnh đã chế tác những chuỗi hạt bằng đá, bằng đồng, bằng mã não, những khuyên tai hai đầu thú đặc sắc. Nghề gốm đã phát triển với việc tạo nên những bát đĩa các loại, bình có đế, vò đựng với các thứ sơn màu vàng, đỏ.
Người Sa Huỳnh có quan niệm riêng về thế giới bên kia thể hiện ở tục chôn người chết. Họ thường đốt xác chết, đổ tro xương vào các vò bằng đất nung cao khoảng 0.60m, đôi khi kèm theo đồ trang sức. Trên đất bắc Nam bộ, vùng châu thổ sông Đồng Nai, do điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn, người nguyên thuỷ đã làm nông nghiệp lúa nước và trồng nhiều cây lương thực khác, gia tăng các loại công cụ, vũ khí.
Những thành tựu nghiên cứu của khảo cổ học đã xác nhận rằng, văn hoá Sa Huỳnh là nguồn gốc của nền văn minh Champa sau này.
b. Điều kiện tự nhiên: Vùng nam Trung bộ, đất gốc của Chăm, đông giáp biển, tây có nhiều núi cao của dải Trường Sơn. Các đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định... thường không rộng (khoảng từ 1200km2 - 1500km2), ít màu mỡ lại xen đất chân núi, khí hậu ôn hoà, mát quanh năm nhưng độ ẩm kém, mưa nhiều nhưng thất thường. Đất nhiều núi (giáp Tây Nguyên) tài nguyên khoáng sản không nhiêu, rừng bao la có nhiều lâm sản quý từ gỗ quý, hương liệu, trầm hương đến tre trúc và các loại động vật quý hiếm khác nhau như voi, tê ngưu, hươu nai... Vùng biển dài, có nhiều hải đảo như quần đảo Hoàng Sa với nhiều sản vật quý, đặc sắc như san hô, yến sào, các loại cá biển. Bờ biển có nhiều cửa thuận lợi cho thuyền bè ra vào buôn bán, trao đổi hay dong buồm đi đến các nước xung quanh.
c. Điều kiện kinh tế: Trên cơ sở các thành tựu đạt được ở thời Sa Huỳnh, cư dân ở đây mở rộng và phát triển nghề nông trồng lúa, dùng cuố. Họ đã biết trồng hai vụ lúa, như sách lịch sử của Trung Quốc ghi: bạch điền trồng lúa mùa, xích điền trồng lúa chiêm. Tuy nhiên, ruộng ít, làm lụng vất vả. Cư dân địa phương - thường gọi là Chăm cổ (hay Chàm cổ) phải trồng thêm kê, vừng, đậu, làm nghề đánh cá biển, vào rừng đánh bắt, hái lượm lâm sản quý, chăn nuôi voi, trâu, bò, gà lợn.
Kỹ thuật luyện sắt phát triển. Bên cạnh các công cụ sản xuất bằng sắt, có nhiều vũ khí sắt. Các nghề dệt vải, làm gốm, làm đồ trang sức cũng ngày càng phát triển hơn.
Cuộc sống đi dần vào thế ổn định và sự phân hoá xã hội cũng ngày càng tăng lên. Số lượng cư dân đông lên và bước đầu có quan hệ giữa vùng này, vùng khác. Hình thành những bộ lạc lớn, trong đó nổi lên hai bộ lạc Cau và Dừa ở hai đầu Nam, Bắc.
1.2 Thành tựu chính trị, xã hội
a. Nhà nước ra đời: Vào cuối thế kỷ I TCN, vùng đất Bình, Trị, Thiên, Nam - Ngãi ngày nay nằm dưới chế độ thống trị của nhà Hán và là một phần của quận Nhật Nam, mang tên Tượng Lâm. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 SCN đã ảnh hưởng to lớn đến nhân dân Tượng Lâm và biến thành một định hướng cho cuộc đấu tranh giành tự do của họ. Năm 100 SCN hàng ngàn nhân dân Tượng Lâm nổi dậy "đốt phá chùa công và dinh thự" của bọn quan lại đô hộ. Không lâu sau, năm 137, nhân dân Tượng Lâm lại nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Khu Liên (vốn là danh từ chung chỉ vị tù trưởng hay vua). Thứ sử Giao Chỉ đem quân Cửu Chân và Giao Chỉ đi đánh nhưng quân sĩ địa phương đã quay giáo chống lại bộ đo hộ. Chính quyền nhà Hán rất lúng túng, lực lượng của chúng ở Nhật Nam không đàn áp nổi nghĩa quân. Các thứ sử Giao Chỉ, thái thú Cửu Chân bị gọi về nước và thay bằng những tên khác quỷ quyệt và nhiều kinh nghiệm hơn. Bọn này đã dùng của cải mua chuộc các tù trưởng, dùng mưu mẹo lừa phỉnh họ và cuối cùng dẹp yên được cuộc nổi dậy. Có lẽ, trong những năm sau đó, để có được một lực lượng đông đảo hơn, hai bộ lạc Cau và Dừa đã hoà hợp, liên kết nhau lại. Cuộc đấu tranh chống đô hộ Hán lại được tiếp tục. Vào cuối thế kỷ II, nhân triều Hán suy sụp, nhân dân Giao Chỉ, Cửu Chân liên tục nổi dậy đấu tranh, các tù trưởng Tượng Lâm lại kêu gọi nhân dân khởi nghĩa. Vào khoảng năm 190 - 192, cuộc khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi. Tượng Lâm trở thành một nước độc lập mà sử Trung Quốc xưa gọi là nước Lâm ấp. Nhà nước ra đời. Vị vua đầu tiên là Xơri Mara. Tấm bia ở Võ Cạnh (Nha Trang) dựng vào cuối thế kỷ II cũng ghi lại tên vị vua đầu tiên đó.
Nhà nước Lâm ấp ra đời đánh dấu một sự biến chuyển lớn của xã hội Tượng Lâm, mở đầu thời đại văn minh.
Sau nhiều thế kỷ tồn tại và phát triển, theo ghi chép của bi kí địa phương vào cuối thế kỷ VI, một vương triều mới được thành lập. Vương triều Gangaragia, chính thức gọi tên nước là Champa. Champa là tên một bông hoa trắng thơm, tên khoa học là Michelia Champacca, vốn được một số tộc người ở ấn Độ đặt tên cho tiểu quốc của mình. Cư dân Champa từ đây được gọi chung là người Chăm (hay người Chiêm Thành).
b. Thể chế chính trị: Cũng như ở các nước phương Đông khác, nhà nước Champa theo thể chế quân chủ chuyên chế. Vua nắm mọi quyền hành từ chính trị đến kinh tế, tôn giáo. Chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá ấn Độ, các vương hiệu đều có chữ Varman (chẳng hạn như Harivarman, Sinhavarman...). Bề tôi thấy vua thì phải quỳ và vái trước khi thưa. Chỉ có vua mới được ở nhà có lầu cao, giường nằm, mặc áo gấm, đi kiệu có che lọng trắng. Vua đi đâu thường cưỡi voi, che lọng trắng, có quân sĩ gióng trống đi theo, lại có nhiều phi tần theo hầu mang mộc che và khay trầu. Trong cung có nhiều vũ nữ, nhạc công và đủ lại đầy tớ.
Chỉ có vua mới có quyền ban cấp đất đai cho đền chùa, quan lại.
Bộ máy chính quyền trung ương đơn giản. Dưới vua có một tể tướng (adhipati) và hai đại thần: một văn, một võ. Dưới nữa có các thuộc quan, chia thành 3 cấp:
- Luận - đa – tính
- Ca - luân - trí - đế
- át -tha - gia – lam
Cả nước được chia thành 4 châu (hay quản hạt), vốn xưa là những tiểu quốc khác nhau: Amaravati (Quảng Nam và mạn bắc), Vijaya (Bình Định), Kauratha (Khánh Hoà) Panduranga (Ninh Thuận, Bình Thuận). Châu chia thành huyện và làng. Mỗi làng có thể có từ 200 - 5000 hộ. Châu huyện có các chức phất la và kha luân đứng đầu. Giúp việc các phất la và kha luân có hàng trăm viên quan giải quyết các công vụ và thu thuế.
Ngoài ra, ở Trung ương có nhiều tăng lữ Bàlamôn vừa phụ trách việc tôn giáo, vừa góp ý về chính trị. Một số tăng lữ này là người ấn Độ.
Quân đội hùng mạnh có khoảng 40000 - 50000 người, chủ yếu là bộ binh, song thuỷ binh, kị binh và tượng binh cũng đông và mạnh.
Hiện nay các nhà khoa học chưa phát hiện được những ghi chép về luật. Hình phạt có: đánh bằng gậy, lấy gây nhọn đâm vào đầu, cho voi giày, nộp phạt bằng trâu, trói ở bờ đê hoang... trân châu, dây chuyền vàng làm thành chuỗi... các phu nhân.. mình trang sức dây chuyền vàng, chuỗi ngọc trai..."
Người Chăm giỏi rèn sắt, đúc tượng, xây dựng đền tháp, đan lát, đóng thuyền... Mặc dầu vậy, do hạn chế của điều kiện tự nhiên nền kinh tế Châmp không ổn định, sự giao lưu buôn bán giữa các miền hầu như không phát triển "không có tiền, người ta không dùng tiền để mua bán".
1.3 Tôn giáo, tín ngưỡng
Người Chăm từ sớm đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá ấn Độ. Tôn giáo chính là ấn giáo. Thần Inđra (thần của các thần) được tôn thờ ở khắp nơi. Bên cạnh đó là ba vị thần chính của ấn Giáo là Brahma, Vishunu và Xiva. Tuy nhiên, khi du nhập ấn Giáo, người Chăm lại đặt thần Xi va lên trên hết, đồng thời thần Xiva cũng được hoà với tín ngưỡng cổ truyền của người Chăm. Họ đã tạc những ngẫu tượng Linga - Xiva hoặc kết hợp thần Xiava và vợ là Uma để thành nguẫ tượng Xiva - Uma vừa có râu vừa có vú. Nhiều đền tháp ấn giáo được xây dựng.
Đạo Phật du nhập vào Champa muộn hơn vào thế kỷ IX, X thuộc dòng Đại thừa. Nhiều chùa phật ra đời cùng những văn bia nói về giáo lí nhà Phật.
Điều đáng chú ý là các đền, chùa ấn giáo, Phật giáo đều được vua ban cả một vùng đất rộng bao quanh, có nô lệ, dân thường phục vụ. Vào khoảng thế kỷ XI. Hồi giáo cũng được du nhập nhưng không phát triển.
Trong nhân dân, tín nguỡng cổ truyền còn lại trong tục thờ Linga (dương vật), Yoni (âm vật) và lưỡng thần Linga - Yoni. Ngoài ra kết hợp với việc thờ vợ Xiva, người Chăm dựng lên tục thờ Thánh mẫu An Pu Nagara.
- Người chăm cũng giữ tục thờ Tổ tiên Đối với người chết thì thường hoả táng, lấy tro xương bỏ vào một cái vò bằng đất nung, đậy chặt và ném xuống biển. Khi Vua chết vợ thường bị hoả táng, lấy tro xương bỏ vào một cái vỏ bằng đất nung, đậy chặt và ném xuống biển. Khi Vua chết, vợ thường bị hoả táng theo.
- Trong sinh hoạt thường ngày, người Chăm thường ở nhà sàn, quan và dân đều trải chiếu trên sàn để ngủ, đi chân đất. Giày dép chỉ dành cho vua quan. Trang phục đơn giản, thường lấy vải quấn quanh mình, nam nữ đều quấn ngang tấm vải cát bối từ lưng xuống đến chân gọi là "can mạn". Họ cũng rất thích trang sức các loại hoa tai, dây chuyền vòng tay.
Hôn nhân một vợ một chồng phổ biến. Có tục "nữ đi hỏi rể", người làm mối thường là một Bàlamôn. Tháng 8 là mùa cưới.
1.4 Những thành tựu về tư duy
a) Chữ viết và văn bản: Người Chăm sử dụng chữ viết rất sớm. Từ thế kỷ II, bia Võ Cạnh (Nha Trang) khắc chữ Phạn trở thành phương tiện ghi chép chính thống suốt thời gian tồn tại của quốc gia Champa, rất được xem trọng. Điều đáng chú ý là, trên cơ sở chữ Phạn, người Chăm đã sáng tạo ra chữ viết riêng của mình. Chữ viết Chăm cổ gồm có 16 nguyên âm, 31 phụ âm và 32 dấu âm sắc. Bia khắc chữ Chăm cổ đầu tiên là bia ở Đồng Yên Châu (Quảng Nam), dựng vào thế kỷ IV. Đây là tấm bia cổ nhất ghi bằng chữ địa phương ở Đông Namá .
Người Champa hầu như không biết làm giấy. Bia đá trở thành chất liệu để con người ghi lại những sự việc trong đời mình, do đó hầu như các triều vua đều có dựng bia, các đền chùa có dựng bia. Champa không có văn học và giáo dục, mặc dầu trong nhân dân còn truyền tụng nhiều câu chuyện cổ tích hoặc dân gian.
Người Chăm theo lịch Xaca của ấn Độ, tính bắt đầu từ ngày tháng 3 (hay 3 tháng 3) năm 78. Mỗi năm gồm 12 tháng và cũng có tên gọi như lịch âm của Trung Quốc và Việt Nam, mỗi tuần có 7 ngày.
b) Nghệ thuật kiến trúc: tập trung chủ yếu ở việc xây dựng đền tháp. Hầu như ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà đều còn lại các di tích đền tháp Champa. Nổi tiếng nhất là quần thể kiến trúc Mỹ Sơn, cách Trà Kiệu khoảng 20km, ở đây tập trung 68 công trình kiến trúc khác nhau được xây dựng vào khoảng các thế kỷ VII - VIII. Trà Bàn (Bình Định) cũng là một khu dinh thự Champa (vốn là kinh đô lâu đời) các tháp Khương Nữ (Quảng Nam). Mạn Sơn (Bình Định), Pô Nagar (Nha Trang - Khánh Hoà) đều là những tháp lớn nổi tiếng.
Tháp Chăm được dựng theo mô hình tháp của ấn Độ, nhưng là một khối vững chắc xây bằng gạch, có cửa chính và cửa giả. Tháp gồm nhiều tầng, xếp nếp, tầng trên lặp lại tầng dưới nhưng nhỏ dần và tụ lại thành đỉnh nhọn vươn lên cao. Điều đáng chú ý là gạch xây được gắn với nhau bằng một thứ nhựa cây mà nhân dân gọi là dầu rái. Tháp Chăm nhỏ hơn, gọn và đơn giản hơn tháp ấn Độ hay tháp Campuchia. Người Chăm ít trang trí bằng đá hay dùng vật gia cố mà dùng nếp xếp tinh vi thay cho tầng bệ, lợi dụng gò cao thay cho nền đá lớn.
Người Chăm cũng xây dựng nhiều thành luỹ quân sự như thành Khu Túc, Thành Lồi ở Quảng Bình, thành Hồ ở Phú Yên.
c) Điêu khắc trên đá, gỗ rất phát triển, thể hiện các bức phù điêu với nhiều mô típ hoa văn cành lá, vũ nữ, đài hoa... ở các đền chùa còn để lại nhiều tượng thần khác nhau, nhiều tượng có phong cách và đường nét hiện thực dân dã như tượng nữ thần Pacvati ở Hương Quế (Quảng Nam), tượng cầm kiếm hình tàu lá dừa, mộc hình mo cau...Thời Lý, nhiều thợ điêu khắc Chăm đã được đưa về Đại Việt tạo nên nhiều bức phù điêu ở các chùa đền.
Nghệ thuật âm nhạc, nhảy múa phát triển. Hiện nay còn để lại nhiều nhạc cụ như đàn tì bà 5 dây, sáo, trống các loại, những bức phù điêu trên đá mô tả những vũ nữ đang nhảy múa rất đẹp.
Tóm lại, trong nhiều thế kỷ tồn tại và phát triển độc lập, người Chăm đã xây dựng được một nền văn minh đặc sắc, mang nhiều ảnh hưởng của văn minh ấn Độ giống như nhiều nước Đông Nam á đương thời.
2. Một số nét về văn hoá các dân tộc ít người
Các dân tộc ít người sống rải rác trên vùng Tây và Bắc đất nước ta có số lượng cư dân rất chênh lệch nhau. Tuy nhiên, dù chỉ có trên 100 người, mỗi dân tộc đều có những nét văn hoá riêng, góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hoá nhiều màu sắc của dân tộc Việt Nam. Với yêu cầu trình bày một số nét chính về văn hoá các dân tộc (người Việt và Chăm) giáo trình này chỉ dừng lại ở những nhóm tộc người tương đối đông dân.
2.1 Văn hoá Mường
Tộc người Mường vốn cùng gốc với tộc người Việt, cùng thuộc ngữ Môn - Khơme. Dân số hiện nay khoảng gần một triệu, sống chủ yếu ở Hoà Bình (trên 75%), Thanh Hoá, Phú Thọ... trên các cánh đồng rộng như Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, Mường Động, Ngọc Lạc, Cẩm Thuỷ...
Ngành kinh tế cơ sở là nông nghiệp lúa nước với những công đoạn sản xuất tương tự giống người Việt: cày (trước đây dùng phổ biến lưỡi cày chia vôi), bừa, cấy, cắt (gặt). Ruộng bậc thang khá phổ biến. Lúa nếp giữ một vai trò quan trọng, trong cuộc sống hàng ngay; xôi, cơm nếp là món ăn rất quen thuộc. Ngoài ra, người Mường còn trông ngô, sắn, khoai để làm thức ăn. Phụ nữ Mường ra khỏi nhà thường mang theo gương lược, đeo dao và gùi (giỏ) sau lưng, nếu gặp rau ăn được là cắt, hái ngay. Cây búng báng cũng là một loại lương thực quen thuộc của họ.
Ngoài nghề nông, người Mường cũng làm nghề thủ công, chủ yếu phục vụ trong gia đình như dệt vải lụa, thêu thùa, đan lát, dệt cạp váy bằng tơ nhuộm nhiều màu rồi thêu hình rồng, phượng, hươu nai. Đây là một thứ trang phục đặc sắc của người phụ nữ Mường. Người Mường không biết làm đồ gốm, rèn sắt. Họ phải mua bát đĩa, ấm chén và các dụng cụ kim loại của người Việt.
Người Mường sống theo đơn vị xóm khoảng 20-30 nóc nhà, có một vài xóm lớn với trên 100 nóc nhà. Các xóm thường cách nhau xa. Nhiều xóm họp lại thành một Mường (một từ Thái), song mỗi xóm vẫn có tính tự trị của mình (như trong công tác thuỷ lợi, chia ruộng công...).
Nắm quyền thống trị toàn Mường là nhà Lang. Chức vị cao nhất là Lang Cun, theo chế độ cha truyền con nối. Lang Cun được phân chia cai quản các xóm, gọi là tạo hay lang đạo. Giúp việc nhà Lang có các âu. Phân hoá xã hội chưa sâu sắc.
Gia đình nhỏ là đơn vị tế bào của xã hội, thường là gia đình một vợ một chồng, vốn tồn tại từ lâu đời. Họ ở chung trong nhà sàn gồm hai nửa, nửa trong dành cho nữ, nửa ngoài dành cho nam. Phụ nữ vẫn có quyền nhất định trong xã hội và gia đình.
Về trang phục: nam thường mặc áo cánh màu chàm, nữ mặc áo cánh ngắn thân, xẻ ngực hoặc xẻ vai, ít cài cúc. Váy mặc cao đến nách che hết vú và thả dài xuống tận mắt cá. Cạp vạy được trang trí hoa văn hình thú hay dệt thành đường diềm, tàn dư của văn hoá Đông Sơn. Phụ nữ cũng mặc yếm như người Việt, nhưng nhỏ hơn và đặc biệt là thường đội khăn đơn giản bằng vải thô trắng, không thêu dệt hoa văn, khăn dài hình chữ nhật quấn quanh đầu và chít lại phía sau.
Tục thờ cúng Tổ tiên có tính phổ biến. Khi có người chết, họ tổ chức "đám hiếu", một nghi thức tang lễ kéo dài 12 ngày có đánh trống, đánh chiêng, thanh la, bắn súng, có thầy tu đọc bài mo (thường là một bài mo giải thích và một bài mo dẫn đường).
Người Mường không có chữ viết riêng. Văn học dân gian truyền miệng rất phát triển với nhiều thể loại như trường ca (Vườn hoa núi cối, Đẻ đất đẻ nước...), thơ, hát ru con, bài mo. Đề tài phổ biến của thơ ca Mường là phản kháng chế độ phụ quyền và chế độ nhà Lang.
Trong năm, người Mường cũng tổ chức hội hè vui chơi, nhảy múa. Các ngày hội chủ yếu có ý nghĩa nông nghiệp như Hội xuống đồng, Hội cầu mưa, Lễ rửa lá lúa, Tết cơm mới. Sáo, nhị, trống, khèn lá, cồng lá những nhạc cụ truyền thống.
2.2 Văn hoá Tây - Nùng - Thái
Các dân tộc Tày, Nùng, Thái có cùng nguồn gốc ở Tây Nam Trung Quốc, tràn xuống lãnh thổ Việt Nam vào nhiều thời điểm khác nhau, từ những thế kỷ trước công nguyên cho đến các thế kỷ XVII - XVIII, do đó được xếp vào 3 tộc người khác nhau. Dân số hiện nay của cả 3 tộc người khoảng gần 3 triệu.
Nông nghiệp lúa nước giữ địa vị chính trong kinh tế. Do vùng trồng lúa chủ yếu là các thung lũng mầu mỡ, độ thấm của đất lớn cho nên kỹ thuật canh tác khác ở miền xuôi. Nhiều nơi không dùng cày. Hệ thống thuỷ lợi nhỏ: mương, phai, xe đạp nước, lúa cấy hai lần. Ngoài trồng lúa, ngô, khoai, sắn, họ còn trồng cây lấy dầu, thuốc lá. Họ không làm vườn và vẫn còn hái lượm. Người Tày, Nùng, Thái ít dùng phân bón. Thủ công nghiệp ít phát triển, chỉ làm gốm thô, rèn dao, dệt thổ cẩm, làm đồ bạc, đan lát. Phụ nữ Thái dệt vải rất giỏi và thành một tiêu chuẩn kén vợ của nam giới.
Đơn vị xã hội là các bản, mỗi bản có khoảng 20-40 nóc nhà. Mỗi một nóc nhà là một gia đình gồm một hay 3,4 thế hệ cùng sinh sống, theo chế độ phụ quyền chặt chế. Trên bản là mường, có chúa đất đứng đầu (phía, tạo, thổ ti, a nha) lấy chiềng làm trung tâm.
Các chúa đất, có một số là người Việt Tày hoá, thường được nhà nước phong kiến Đại Việt phong chức tước, rất có quyền hành, được thế tập. Trong chiến tranh hay khởi nghĩa, chúa đất là người tổng chỉ huy và toàn dân mường bản phải đi theo. Giúp việc chúa có các chức dịch như tạo, mo. Đã có một số nô tì (côn hươn).
Người Tày, Nùng, Thái thường mặc áo màu chàm, nam mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, 4 túi. Nữ mặc quần hay váy, áo có 5 thân, buộc thắt lưng, cài cúc bên phải, trang sức vòng cổ, vòng tay bằng bạc, đầu chít khăn mỏ quạ. Họ thường tự dệt chiếc khăn piêu, trên khăn có trang trí hoa văn chim, thú, cây cỏ.
Trong năm có nhiều ngày lễ hội: Tết nguyên đán, Tết thanh minh, Rằm tháng 7, Hội lồng tồng đầu xuân...
Phổ biến tục thờ Tổ tiên, thổ công, các vị thần trời đất. Hôn lễ và tang lễ đều có nhiều bước. Họ ở nhà sàn cột gỗ, vách tre đan, mái hình chữ nhật, đôi khi lợp ngói âm, dương.
Người Thái có bộ luật riêng. Người Tày - Thái có chữ viết của mình (Nôm Tày), văn học dân gian rất phát triển với đủ thể loại: sử thi, ca dao, truyện cổ tích... chẳng hạn như truyện Quả bầu mẹ, Cầu chủa cheng vùa, Xóng chụ xôn xao, Khún lú nàng ưa... hoặc kể truyện lịch sử hoặc ca ngợi nhân nghĩa, thuỷ chung, trí tuệ.
Ca nhạc nhảy múa rất phong phú: hát lượn (sương, then) hát then, hát khắp (khắp báo xa, khắp lồng tồng, khắp ca), si (soong hàn, tả si...) múa xoè, múa sạp, múa sư tử vv... Trong ngày hội, ngày phiên chợ, trai gái thường hay hát si lượn đối đáp, tìm hiểu nhau hoặc tổ chức, gieo đúm, đánh quay. Nhạc cụ có đàn tính, đàn môi, sáo...
Trong quá trình phát triển của nước Đại Việt, văn hoá Tày - Thái và văn hoá Việt có sự giao lưu, ảnh hưởng lẫn nhau nhưng không sâu sắc
2.3 Văn hoá Khơme Nam bộ
Người Khơme sống ở vùng Tây đồng bằng sông Cửu Long (Nam bộ), tập trung ở các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Minh Hải... Dân số gần 1 triệu người.
Nông nghiệp trồng lúa là nguồn lợi chính của người Khơme. Ruộng lúa chia làm 3 loại.
Xrê tuột (ruộng gò) trồng lúa mùa; Xrê la hồ (ruộng rộc) trồng nhiều loại lúa, hoa màu; Xrê lơn tức (ruộng lúa nổi).
Ngoài ra người Khơme còn làm rẫy. Tuỳ theo loại ruộng, người Khơme có phương thức tưới ruộng khác nhau như nhờ hệ thống kênh rạch, hoặc ô rãnh.
Ngoài việc trồng lúa, họ còn trồng ngô, khoai, mía, đậu. Nghề làm vườn trồng cây ăn quả như dưa hấu, xoài cũng phổ biến. Họ cũng biết trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ dệt lụa, dệt khăn, nhuộm vải, làm gốm thô, chạm bạc. Ghe, xuồng ba lá là phương tiện giao thông phổ biến của người Khơme.
Văn hoá Khơme Nam bộ ngày nay chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Phù Nam. Đơn vị xã hội là phun, srốc (xóm làng) gồm hàng chục nóc nhà, nền đất, mái lá. Giữa srốc là một ngôi chùa, cạnh chùa có một Sala (nhà làng) làm nơi hội họp hàng năm.
Đứng đầu các phun, srốc là già làng: Mê phun, Mê srốc, đều do dân bầu.
Người Khơme ăn mặc thường phục như người Việt, chỉ có khác ở chỗ có đội đầu hay vắt vai một chiếc khăn rằn truyền thống.
Tôn giáo chính là đạo Phật. Toàn vùng có đến 400 ngôi chùa. Chùa là trung tâm sinh hoạt tinh thần của người Khơme. Con trai đến tuổi trưởng thành đều phải vào chùa, học chữ, học giáo lí nhà Phật. Tro xương người chết được gửi vào chùa.
Hàng năm có 8 ngày lễ lớn: lễ "Vào năm mới" theo đạo Hinđu và 7 ngày lễ Phật. Ngoài ra còn các ngày lễ chào mặt trăng, lễ gọi hồn lúa, lễ cầu mưa...
Ca nhạc, nhảy múa phát triển. Nhạc có phần học của người ấn Độ, có phần của Đông Nam á. Nhạc cụ có chiêng, sáo, trống, đàn dây, đàn pinpék. Ngày hội lễ, người Khơme thường múa các điệu Rom vông, Rom khách, múa gáo dừa, múa xà đầm, múa chim công... Nghệ thuật sân khấu cũng phát triển với di kê, rô lăm..
Văn học truyền miệng phổ biến với các loại truyện kể, truyện cười, ngụ ngôn.
2.4 Văn hoá các tộc người ở Tây Nguyên và Nam Trung bộ
Bên cạnh người Việt, trên đất Tây Nguyên và nam Trung bộ có hàng chục tộc người khác nhau sinh sống, như Êđê, Bana, Xơđăng, Mơnông, Càtu, Giarai, Raglai, Mạ... thuộc ngôn ngữ hệ Môn - Khơme và Malayo - pôlinêdiêng. Dân số mỗi tộc người khoảng từ 2 vạn đến 11 vạn.
Đơn vị xã hội là buôn, plây, bon... gồm vài chục nóc nhà, sống gần nhau. Gia đình lớn, 4-5 thế hệ cùng sống với nhau, có khi số thành viên lên đến 80-90 người. Giữa buôn làng thường có một cái nhà lớn gọi là nhà Rông, nơi hội họp và vui chơi chung. Mỗi plây, buôn đều có người đứng đầu do dân bầu, để giải quyết mọi việc của plây và buôn cùng với các già làng.
Các tộc người Tây Nguyên và Nam Trung bộ đều biết trồng trọt, làm ruộng rẫy, nương, làm vườn, nhưng săn bắt, hái lượm vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Người Xơđăng (sống ở Gialai, Kontum) do có mỏ sắt lộ thiên nên họ biết rèn sắt, có thể đến hàng chục lò rèn ở đây.
Các dân tộc ở Tây Nguyên ăn mặc đơn giản. Người Càtu thích ở trần, người Bana mặc áo chui đầu, trang trí sọc ở tay, ở gấu bằng vải nhuộm đỏ đen. Váy ngắn, tóc búi hay để xoã ngang vai. Họ thích đeo các đồ trang sức như khuyên tai, vòng tay, vòng cổ. Người Càtu, người mạ có tục cà răng, căng tai.
Chế độ phụ quyền đã phổ biến nhưng cha mẹ quyết định việc dựng vợ gả chồng cho con cái.
Tín ngưỡng chung là tục thờ Giàng (thần), Yang (hồn) và thờ Tổ tiên.
Nhìn chung, ca múa nhạc ở các tộc người Tây Nguyên rất phát triển, mỗi tộc người một điệu, một vẻ. Họ có hàng loạt nhạc cụ khác nhau như sáo, khèn, chiêng, đàn t'rưng, đàn đá, kèn môi, đàn ống tre, tủ và đàn chiêng... lễ hội đâm trâu ở người Bana, người Xơđăng, người Càtu, Mạ, đều có. Đó là một ngày hội lớn, vui vẻ của cả plây.
Văn học dân gian truyền miệng phát triển với nhiều thể loại: Trường ca (như Trường ca Đam San) thần thoại, sử thi, dân ca (có bài được phổ nhạc thành bài hát như Bóng cây kơnia). Phần trên là một số nét lớn về văn hoá các dân tộc ít người, đại diện chung cho cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Bên cạnh hai nền văn minh của người Việt và người Chăm, các nền văn minh, văn hoá đó đều hình thành và tồn tại từ lâu đời trên đất Việt nam và trong quá trình hoà nhập, đã làm cho vườn hoa văn hoá Việt Nam thêm đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc.