ĐÁNH MỸ
1. ĐÁNH BẠI CÁNH QUÂN LỚN NHẤT CỦA MỸ TRONG CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC MÙA KHÔ THỨ NHẤT (1965 - 1966)
Đến tháng 9 năm 1965, những cuộc đổ bộ ồ ạt của quân viễn chinh Mỹ và quân chư hầu vào chiến trường Khu 5 cơ bản đã chấm dứt. Thế bố trí lực lượng của chúng trên địa bàn chiến lược này như sau: Sư đoàn 1, sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ và liên đoàn không quân số 1 ở Đà Nẵng và căn cứ Chu Lai. Lữ đoàn 1 , sư đoàn dù 101 ở Cam Ranh. Lữ đoàn dù 173 ở Plây Cu. Sư đoàn kỵ binh không vận ở An Khê. Sư đoàn "Mãnh Hổ" Nam Triều Tiên ở Quy Nhơn, Nha Trang và Cam Ranh. Đến tháng 10, tổng số quân viễn chinh Mỹ và chư hầu ở chiến trường Khu 5 đã lên tới 120.000 tên, chiếm hai phần ba tổng số quân chiến đấu Mỹ trên chiến trường miền Nam. Điều này chứng tỏ bộ chỉ huy quân sự Mỹ coi chiến trường Khu 5 như một chiếc đòn bẩy có thể giúp chúng xoay chuyển tình thế một khi chiến lược "tìm và diệt" do Oét-mo-len đề xướng được thực hiện trên địa bàn này. Oêt-mo-len chia kế hoạch tìm diệt làm ba giai đoạn : Giai đoạn một, ngăn chặn chiều hướng suy sụp quá nhanh của quân ngụy, giai đoạn hai, mở các cuộc tiến công liên tiếp trong 6 tháng đầu năm 1966 ở các vùng trọng điểm để tiêu diệt Quân giải phóng, hộ trợ cho ngụy quyền, ngụy quân tiến hành "bình định nông thôn". Giai đoạn ba nếu gặp trở ngại sẽ kéo dài thời gian từ một đến một năm rưỡi để đánh bại hoàn toàn Quân giải phóng, triệt tiêu toàn bộ các vùng căn cứ của quân dân miền Nam.
Cuối năm 1965, với 20 vạn quân chiến đấu Mỹ và quân chư hầu, với những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, bộ chỉ huy quân sự Mỹ ráo riết chuẩn bi cho cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất (1965 - 1966). Trong cuộc phản công này, chúng chọn năm hướng tiến công. mỗi hướng tiến công biểu thị bằng một mũi tên. Trên chiến trường Khu 5 chúng chọn ba mũi. Mũi thứ nhất đánh vào nam Phú Yên mang tên "Van-bua-ren". Mũi thứ hai đánh vào nam Quảng Ngãi mang tên "Diều hâu đôi'. Mũi thứ ba, mũi lớn nhất đánh vào bắc Bình Định với ba cuộc hành quân lớn: "Cái chày, "Cánh trắng", "Ngựa đen". Hai mũi tên khác chúng nhằm vào vùng đông-bắc Sài Gòn và khu vực Củ Chi (Gia Định).
Trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất và trong kế hoạch "tìm diệt", bộ chỉ huy quân sự Mỹ hết sức chú trọng vùng bắc Bình Định vì đây là vùng trọng yếu tiếp giáp giữa quân khu 1 và quân khu 2 nguy. Con đường số 1 qua Tam Quan, vượt đèo Bình Đê sang nam Quảng Ngãi là đoạn đường dễ bị cắt đứt nhất ở miền Trung. Bắc Bình Định còn là nơi ra đời, đứng chân, là hậu cứ của sư đoàn Sao Vàng, một sư đoàn vừa ra quân đã đánh cho chúng thua đau ở Thuận Ninh, Hội Sơn. Mặt khác, 'tìm diệt" được sư đoàn Sao Vàng ở bắc Bình Định, quân Mỹ có thể "tìm diệt" thắng lợi ở các vùng khác trong tỉnh và giữ vững được tuyến hành lang vận chuyển chiến lược từ Quy Nhơn đi các tỉnh Tây Nguyên. Chính vì lẽ đó mà chúng cho đổ vào ba huyện phía bắc Bình Định hơn hai vạn quân Viễn chinh Mỹ và Nam Triều Tiên, 500 máy bay, hàng chục tiểu đoàn thiết giáp, pháo binh. Cho đến ngày nổ ra cuộc phản công vào cuối tháng 1 , lực lượng địch ở đây đã lên tới 34 tiểu đoàn, gồm 24 tiểu đoàn bộ binh, 10 tiểu đoàn các binh chủng.
Trước âm mưu của địch, tháng 12 năm 1965, Thường vụ Khu ủy Khu 5 và Đảng ủy Quân khu 5 ra nghị quyết kêu gọi quân và dân Khu 5 "ra sức tiến công và phản công địch, kiên quyết tiêu diệt quân Mỹ và chư hầu đánh bại kế hoạch phản công chiến lược của chúng". Nghị quyết nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo tác chiến: "chủ động tiến công, tích cực phản công, chú trọng kết hợp tác chiến và xây dựng ba thứ quân, nhất là quân chủ lực...".
Về kế hoạch tác chiến, Bộ tư lệnh Quân khu chủ trương mở chiến dịch Xuân 1966. Hướng bắc quân khu, sư đoàn 2 hoạt động ở phía tây Sơn Tịnh (bắc Quảng Ngãi), cắt đứt đường số 1 từ căn cứ Chu Lai đến thị xã Quảng Ngãi. Các lực lượng vũ trang địa phương và đặc công đánh địch tại hậu phương của chúng ở Quảng Đà, Quảng Nam, các sân bay lớn như Đà Nẵng, Chu Lai, Quảng Ngãi... phá vỡ vành đai an toàn xung quanh các căn cứ quân sự Mỹ. Hướng Tây Nguyên, sư đoàn 1 bộ binh cùng với đặc công quân khu hoạt động. Ở bắc Buôn Ma Thuột, tiến công sân bay Plây Cu. Hướng nam quân khu, sư đoàn Sao Vàng và trung đoàn 10 phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương, hoạt động ở bắc Bình Định và Phú Yên. giải phóng những quận lỵ, chi khu còn lại, sẵn sàng phản kích, đánh bại các cuộc hành quân "tìm diệt" của địch. Như vậy, chiến dịch Xuân 1966 của Quân khu 5 chủ yếu nhằm vào quân Mỹ, lấy quân Mỹ làm đối tượng tác chiến chủ yếu .
Khu vực bắc Bình Định do sư đoàn Sao Vàng và quân dân Bình Định đảm nhiệm được quân khu xác định là một trong những địa bàn trọng điểm có thể tiêu diệt được nhiều quân Mỹ nhất. Tháng giêng năm 1966 , Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định được thành lập gồm các đồng chí trong bộ tư lệnh sư đoàn Sao Vàng và thường vụ tỉnh ủy tỉnh Bình Định do đồng chí Giáp Văn Cương, sư đoàn trưởng làm chỉ huy trưởng, đồng chí Trần Quang Khanh bí thư tỉnh ủy làm chính ủy
Thời gian ấy, ba huyện phía bắc Bình Định còn xanh rợp bóng dừa. Vừa chuẩn bị ăn tết, nhân dân các huyện Phù Mỹ Hoài ân, Hoài Nhơn vừa khẩn trương chuẩn bị cho chiến dịch. Đêm đêm, du kích cùng với các đơn vị trinh sát đi điều tra đồn địch, chôn mìn, dựng vật chướng ngại. đánh sập các cầu đoạn từ bắc Bồng Sơn đi Sa Huỳnh...
Phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương, sư đoàn Sao Vàng khẩn trương chuẩn bị những bước cuối cùng của phương án tác chiến. Đội hình sư đoàn bố trí trên một địa bàn khá rộng theo thế chân vạc. Trung đoàn 22 ở Hoài Nhơn. Trung đoàn 2 ở Hoài ân. Trung đoàn 12 ở bắc Phù Mỹ, cả ba trung đoàn đều có thể cơ động theo trục đường số 1 tiến đánh quận lỵ Bồng Sơn bằng cả hai hướng bắc và nam, hoặc lật đội hình giải phóng quận Phù Mỹ, hoặc dễ dàng khống chế địch, thực hiện chia cắt chiến dịch. Trường hợp địch chủ động mở cuộc tiến công trước, các trung đoàn đã sẵn sàng ở những địa bàn quân Mỹ có thể đổ bộ đường không và sẵn sàng chi viện cho nhau. Đồng thời với đội hình trên, toàn bộ sư đoàn có thể kết hợp chặt chẽ với lực lượng quân sự và chính trị của cả ba huyện để đánh dịch, bảo vệ nhân dân, có đủ điều kiện về địa thế và lương thực để đánh địch nếu đợt hoạt động phải kéo dài.
Cùng với chuẩn bị chiến trường, một đợt tập huấn cho cán bộ cấp trưởng từ tiểu đoàn trở lên được triệu tập và một đợt sinh hoạt chính trị được tổ chức sôi nổi ở hầu khắp các đơn vị cơ sở. Đồng chí Nguyễn Đôn, Tư lệnh Quân khu 5 đã xuống trực tiếp kiểm tra công tác chuẩn bị của Mặt trận và chỉ đạo đợt tập huấn cán bộ của sư đoàn.
Cuối tháng giêng, mọi việc đã được chuẩn bị xong. Trong các vườn nhà, hoa mai, hoa cúc bắt đầu nở vàng rực. Người dân bắc Bình Định nói, chưa có mùa xuân nào mai, cúc lại nở rộ như mùa xuân năm ấy.
Ngày 28 tháng 1 năm 1966, lúc 8 giờ sáng, những loạt bom B.52 nổ rền trên đãy núi Hưng Nhượng giáp giới hai huyện Hoài Nhơn và An Lão. Đó là những loạt bom mở đầu cho cuộc hành quân "Cái chày" của sư đoàn không vận Mỹ. Dứt bom, bầu trời chưa kịp yên tĩnh thì hàng chục trận địa pháo đã giội đạn dồn dập xuống các làng mạc thuộc các xã Hoài Hảo, Hoài Châu, Hoài Sơn, Nam Quan. Sau đó, hàng trăm chiếc trực thăng kết thành từng bầy liên tiếp phóng rốc két và đổ quân xuống ba khu vực Chợ Cát (Hoài Hảo), Trường Xuân, An Thái (Tam Quan Nam) và khu vực ga Chương Hòa, Bình Đê thuộc xã Hoài Châu.
Mũi tên lớn nhất của cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất đánh vào bắc Bình Định đã được khai diễn. Toàn sư đoàn Sao Vàng được lệnh chiến đấu. Lúc đó, ở Hoài Nhơn, trung đoàn 22 bắt đầu nổ súng. Đội hình trung đoàn đứng thành thế chân kiềng. Tiểu đoàn 9 ở Hoài Hảo, tiểu đoàn 8 ở Tam Quan Nam, tiểu đoàn 7 ở Hoài Châu. Sở chỉ huy trung đoàn ở giữa tiểu đoàn 9 và 7. Cũng như các chiến sĩ tiểu đoàn 2 trong trận Thuận Ninh, các chiến sĩ tiểu đoàn 9 ở khu vực Chợ Cát, khu vực nổ súng đánh địch sớm nhất và cũng là khu vực địch tập trung đánh phá dữ dội nhất, thoạt đầu rất ngạc nhiên khi thấy bọn Mỹ tỏ ra ngờ nghệch và máy móc. Chỉ mấy phút đầu, năm chiếc trực thăng đã bị bắn rơi tại chỗ và toàn bộ số lính của 18 chiếc trực thăng vừa đổ xuống đã bị các chiến sĩ đại đội 93 tiêu diệt gần hết. Nhưng đó mới chỉ là khúc dạo đầu của những trận đánh quyết liệt và dai dẳng tiếp theo. Phó tiểu đoàn trưởng Bùi Tín vừa nhắc các chiến sĩ đại đội 93 giữ vững đội hình chuẩn bị đón đánh những cuộc đổ quân tiếp thì 52 chiếc trực thăng khác chở đầy lính đã ào ạt bay tới đáp xuống phía sau đội hình đại đội.
Trên các hướng đánh của tiểu đoàn 8 ở An Thái, tiểu đoàn 7 ở các thôn Gia Hưu, Chương Hòa, Hy Thế, Quy Thuận, Liễu An (Hoài Châu) và ngay cả ở Phú Lương Tân An, Trường Sơn, nơi trung đoàn đặt sở chỉ huy, những trận đánh cũng bắt đầu diễn ra quyết liệt với quân Mỹ và quân ngụy.
Trước tình hình ấy, tham mưu trưởng trung đoàn Nguyễn Duy Thương và phó chủ nhiệm chính trị Hồng Sơn, thay cán bộ chỉ huy trung đoàn đang đi tập huấn, không khỏi lo lắng. Tuy giây phút ngỡ ngàng đối với quân Mỹ của bộ đội đã qua đi rất nhanh, anh em đều diệt được nhiều Mỹ, bắn rơi nhiều máy bay nhưng kinh nghiệm chiến đấu liên tục và hợp đồng chiến đấu của trung đoàn còn yếu, lại phải chiến đấu với quân địch đông gấp bốn, năm lần, cơ động nhanh và rất mạnh về hỏa lực. Một cuộc hội ý giữa cán bộ chỉ huy trung đoàn với bí thư huyện ủy Hoài Nhơn và chính trị viên huyện đội được tiến hành gấp rút. Soát xét tình hình, các anh thống nhất đánh giá chỗ mạnh, chỗ yếu của quân Mỹ và xác định cách đánh cho từng đơn vị, kể cả bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang địa phương.
Qua nửa ngày chiến đấu, thủ đoạn của bọn Mỹ đã bộc lộ khá rõ. Nếu một đơn vị Mỹ gặp lực lượng ta, lập tức chúng dùng trực thăng đổ quân bao vây, dùng hỏa lực bắn phá dữ đội rồi khép chặt dần vòng vây: Khi cần, chúng bốc quân ở những khu vực khác tăng cường đột ngột cho mục tiêu chính khiến so sánh lực lượng nghiêng hẳn về phía chúng. Chúng hy vọng sử dụng thế mạnh về quân số, hỏa lực và sức cơ động để giải quyết chớp nhoáng trận đánh. Trước thủ đoạn đó của địch muốn phá thế chủ động và làm giảm hiệu quả hỏa lực của địch, các lực lượng chủ lực cũng như du kích phải luôn luôn chủ động, táo bạo, bám trụ địa hình có lợi, đánh gần, đồng thời tổ chức nhũng trận phục kích, tập kích, đánh vào sườn, sau lưng địch, các bãi đổ bộ trực thăng... tích cực bắn rơi nhiều máy bay, tiêu diệt gọn từng đại đội tiến tới đánh thiệt hại nặng từng tiểu đoàn Mỹ.
Lúc đó, trên hướng đánh của tiểu đoàn 9 ở Chợ Cát, tiếng súng phản kích vẫn nổ dồn dập, không dứt. Các chiến sĩ đại đội 93 bám chặt từng gốc dừa, ruộng mía đầy lùi hết đợt tiến công này tới đợt tiến công khác của bọn Mỹ. Trước mặt họ, xác địch nằm ngổn ngang. Nhiều tên sợ hãi nằm ngửa mặt lên trời, làm dấu thánh lia lịa. Ngày thứ hai và ngày thứ ba, tiểu đoàn 9 không phải chỉ quần nhau với một mà là ba tiểu đoàn Mỹ. Chúng định dồn tiểu đoàn 9 vào tình thế bị cô lập và chia cắt, nhưng rốt cuộc, chúng lại phải xin thêm hai tiểu đoàn khác đến tăng viện. Hai tiểu đoàn này vừa từ đường số 1 thọc lên thôn Cự Tài, Cự Lễ đã bị đại đội 91 và 94 chặn đánh. Đại đội 92 cũng xuyên qua các bãi dừa, vườn chuối đến chi viện cho đại đội 94 và 91. Một trận đánh đẫm máu đã xảy ra trên một bãi cát gần thôn Cự Tài. Gần nửa tiển đoàn Mỹ đã bị tiêu diệt bằng cối, DKZ, tiểu liên và lựu đạn của các chiến sĩ tiểu đoàn 9.
2 giờ trưa ngày 30, tham mưu trưởng trung đoàn nhận được điện của quân khu: "Các đồng chí hãy cố gắng diệt cho nhiều Mỹ giữ vững trận địa. Số cán bộ tập huấn đang trên đường về đơn vị". Nhận điện, tham mưu trưởng Thương lập tức điều thêm đại đội 82 của tiểu đoàn 8 từ thôn Cửu Lợi (Tam Quan Nam) lên tăng cường cho hướng chính cửa tiểu đoàn 9 ở khu vực Chợ Cát. Chiều hôm ấy, địch dùng đạn hóa học và hơi cay, lấn được một phần trận địa của đại đội 91.
Trong khi tổ chức phản kích khôi phục lại trận địa, một quả rốc két từ trực thăng phóng vào giữa đội hình trung đội 3 làm hai chiến sĩ Anh và Tô bị thương nặng. Trung đội dừng lại định dìu Anh và Tô vào hầm trú ẩn, nhưng Anh gạt đi: "Các đồng chí có thương chúng tôi thì hãy nhanh chóng chiếm lại cho được trận địa". Nói xong, Anh rút ở thắt lưng ra hai quả lựu đạn đưa cho Tô một quả, bình thản nói: "Mình với cậu bị thương không chạy được thì nằm lại đây giữ phía sau cho trung đội". Một lát sau, một toán Mỹ ập tới. Thấy hai chiến sĩ ta nằm thoi thóp bên vệ đường, chúng đổ xô lại toan bắt sống. Anh và Tô cùng rút chốt lựu đạn. Khi các chiến sĩ trung đội 3 chiếm được trận địa quay trở lại thì thấy xác gần chục tên Mỹ to kềnh nằm quanh thi hài của Anh và Tô. Chẳng mấy chốc, tấm gương hy sinh lẫm liệt của hai đồng chí được truyền đi khắp các đơn vị và nhân dân địa phương.
Ở trận địa của tiểu đoàn 7, những trận đánh diễn ra liên miên bắt đầu từ buổi sáng ngày 28. Dùng trực thăng và xe bọc thép không đột phá được trận địa ta, hai tiểu đoàn lính cộng hòa và một tiểu đoàn Mỹ xảo quyệt thúc ép dân đi trước che cho chúng đi phía sau. Tham mưu trưởng tiểu đoàn Nguyễn Xuân Hòa chưa biết xử trí ra sao thì đã thấy đồng bào ngồi thụp xuống các bờ đất. Một cuộc giằng co kéo dài giữa đồng bào và bọn lính đã diễn ra. Để hỗ trợ cho đồng bào, các chiến sĩ tiểu đoàn 7 được lệnh bắn chỉ thiên mấy loạt súng, được thể, đồng bào xô đẩy bọn lính chạy tản về phía sau. Rốt cuộc trên các mặt ruộng chỉ còn trơ lại bọn lính. Chúng nằm bẹp sau các gò mả, bờ đất không dám nhích lên nửa bước dưới làn đạn của quân ta.
Trên đồi 10, một ngọn đồi thấp nằm án ngữ bên con đường số 1 đoạn từ Tam Quan đi đèo Bình Đê, các chiến sĩ đại đội 71 đã nhiều lần đánh giáp lá cà với địch. Trong trận đánh chiều ngày 30, trung đội trưởng Phạm Ngọc Iểng và hai chiến sĩ còn lại, khi hết đạn đã đập vỡ súng, thống nhất với nhau: còn ba quả lựu đạn sẽ dành cho bọn giặc hai quả, quả cuối cùng dành cho mình, kiên quyết không để chúng bắt sống. Bọn giặc từ bốn phía lại tràn lên xung quanh Phạm Ngọc Iểng và hai chiến sĩ. Quả lựu đạn thứ nhất nổ. Ba tên giặc lộn từ sườn đồi xuống. Quả lựu đạn thứ hái quật ngã bốn tên ở vị trí gần nhất. Còn quả lựu đạn cuối cùng Iểng và hai chiến sĩ, bỗng đứng bật dậy trên đỉnh đồi, khoác vai nhau cùng cất tiếng hát vang bài "Giải phóng miền Nam". Tiếng hát đột ngột làm bọn ngụy đang tràn lên chững lại sửng sốt. Chúng đưa mắt nhìn nhau rồi dần dần tụt xuống chân đồi. Từ lúc đó, không hiểu vì kết quả của hai quả lựu dạn hay vì tiếng hát hào hùng của ba chiến sĩ mà cho đến chiều tối ngày hôm đó, bọn giặc không dám xông lên ngọn đồi đỏ quạch ấy nữa.
Dưới chân đồi, chiến sĩ nuôi quân Vũ Văn Mã đang xếp cơm vào gùi, chuẩn bị cõng lên chốt thì một trung đội địch vòng sau lưng đội hình đại đội xộc vào nhà bếp. Mã bình tĩnh đặt gùi cơm xuống xách súng vòng ra phía sau lần lượt hạ tám tên giặc. Bị đánh bất ngờ địch vội vàng rút chạy. Mã rượt theo, phối hợp với mũi của phó đại đội trưởng diệt gọn trung đội này.
Trên hướng đánh của tiểu đoàn 8 ở khu vực An Thái, Cửu Lợi, mặc dù trung đoàn đã điều đại đội 82 chi viện cho tiểu đoàn 9 ở Chợ Cát, các đơn vị còn lại vẫn giữ vững một hướng chiến đấu của trung đoàn. Tại đây, các chiến sĩ tiểu đoàn 8 đã để cho bọn Mỹ vào thật gần mới bất ngờ nổ súng, rồi đồng loạt xung phong, dùng cả báng súng, lưỡi lê, dao găm đánh giáp lá cà với địch. Bọn lính của sư đoàn không vận rất sợ lối đánh này. Ét-út Phô-lơ phóng viên tờ Nữu-ước thời báo đi theo quân Mỹ đã viết: "Tại làng An Thái, lính của sư đoàn kỵ binh bay Mỹ đã phải sống những giờ phút hãi hùng nhất trong đời họ. Việt cộng đã xông vào quá gần. Nếu dùng máy bay, đại bác sẽ gây thương tích cho cả lính Mỹ..".
Đó là kết quả của lối đánh gần, đánh sau lưng quân địch, khiến chúng mất cả chủ động, bắn nhầm lẫn nhau. Ngày 31 tháng 1, một đại đội Mỹ ở khu vực này đã bị bom Mỹ thả nhầm chết và bị thương 80 tên. Ngay tên đại tá Han-mo-ơ chỉ huy lữ đoàn 3 cũng chết hụt vì một quả đạn rốc két. Ngày hôm ấy, hai đại đội Mỹ thuộc tiểu đoàn 2 sư đoàn không vận số 1 đã bị các chiến sĩ tiểu đoàn 8 tiêu diệt gần hết .
Ngoài lực lượng của trung đoàn 22, đối đầu với sư đoàn không vận Mỹ còn có bộ đội tỉnh Bình Định, bộ đội huyện Hoài Nhơn, du kích và nhân dân các xã Hoài Hảo, Hoài Thanh, Hoài Châu... ngày đêm trụ bám, sống thết cùng sư đoàn. Nhiều du kích, nhiều đồng bào đã hy sinh cùng với bộ đội trong một ngách hào, trong một công sự chiến đấu. Mới có bốn ngày, giặc Mỹ đã gây ra biết bao thương tích cho đồng bào Hoài Nhơn . Hàng trăm đồng bào bị bom pháo giết chết, hàng trăm người khác bị bắt bớ, giam cầm, hàng ngàn người bị xúc tát vào các khu tập trung. Nhưng nỗi lo lắng trước hết của đồng bào Hoài Nhơn là tính mạng của gần một trăm thương binh còn đang nằm trong các làng xóm bị địch bao vây, khống chế. Làm sao có thể nuôi dưỡng, chạy chữa và đưa anh em về bệnh xá an toàn?
Trong một căn hầm ở thôn Liễu An, để cứu sống tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Bình đang kiệt sức vì mất máu, vì đói khát, chị Hai Nhân đã vắt kiệt hai bầu sữa của mình ra một mảnh vỏ dừa rồi bón từng thìa nhỏ vào đôi môi khô bỏng của Bình. Ở Quy Thuận, bác Tư, bác Bảy, chị Hòa, chị Đức đã đặt anh chiến sĩ Hoàng Bá ngồi trong chum rồi đổ khoai khô lên trên, như những người đi tản cư, khiêng Bá vượt qua ba tầng lính Mỹ đưa về đội phẫu trung đoàn trên núi Hưng Nhượng. Hàng chục thương binh khác cũng đã thoát khỏi vòng vây của giặc bằng những mưu mẹo, bằng tình thương của đồng bào.
Nói sao hết được sự hy sinh không bờ bến và tấm lòng cao cả của nhân dân Hoài Nhơn đối với chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng.
Suốt trong những ngày xảy ra cuộc đọ sức quyết liệt ở Chợ Cát, đồi 10, An Thái, đồng bào bắc Hoài Nhơn như một người mẹ hiền chở che cho các chiến sĩ. Thắng lợi của trung đoàn 22 chính là dựa vào yếu tố đó và sự thất bại của quân Mỹ trong khu vực này cũng chính là từ đó. Qua bốn ngày đêm liên tục chiến đấu với sư đoàn không vận số 1 , các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng bước đầu đã hiểu được thực chất của quân Mỹ và đã tìm ra cách đánh thắng chúng. Chúng muốn đánh bằng trận địa, bằng phân tuyến hai bên, nhưng chúng lại luôn luôn bị đánh ở thế xen kẽ, bị đánh gần bằng tiểu liên, súng trường, lựu đạn. Hiệu lực phi pháo, chỗ mạnh nhất của chúng bị giảm hẳn.
Với trung đoàn 22, sau bốn ngày đêm quần lộn với sư đoàn không vận, cán bộ, chiến sĩ đã trưởng thành rất nhanh. Trung đoàn đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các lực lượng vũ trang địa phương, dựa vào thế mạnh của phong trào cách mạng quần chúng, vào làng xã chiến đấu nên đã tạo điều kiện cho bộ đội bám trụ được trận địa, đánh bại được thủ đoạn chiến đấu của quân Mỹ.
Tuy vậy, công tác tổ chức, chỉ huy của sư đoàn trong trận đánh này cũng bộc lộ khá rõ một số mặt yếu: Đó là việc bố trí lực lượng còn dàn đều nên không tập trung giải quyết dứt điểm những trận then chốt, như trận Chợ Cát. Việc điều động lực lượng đánh bọc sườn, đánh vào phía sau đội hình địch còn chậm nên không chi viện được cho nhau, chưa khống chế và phân tán được sức cơ động của chúng
Bốn ngày đêm, hơn một ngàn lính Mỹ bỏ xác, gần năm chục máy bay bị bắn rơi. Chiến công oanh liệt đó đã đi vào lòng dân, vào các bài ca mà cho đến nay, các cô gái Hoài Nhơn vẫn hát: "Ai về Bồng Sơn quê ta mà xem kìa, xác giặc còn phơi, còn phơi ngổn ngang đầy đồng. Ai về Bồng Sơn quê ta mà xem kìa, chiến công diệt Mỹ sử vàng còn ghi quân dân ta chiến thắng/ lừng lẫy.. .cho đồng quê ta vang mãi tiếng hò khoan. ..".
Trong lúc cuộc hành quân "Cái chày" của sư đoàn không vận đang bị các chiến sĩ trung đoàn 22 và quân dân Hoài Nhơn đánh cho tơi tả thì trung đoàn 2 và 12 đứng ở Hoài Ân, Phù Mỹ cũng được lệnh bước vào chiến đấu.
Để phối hợp với trung đoàn 22, bộ tư lệnh sư đoàn ra lệnh cho trung đoàn 2 và 12 mở một đợt tiến công ở phía nam Bồng Sơn, đánh vào phía sau đội hình chiến dịch của địch.
Đêm 2 tháng 2, cối 82 và ĐKZ của trung đoàn 2 phối hợp với hỏa lực sư đoàn bất ngờ tập kích vào sân bay dã chiến ở Hòa Hội (Phù Cát), phá hủy 60 máy bay lên thẳng. Cũng đêm đó, súng cối của trung đoàn 12 đánh trúng cụm lính Nam Triều Tiên trên khu vực cầu Phù Ly và đêm sau làm tê liệt trận địa pháo 105 và 155 ở Đèo Nhông, Phù Mỹ.
Rạng sáng ngày 4, mười chiến sĩ công binh sư đoàn do trung đội trưởng Đào Huy Thuần chỉ huy lặng lẽ kết bè chuối, đưa thuốc nổ vào chân cầu Bồng Sơn, một cây cầu lớn bắc trên đường số 1 nằm ở phía nam thị trấn Bồng Sơn. Kế hoạch bị lộ, mặc dù mới chỉ đưa được một tạ thuốc nổ áp sát vào mố cầu, tiểu đội trưởng trinh sát Nguyễn Hữu Quang và chiến sĩ Nguyễn Văn Trung vẫn quyết định giật nụ xòe. Bộc phá nổ làm nước sông Lại dềnh lên, sôi sục. Nguyễn văn Trung anh dũng hy sinh giữa dòng nước. Một nhịp cầu đổ sập xuống. Trên mặt sông lúc ấy chỉ còn một mình Nguyễn Hữu Quang với hàng chục chiếc ca nô và hàng trăm tên lính địch đang hò hét, vây bắt. Tiểu đội cảnh giới trên bờ sông đã chiến đấu quyết liệt hơn một giờ, nhưng vì lực lượng quá chênh lệch nên buộc phải rút lui. Còn Nguyễn Hữu Quang, người chiến sĩ trinh sát sau này được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang, đã khéo léo lặn xuống nước, luồn lách qua khỏi những hàng rào lính, ca nô và những họng súng bắn rê theo dòng nước, trở về căn cứ an toàn.
Thấy ta chỉ đánh nhỏ, phân tán ở bắc Bồng Sơn, địch cho là sư đoàn Sao Vàng đã rút về phía sau. Tên tư lệnh sư đoàn không vận số 1 dốc toàn bộ quân lính trong sư đoàn của y vào một cuộc hành quân mới "tìm diệt" lực lượng còn lại của sư đoàn Sao Vàng mà y cho rằng đang đứng ở thung lũng An Lão. Đó là cuộc hành quân mang tên "Cánh trắng".
Trước đó một ngày, Ki-na đã phái một trung đội biệt kích Mỹ, do một tên thiếu tá tình báo chỉ huy đổ xuống thung lũng. Nhưng trung đội này vừa xuống đất đã bị du kích An Lão tiêu diệt gần hết, tên thiếu tá bị thương nặng. Sự kiện này xảy ra làm cho Ki-na có đầy đủ cơ sở để chứng minh nhận định: "sư đoàn Sao Vàng đứng ở thung lũng An Lão" của y là đúng. Để tiến hành cuộc hành quân trên, Ki-na ném vào An Lão hơn hai vạn lính Mỹ và lính ngụy.
Nhưng trớ trêu thay, giống như ở thung lũng Hội Sơn năm trước, quả đấm mà Ki-na cùng với hai vạn lính của y đã đấm vào một vùng đất trống. Sư đoàn Sao Vàng khi ấy đang chuẩn bị cho những trận đánh của mình ở các khu vực khác. Trung đoàn 22 vẫn đứng ở bắc Bồng Sơn. Quần lộn đối đầu với chúng chỉ có một đại đội công binh sư đoàn cùng với các lực lượng du kích An Lão. Con đường số 5 chạy từ cầu Bến Muồng đến quận lỵ dài hơn hai mươi ki-lô-mét dày đặc quân Mỹ - ngụy luôn luôn bị tập kích, phục kích.. Tung quân vào một hẻm núi, khe suối nào; chúng đều vấp phải chông, thò, mìn. Các đội du kích địa phương thông thuộc địa hình, phối hợp với đại đội công binh lúc ẩn, lúc hiện luôn là một mối lo sợ đối với quân Mỹ . Riêng ngày 11 tháng 2 có tám trực thăng bị bắn rơi, hơn trăm tên lính Mỹ, ngụy bị diệt. Không đạt được mục địch tiêu diệt đối phương, lại bị thương vong ngày càng nhiều, bọn Mỹ đã trút căm uất, cay cú lên đầu những người dân An Lão. Chúng cho rằng, tất cả đồng bào Kinh, Thượng ở thung lũng trù phú này đều là Việt cộng, đều đánh lại chúng.
Cho tới cuối ngày 11 tháng 2, ngày cuối cùng của cuộc hành quân, thung lũng An Lão trở nên xơ xác, hoang tàn. Một cuộc xúc tát dân tàn bạo đã diễn ra. Những chuyến trực thăng bốc đi từng gia đình, từng chòm nhà ném xuống các khu dồn xa lạ ở Phú Tài, An Khê, Ở Công Tum:.. Rồi những chuyến GMC, xe bọc thép lèn chặt người, những đoạn đi bộ dài dằng dặc...Hàng ngàn người dân An Lão đã bị cưỡng bức bỏ nhà cửa, ruộng vườn và đi như thế.
Sau này, một nhà báo phương Tây nhận xét rằng: "Cuộc hành quân "Cánh trắng" khổng lồ ở thung lũng An Lão chủ yếu đánh vào những người dân không cầm súng. Đó là cuộc hành quân đê tiện và bỉ ổi nhất", rằng: "Các đơn vị tình báo Mỹ trước đó thọc vào vùng này đã bị đánh mạnh, nhưng khi chủ lực Mỹ nhảy xuống thì đối phương đã biến mất từ bao giờ" (AP 14-2- 1966).
Như vậy, trong cả hai cuộc hành quân "Cái chày" và "Cánh trắng", sư đoàn không vận Mỹ vẫn không "tìm diệt" được sư đoàn Sao Vàng. Lần thứ nhất, chúng khẳng định toàn bộ sư đoàn ở Hoài Nhơn thì chúng chỉ gặp một trung đoàn và đã bị đánh trả quyết liệt. Lần thứ hai chúng chắc mẩm sư đoàn ở An Lão thì chỉ gặp du kích và những người dân không cầm súng. Điều này làm cho Ki-na kết súc tức tối. Chúng quyết định mở cuộc hành quân thứ ba, cuộc hành quân "Ngựa đen", vào thung lũng Hoài Ân, và tin chắc sẽ gặp lực lượng chính của sư đoàn Sao Vàng ở đó.
Lần này, Ki-na đã phán đoán đúng. Ngay sau khi các hoạt động của quân Mỹ diễn ra ở An Lão và qua các hiện tượng trinh sát của địch, bộ tư lệnh sư đoàn Sao Vàng nhận định: Địch thế nào cũng nhảy vào Hoài Ân để cứu vãn cú đấm hụt ở An Lão. Vì thế sư đoàn quyết định không điều trung đoàn 2 từ Hoài Ân ra Hoài Nhơn phối hợp với trung đoàn 22 như ý định ban đầu mà khẩn trương chuẩn bị chiến đấu ở đông-nam Hoài Ân phối hợp với trung đoàn 12 đón đánh quân Mỹ. Phó sư đoàn trưởng Huỳnh Hữu Anh và chính ủy Đặng Hòa xuống ngay các trung đoàn trực tiếp kiểm tra và chỉ huy chiến đấu . Vào đúng lúc các đơn vị đang triển khai đội hình thì bọn Mỹ ào ạt đổ quân xuống các khu vực Nhơn Tịnh, xóm Đèo, Hội Văn, Kim Sơn và ngay cả trong khu vực dốc Bà Bơi, nơi đặt sở chỉ huy sư đoàn.
Suốt ngày hôm ấy, máy bay ném bom, trinh sát, trực thăng đổ quân, trực thăng vũ trang, trực thăng cần cẩu bay bay nhộn nhạo, đen đặc trên bầu trời Hoài Ân. Đổ quân ở khu vực nào, điểm cao nào, chúng cũng dùng bom đạn bắn phá xơ xác những khu vực lân cận; tạo thành một vành đai lửa vây bọc xung quanh quân Mỹ. Dựa vào sức mạnh của bom đạn, từ những vị trí đổ quân, bọn lính Mỹ bắt đầu nống ra, lùng sục. Nhưng ở khe suối, mỏm đồi, khoảnh rừng nào chúng cũng đều gặp sự chống trả quyết liệt của đối phương.
Ở dốc Bà Bơi, các chiến sĩ đại đội công binh đã bí mật tiếp cận, tiêu diệt gọn một đại đội lính Mỹ, bảo vệ sở chỉ huy sư đoàn. Khu vực tác chiến ác liệt và dai dẳng nhất trong cuộc hành quân kể trên là khu vực suối Đá Tượng. Ngày 14 tháng 2, một tiểu đoàn quân Mỹ bị các chiến sĩ tiểu đoàn 1 (trung đoàn 2) bám thắt lưng tiêu diệt một số buộc tiểu đoàn này phải nằm chết gí ở hai bên bờ suối. Cho đến lúc ấy, bộ chỉ huy cuộc hành quân của địch mới khẳng định chúng đã tìm thấy lực lượng cơ bản của đối phương. Tên chỉ huy hành quân vội vã ra lệnh rút ngay quân Mỹ đang càn quét tại một số khu vực khác, tập trung quân dồn vào bao vây suối Đá Tượng, suối Sùng và suối Nước Làng, ba con suối lớn ở tây-nam Hoài Ân.
Suốt từ ngày 16 đến 20 tháng 2, địch điều quân và tổ chức những trận đánh thăm dò lực lượng ta, nhưng mức độ ác liệt đã diễn ra ngay từ những trận đánh có tính chất thăm dò ấy. Ngày 18, một tiểu đoàn Mỹ vừa hành quân tới một ngọn đồi tranh đã bị các chiến sĩ trung đoàn 2 bố trí đội hình chờ sẵn diệt 30 tên. Chiều hôm sau, trên điểm cao 275 lại diễn ra một trận đánh ác liệt khác. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Tài Nhuệ và chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Ngọc Ngoạn chỉ huy tiểu đoàn 2, tập kích diệt gọn một đại đội Mỹ, khai thông con đường từ trận địa nối với hậu phương trung đoàn.
Sau mỗi lần bị tập kích, bị chặn đánh, bọn lính Mỹ lại hấp tấp co cụm và dùng bom pháo giội xuống tất cả những khoảng rừng xung quanh. 25000 quả pháo, hàng trăm loạt bom B.52, B.57 đã biến dải rừng hai bên bờ suối Đá Tượng thành những khu rừng xơ xác. Càng về những ngày cuối của cuộc hành quân "Ngựa đen", mật độ bom pháo đổ xuống khu vực suối Đá Tượng càng dày đặc. Các đại đội đã phải thay thế hai ba đợt xạ thủ. Súng trường, tiểu liên của những người hy sinh dồn lại mỗi lúc một nhiều.
Tuy vậy, những trận tập kích chớp nhoáng của ta vẫn liên tục nổ ra. Ở đại đội 2 tiểu đoàn 1, sau khi đại đội trưởng và chính trị viên hy sinh, phó đại đội trưởng Hùng xốc lại đội hình,với hai chục chiến sĩ vẫn tiêu diệt gần hết một đại đội Mỹ ở suối Sùng. Một mình xạ thủ đại liên Lưu Đình Canh, trong một buổi chiều đã tiêu diệt 54 tên Mỹ.
Cách suối Đá Tượng không xa, trên khu đồi Nhơn Tịnh, ngay từ những ngày đầu của cuộc hành quân, tiểu đoàn súng máy 12,8 cũng giáng trả những đợt đánh phá ồ ạt của hơn một trăm máy bay trực thăng, phản lực và hai tiểu đoàn bộ binh Mỹ. Trong cùng một lúc, các chiến sĩ cao xạ đã phải xử trí mau lẹ tình huống: vừa bắn máy bay, vừa hạ nòng pháo xuống thấp, tiêu diệt bộ binh địch. Những bờ thành công sự vững chắc, đào đắp hết sức công phu, giờ đây phải phá đi để đánh bộ binh địch.
Cho tới 12 giờ trưa ngày 11 tháng 2, tiểu đoàn cao xạ, cái vốn phòng không mạnh nhất của sư đoàn bấy giờ chỉ còn lại bốn khẩu. Tám khẩu khác đã bị bom đạn địch phá hủy.
Nhận thấy đánh tập trung tiểu đoàn không phù hợp, cán bộ chỉ huy tiểu đoàn cao xạ đề xuất một lối đánh mới. Phân tán linh hoạt, phục kích đón lõng địch ở nhiều vị trí khác nhau. Việc cấu trúc công sự bắn cũng được cải tiến. Công sự súng đào thành hình vành khăn, chính giữa là một trụ đất vừa làm thế đứng vững chắc cho giá súng vừa là vật che đỡ cho các chiến sĩ khi đứng bắn.
Ngày 26 tháng 2, nửa tháng sau khi trận đánh ở khu đồi Nhơn Tịnh diễn ra, 40 chiếc trực thăng lại nối nhau bay ngang qua trận địa phục kích của khẩu đội 5 đại đội 1. Chờ cho tốp trực thăng gần nhất vào tầm bắn, khẩu đội trưởng Nguyễn Văn Đức ra lệnh nổ súng. Sau loạt đạn ngắn, bất ngờ, một chiếc trực thăng nổ tung. Đội hình trên không của địch rối loạn: Hai chiếc khác vòng lại. Hai loạt đạn như làn roi lửa quất lên. Cả hai chiếc bốc cháy trong cùng một lúc nhưng chúng đã phát hiện ra trận địa cao xạ. Mười chiếc trực thăng được lệnh bay vòng trở lại xả rốc két dày đặc xung quanh trận địa. Một chiến trực thăng Xi-núc khổng lồ liều lĩnh bay sà tới định đổ chụp quân ngay trên đầu khẩu đội 5, những đã bị chiến sĩ Nguyễn Thọ bằng bốn viên đạn CKC quật lộn cổ xuống đất. Trong khi ấy, vẫn bằng những loạt đạn ngắn, khẩu cao xạ 12,8 bắn cháy thêm hai chiếc trực thăng khác. Biết không thể dập nổi hỏa lực nhỏ nhoi của ối phương bằng đạn rốc két, bọn giặc đã cho máy bay phản lực mang bom xăng đến hòng đốt cháy ngọn đồi.
Được chiến công của chính bản thân mình cổ vũ, các chiến sĩ khẩu đội 5 đã dũng cảm chiến đấu, bắn rơi thêm một chiếc phản lực tại chỗ, trước khi khẩu súng thân yêu của họ bị phá hủy.
Như vậy chỉ trong vòng 50 phút, bằng 127 viên đạn, khẩu đội 5 súng máy 12,8 với cách bố trí đón lõng hết sức bất ngờ, rất hiểm đã bắn rơi năm trực thăng, một phản lực, phá tan kế hoạch đổ bộ của một cánh quân địch. Từ chiến công trên của khẩu đội 5, sư đoàn đã rút ra những kinh nghiệm quý báu: Nếu có nhiều trận địa cao xạ phục kích, đón lõng, kết hợp với các trận địa nghi binh, sư đoàn có đủ khả năng phân tán, dàn mỏng lực lượng của không quân Mỹ tiến tới làm thất bại chiến thuật đổ bộ bằng đường không của chúng.
Ngay buổi tối hôm đó, sư đoàn trưởng điện xuống khen ngợi khẩu đội 5 và tiểu đoàn cao xạ: "Các đồng chí đã anh dũng, sáng tạo trong cách đánh. Lần đầu tiên cao xạ vận dụng chiến thuật phục kích, đánh nhanh, gọn, đạt hiệu suất chiến đấu cao, mở ra cách đánh mới, phù hợp với khả năng của lực lượng phòng không sư đoàn.
Đánh bất ngờ vào sau lưng đội hình tiến công của địch, buộc chúng phải co lại đối phó là một kinh nghiệm mà sư đoàn Sao Vàng cũng như các đơn vị tiền thân của nó đã áp dụng thành công trong tất cả các chiến dịch. Giữa lúc sư đoàn không vận Mỹ đang tập trung phần lớn quân vào khu vực tác chiến của trung đoàn 2 và tiểu đoàn cao xạ, bộ tư lệnh sư đoàn lặng lẽ điều một phần lực lượng của trung đoàn 12 đánh vào sau lưng cuộc hành quân "Ngựa đen" của chúng. Đêm 16 tháng 2, các chiến sĩ tiểu đoàn 5 trung đoàn 2 chia thành nhiều mũi tập kích vào hai đại đội Mỹ ở thôn Lộc Giang, xã Ân Tường. Trong trận đánh này, các chiến sĩ đã thực hiện đúng khẩu hiệu: "Sờ thấy lưng Mỹ mới nổ súng", diệt gần hết hai đại đội Mỹ. Sáng hôm sau, một tiểu đoàn Mỹ khác đổ xuống cánh đồng Phú Ninh định giải vây cho hai đại đội trên nhưng chúng đã lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 2. Thêm 380 tên lính "kị binh bay" bỏ mạng.
Ở tây nam Bồng Sơn, đêm 18 rạng sáng ngày 19, một đại đội Mỹ bị diệt gần hết trong một trận đánh chớp nhoáng của trung đoàn 12. Tên thượng sĩ Hen-dơ-xơ bị thương, thoát chết sau trận đánh này đã kinh ngạc kể lại: "ở khắp bốn phía, Việt cộng vừa xung phong, vừa hô hét thật đáng sợ". Để đỡ đòn cho quân Mỹ ở phía sau, sáng ngày 21 tháng 2, bộ chỉ huy cuộc hành quân "Ngựa đen" đưa hai tiểu đoàn ngụy cùng với 20 xe bọc thép đi giải tỏa. Nhưng cả hai tiểu đoàn này bị các chiến sĩ tiểu đoàn 4 trung đoàn 12 diệt 300 tên, bắn cháy năm xe bọc thép khi chúng vừa hành quân đến thôn Tân Ốc, Mỹ Lộc. Không còn cách nào khác, sáng ngày 23, địch phải điều một tiểu đoàn Mỹ đến đèo Mọi, cách Tân Ốc năm ki-lô-mét. Khi tiểu đoàn 4 vừa mới hành quân từ Tân Ốc về vị trí tập kết thì lính Mỹ đã từ hai hướng tràn tới. Đơn vị đầu tiên nổ súng là tiểu đội trinh sát. Trong một khoảnh khắc, 28 tên Mỹ đã bị tiêu diệt. Từ lúc đó cho đến tối, tiếng súng nổ không dứt trên dãy núi Cổ Chai, Đèo Sung, Đèo Mọi lính Mỹ dẫn xác đến khu vực nào đều bị tiêu diệt ở khu vực đó. Bệnh xá trung đoàn và đại đội cối 81 dùng súng bộ binh diệt hơn trăm tên Mỹ. Tổ liên lạc Đặng Đình Giáp đánh lui năm đợt tiến công của một đại đội địch, diệt 54 tên, thu 12 súng. Tổ chiến đầu Hồ Viết Khanh, Nguyễn Trọng Chính, Đậu Đình Khuân đảm nhiệm chiến đấu một hướng diệt 85 tên...
Sau mỗi đợt tiến công bị đánh lui, bọn Mỹ lại dùng đạn cối đạn hóa học giội bừa bãi xuống trận địa tiểu đoàn 4. Hơi độc làm mắt mũi mọi người cay xè, cổ họng rát bỏng, nghẹt thở. Nhưng bọn giặc vừa tới, tiếng súng lại rộ lên chính xác, quyết liệt hơn. Khẩu lệnh: "Giữ xác Mỹ lại mà đánh như trung đoàn 2" được truyền tới từng công sự. Mang tính chất một trận đánh phản kích, các chiến sĩ tiểu đoàn 4 đã bố trí đội hình hợp lý, kết hợp phục kích với xuất kích ngắn, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn Mỹ, trong đó có hai đại đội bị diệt gần hết. Vài ngày sau, trung đoàn 12 lại tổ chức một trận phục kích ở khu vực Hốc Răm, Gò Thị, diệt gần 200 tên Mỹ, khiến bọn địch ở khu vực này luôn luôn sống trong trạng thái căng thẳng và sợ hãi. Ở khu vực Hoài Nhơn, trung đoàn 22 được lệnh chấm dứt đợt củng cố bảy ngày, gấp rút trở lại Hoài Châu, Hoài Hảo để bẻ gãy những cuộc tảo thanh, bình định của hai trung đoàn 40 và 41 ngụy.
Trong một trận đánh ở thôn Hy Văn, xã Hoài Châu, gần 420 tên ngụy bị tiêu diệt. Hôm sau, ngày 20 tháng 2 chúng lại bị các chiến sĩ tiểu đoàn 8 tiến công vào thị trấn Tam Quan, diệt hơn 250 tên. Trung đoàn tổ chức pháo kích vào Bồng Sơn, nơi đặt sở chỉ huy tiền phương của sư đoàn không vận Mỹ, phá huỷ 11 máy bay lên thẳng.
Cùng thời gian trên, bộ đội đặc công của quân khu và bộ đội địa phương Gia Lai tập kích vào sân bay An Khê, phá hủy 97 máy bay lên thẳng của sư đoàn này, diệt gần 500 tên Mỹ. Trong suốt quá trình cuộc hành quân "tìm diệt" của địch diễn ra, bộ tư lệnh sư đoàn Sao Vàng đã triệt để khoét sâu vào chỗ yếu căn bản của quân Mỹ là tinh thần bạc nhược, chuyên ỷ vào máy bay, đại bác, sợ đánh đêm, đánh gần để đánh chúng ở nhiều nơi, đánh cả bên trong lẫn bên ngoài, cả phía trước lẫn phía sau đội hình hành quân của chúng. Kết quả cho thấy, những trận đánh sâu, hiểm ở phía sau đã có tác dụng hỗ trợ quyết định đối với những trận đánh tiêu diệt ở phía trước. Ngày 16 tháng 3, thấy không thể tiếp tục kéo dài cuộc hành quân được nữa, bộ chỉ huy sư đoàn không vận Mỹ vội vã ra lệnh lui quân, chấm dứt 40 ngày đêm khốc liệt trên chiến trường bắc Bình Định. Sau ba cuộc hành quân "Cái chày", "Cánh trắng, "Ngựa đen" bị thất bại, Ki-na, tên tư lệnh sư đoàn không vận số 1 , người chỉ huy cánh quân lớn nhất trong cuộc phản công chiến lược đầu tiên của quân đội Mỹ, vì "đã để mất một phần ba quân số và 75 phần trăm trực thăng được trang bị" nên đã bị cách chức.
Cuộc phản công chiến lược mùa khô làn thử nhất của Mỹ trên chiến trường Khu 5 đã kết thúc một cách thảm hại. Cả ba cánh quân với năm cuộc hành quân lớn nhằm vào nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định và Phú Yên đều bị bẻ gãy. Ở nam Quảng Ngãi, 2.000 quân, 28 máy bay của 10 tiểu đoàn hỗn hợp Mỹ - ngụy trong cuộc hành quân "Diều hâu đôi" đã bị tiêu diệt ở Ba Tơ, Đức Phổ. Ở Phú Yên, 3.000 tên khác của chín tiểu đoàn thuộc sư đoàn dù 101 Mỹ, lữ đoàn lính thủy đánh bộ Nam Triều Tiên "Rồng Xanh" cùng với trung đoàn 47 nguỵ trong cuộc hành quân "Van-bua-ren" đã bị tiêu diệt. . Tại phía bắc tỉnh Quảng Ngãi, từ ngày 20 tháng 2 đến 24 tháng 4, sư đoàn 2 chủ động cắt đứt đường số l từ Chư Lai vào thị xã, giải phóng khu ấp Sơn Trung, cứ điểm Chóp Chài và chặn đánh quân Mỹ, ngụy đi giải tỏa, diệt ngót hai nghìn tên địch.
Trên chiến trường Bình Định, riêng sư đoàn Sao Vàng mùa khô 1966 đã tiêu diệt 7.480 tên, trong đó có gần 4000 tên Mỹ, 330 lính Nam Triều Tiên, bắn rơi, phá hủy 187 máy bay, bắn cháy 29 xe quân sự, sáu khẩu pháo 105, 155. Nếu tính cả lực lượng địa phương, con số địch bị tiêu diệt lên tới ngót một vạn tên, 336 máy bay bị bắn ơi và phá hủy.
Bình luận về chiến thắng của quân dân bắc Bình Định, Báo Quân đội nhân dân viết: 'Chiến thắng vang dội ở bắc Bình Định là trận chống càn lớn nhất và cũng là trận tiêu diệt nhiều quân Mỹ nhất, bắn rơi nhiều máy bay nhất từ trước tới nay. Ta không chỉ đánh từng trận, từng đợt, từng đơn vị lẻ tè, rời rạc mà đã đánh theo chiến dịch quy mô toàn diện, liên tục, không chỉ đánh từng trung đoàn mà có trận đánh với quy mô sư đoàn... Ta không chỉ có đánh phía trước mà đánh cả phía sau hậu cứ an toàn của chúng..."
Bức điện của Bộ tư lệnh Quân khu 5 gửi sư đoàn Sao Vàng nói rõ: "Chiến thắng Xuân 1966 có một ý nghĩa rất lớn. Cùng với chiến trường toàn miền, bước đầu chúng ta đã đánh bại kế hoạch phản công mùa khô của Mỹ, cũng là bước đầu quân dân ta đọ sức giành thắng lợi trong những tháng đầu của cuộc chiến tranh cục bộ. Chúng ta đã rút được những kinh nghiệm quý báu có thêm nhiều cơ sở thực tế để kiên định lòng tin tất thắng quân Mỹ trong điều kiện ác liệt và tác chiến liên tục hơn"
Trong quá trình diễn biến phức tạp của chiến dịch, sư đoàn dự kiến tương dối chính xác ý đồ và ịuc tiêu đánh phá của địch nên từng bước giành được thế chủ động trong chiến dịch. Chiến thắng 40 ngày đêm của quân dân Bình Định là một điển hình về sự hiệp đồng chiến đấu giữa bộ đội chủ lực với các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương. Địch tập trung sức hòng tiêu diệt và đẩy chủ lực ta ra xa nhưng nhờ bám được dân, bám được đất nên ta đã tiêu diệt được chúng. Trong suốt chiến dịch, ta và địch luôn ở trạng thái quần bám, giằng co. Nhiều vùng Mỹ đánh lướt nhưng chúng vừa giao cho quân ngụy bình định đã lập tức bị các lực lượng vũ trạng địa phương và phong trào quần chúng quật lại. Đến nỗi bọn ác ôn lưu vong, bọn nguỵ quyền vừa lăm le trở về đã phải chạy giạt vào các căn cứ lớn. Vùng giải phóng được mở rộng thêm. Tình trạng quân ngụy không kham nổi công việc "Bình Định nông thôn" đã bộc lộ rõ ngay trong mùa khô lần thứ nhất này.
Với cách đánh phong phú linh hoạt, lúc ẩn, lúc hiện, khi tiến công, lúc phản kích, có lúc kết hợp cả tiến công, phòng ngự và phản kích, đánh cả quân Mỹ tìm diệt ở phía trước, đánh cả quân Mỹ và quân ngụy giữ nhà ở phía sau, sư đoàn Sao Vàng và quân dân Bình Định đã loại khỏi vòng chiến dán một phần ba quân số, gần ba phần tư cơ số máy bay lên thẳng của sư đoàn không vận Mỹ. Chưa có sư đoàn Mỹ nào lại bị thiệt hại nặng nề, sức chiến đấu bị giảm sút nhiều như sư đoàn con cưng này của Lầu năm góc ngay trong keo vật đầu tiên. Sở dĩ sư đoàn Sao Vàng và quân dân Bình Định có sức trụ bám, đánh dịch liên tục là do công tác hậu cần được giải quyết một cách sáng tạo và có hiệu quả cao. Địch dùng máy bay, xe tăng đánh phá, chà xát mặt đất suốt ngày đêm, bộ đội ta vẫn có gạo ăn, có súng đạn bởi tất cả đã được giấu kín trong lòng đất, hầm giầu quân, giấu lương thực, vũ khí được bố trí sẵn ở khắp nơi, có khi nằm ngay ở dưới chân các vị trí đứng chân của quân Mỹ. Thương binh cũng được cất giấu, điều trị trong lòng đất. Điều này chứng tỏ công tác hậu cần tại chỗ đã hình thành rất sớm trên chiến trường Bình Định. Đó là hậu cần nhân dân, do dân lo liệu, do dân giải quyết, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương và sự tổ chức thực hiện của cơ quan chính quyền và cán bộ các cấp. Tuy nhiên, qua 40 ngày đêm tác chiến, sư đoàn cũng đã bộc lộ khá nhiều nhược điểm. Đó là trình độ tổ chức, chỉ huy chiến dịch của bộ tư lệnh sư đoàn: Chưa kết hợp được tập trung và phân tán, chưa tổ chức hiệp đồng chặt chẽ. Việc bố trí lực lượng và xử trí các tình huống từ cấp tiểu đoàn trở lên còn chậm, bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt địch, đội hình có rộng nhưng thiếu tập trung theo thời điểm nên diệt được nhiều nhưng không gọn đơn vị địch.
Cuối tháng 3, một đợt tập huấn rút kinh nghiệm được tổ chức trong toàn sư đoàn. Cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn đã trưởng thành thêm một bước, sức chiến đấu của từng đơn vị được nâng lên rõ rệt, Đặc biệt, không một chiến sĩ nào băn khoăn về quân Mỹ, về binh khí kỹ thuật Mỹ như khi Mỹ mới nhảy vào miền nam Việt Nam. Chiến thắng này đã trở thành niềm tin cho mọi người.
2. THAM GIA ĐÁNH BẠI CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC MÙA KHÔ LẦN THỨ HAI (1966 l967)
Sự thất bại của chính bản thân quân chiến đấu Mỹ trong mùa khô lần thứ nhất đã tác động mạnh mẽ đến nhân dân Mỹ. Làn sóng chống chiến tranh bung lên trên khắp nước Mỹ. Hàng chục vạn người ở các đô thị lớn đã dồn dập xuống đường chống chiến tranh Việt Nam. Cũng sau mùa khô năm ấy, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam được đẩy lên một cao trào mới. Điển hình là cuộc đấu tranh liên tục 76 ngày đêm của nhân dân thành phố Đà Nẵng. Đây là cuộc đấu tranh lớn nhất, kéo dài nhất của nhân dân trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền nam. Mùa hè năm 1966, Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch Đường số 9 - bắc Quảng Trị. Mở một hướng tiến công mới trên chiến trường miền Nam. Bộ tư lệnh Quân khu 5, trên địa bàn xung yếu của mình, quyết định mở chiến dịch Hè - Thu nhằm tiếp tục tiêu diệt quân Mỹ .
Trong chiến dịch này, sư đoàn Sao Vàng được lệnh hành quân vào Vĩnh Thành mở một đợt hoạt động nhằm tiêu diệt quân Mỹ ở đó, đồng thời sử dụng một số đơn vị cùng địa phương tiếp tục làm nhiệm vụ phá kế hoạch "bình định cấp tốc' của địch ở phía bắc Bình Định. Sư đoàn không thực hiện được ý đồ hoạt động ở Vĩnh Thành vì một bộ phận trinh sát pháo binh bị địch phục kích để mất sơ đồ kế hoạch dự kiến. Hướng tiến công của sư đoàn bị lộ,
Để bảo đảm hiệp đồng với chiến dịch của toàn quân khu, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định thay đổi phương án tác chiến, lệnh cho trung đoàn 2 gấp rút quay ra bắc Phù Mỹ đánh cắt giao thông trên đường số 1, đoạn từ Phủ Cũ đi Đèo Nhông. Trung đoàn 12 thọc xuống tây Phù Cát tiến công địch trên khu vực Phù Mỹ Phù Cát. Ở bắc Hoài Nhơn, tiểu đoàn 9 trung đoàn 22 được lệnh tăng cường hoạt động, làm lạc hướng và giam chân quân Mỹ ở đó..
Cũng như cuối năm 1965, sau khi tổ chức đánh Thạch Trụ, Mỹ Trang không thành công, sư đoàn nhanh chóng chuyển hướng chiến dịch lên Minh Long và đã thu được thắng lợi lớn. Lần này, sư đoàn quyết định rời Vĩnh Thành chuyển hướng xuống đồng bằng. Đây là một quyết định nhạy bén và kịp thời bởi, nếu sư đoàn cứ bám lấy quyết tâm cũ thì không những không thực hiện được ý đồ chiến dịch mà còn sẽ bị thương vong. Mặt khác, đột ngột chuyển hướng tiến công xuống đồng bằng sẽ tạo được thế chủ động mới và gây bất ngờ lớn đối với địch.
Lúc bấy giờ, ở Hoài Nhơn, những trận đánh của tiểu đoàn 9 trung đoàn 22 vẫn liên tiếp diễn ra quyết liệt. Ngày 5 tháng 5, một tiểu đoàn của lữ đoàn 3 không vận Mỹ và một tiểu đoàn ngụy có 12 xe M113 yểm trợ đã mở một đợt tiến công ồ ạt vào tiểu đoàn 9 ở thôn Trường Sơn xã Hoài Sơn . Nhưng tám lần xông vào trận địa ta là tám lần bọn giặc bị đánh bật khỏi bìa làng, bỏ lại 80 xác lính và ba xác xe M113. Đêm đó, bọn giặc bao vây làng, định ngày hôm sau sẽ tăng quân, tiêu diệt tiểu đoàn 9 cho bằng được. Nhưng vào khoảng 3 giờ sáng, tiểu đoàn 9 được du kích dẫn đường, lặng lẽ di chuyển ra ngoài vòng vây qua xóm và xóm 2 thôn Thành Sơn cách đó ba ki-lô-mét. Trời vừa mới hửng sáng, bọn giặc đã mở đợt tiến công vào làng. Nhưng chúng chỉ gặp các bà má, bà thím đang chờ sẵn giữa làng với những ngôi nhà cháy, những con heo, con bò bị đại bác bắn chết. Một cuộc đấu tranh chính trị mềm mỏng nhưng sắc sảo đã diễn ra. Các bà má, bà thím qua bọn thông ngôn, không ngớt tố cáo tội ác dã man của quân Mỹ đòi chúng phải bồi thường tài sản và không được bắn pháo bừa bãi vào trong thôn xóm nữa. Đây là một trong những cuộc đấu tranh chính trị đầu tiên trực diện với quân chiến đấu Mỹ trên chiến trường Bình Định. Biết tiểu đoàn 9 đã rút ra ngoài vòng vây bọn địch vội vã điều thêm ba tiểu đoàn Mỹ, hai tiểu đoàn nguy, một chi đoàn xe bọc thép kéo đến bao vây toàn bộ thôn Thành Sơn. Trận đánh không cân sức một trên bảy đã diễn ra dai dẳng suốt ngày. Tuy giặc chết mỗi lúc một nhiều trước bìa làng nhưng vòng vây của chúng vẫn cứ dần dần siết chặt. Nhận thấy sự bất lợi của trận đánh, ngày hôm sau, cán bộ chỉ huy tiểu đoàn lại quyết định phá vây bằng một trận tập kích chớp nhoáng vào gần sáng. Lực lượng chiến đấu đã ra ngoài vòng vây nhưng thương binh nặng đành phải bỏ lại trong những căn hầm bí mật của nhân dân Thành Sơn.
Liên tiếp ba ngày sau, bọn giặc dắt theo bọn chỉ điểm và chó béc giê về Thành Sơn sục sạo, tra khảo nhưng vẫn không thấy dấu vết gì. Những người dân kiên cường của Thành Sơn đã đem xương thịt của mình ra che chở cho các chiến sĩ. Em Hương, em Thành bị đánh chết đi sống lại, bác Hai Đạo bị bẻ gãy răng, đốt trụi râu, hàng chục người khác bị bắt trói ném lên trực thăng chở đi nhưng không ai hé răng khai báo một lời. Trong khi đó, các chiến sĩ bị thương vẫn được băng bó, nuôi giấu chu đáo trong các căn hầm nằm sâu trong lòng đất rồi bằng nhiều cách hợp pháp, bất hợp pháp, bà con Thành Sơn đã đưa được 18 thương binh về đội phẫu an toàn. Một buổi chiều, trong lúc trở lại xóm 3 Thành Sơn kiểm tra trận địa, chính ủy trung đoàn Hồ sĩ Lộc, bất ngờ gặp một toán lính Mỹ đang đi xăm hầm, tình huống trên buộc anh phải chiến đấu, anh vừa định rút chốt lựu đạn thì một bàn tay phụ nữ gầy guộc đã chặn lại và đẩy anh xuống một căn hầm đã mở nắp sẵn. Lát sau, khi bọn giặc la hét ập tới, chúng chỉ gặp một bà thím tay chân bẩn thỉu đang thản nhiên lao động. Người phụ nữ đó là thím Bồng. với sự nhạy bén và dày dạn của người dân sống trong lòng địch, thím đã xử trí rất linh hoạt, không cho đồng chí Lộc nổ lựu dạn, vừa bảo đảm an toàn cho đồng chí vừa tránh được thiệt hại không cần thiết do quân Mỹ gây ra cho địa phương. Sau một số trận đánh bất ngờ khác, tiểu đoàn 9 lại biến mất. Giữa lúc địch còn đang bực bội tìm kiếm thì chúng lại bị đòn tập kích đau ở Hoài Hảo, Tam Quan, 230 tên Mỹ bị diệt, 12 trực thăng bị phá hủy. Vài ngày sau, 40 chiến sĩ xung kích và hỏa lực của tiểu đoàn lại tập kích chớp nhoáng vào bãi đậu trực thăng Mỹ ở Tân An, Hoài Châu, phá hủy 15 máy bay, nhiều lính Mỹ và sĩ quan bị tiêu diệt.
Những trận tiến công liên tục, chớp nhoáng như vậy không chỉ diễn ra trong mùa hè mà còn xảy ra trong suốt cả mùa thu năm đó. Điển hình là trận tập kích vào căn cứ chỉ huy hành quân tiền phương của sư đoàn không vận Mỹ của trung đoàn 2 ở Núi Một, Phù Cát. Thời gian ấy hỏa lực mạnh nhất của trung đoàn chỉ còn lại hai khẩu DKZ.75 và năm khẩu cối 82. Để tiến hành trận đánh thắng lợi, cán bộ chỉ huy trung đoàn đã tập trung tất cả trung liên, đại liên, 12,7, cối 60 của các tiểu đoàn, bố trí thành nhiều cụm, nhiều tầng do trung đoàn trưởng Đỗ Phú Đáp trực tiếp chỉ huy. Trung đoàn trưởng Đỗ Phú Đáp đã giả dạng làm người nông dân vác cuốc đi làm đồng, vào sát căn cứ để quan sát và xác định các vị trí đặt hỏa lực của địch. Do đó hỏa lực ta tuy ít nhưng bắn rất chính xác, đạt hiệu suất cao. Ngay từ phút đầu, Núi Một đã bốc cháy dữ dội như một núi lửa. 60 chiếc trực thăng, 4 pháo 105, 70 xe quân sự và gần 500 tên Mỹ bị tiêu diệt. Trận tập kích đã làm suy yếu sức chiến đấu của sư đoàn không vận số 1 khiến sư đoàn này, khi bước vào cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai không còn vẻ kiêu ngạo, tự mãn như trước. Cùng thời gian trên, một trận tập kích xuất sắc của trung đoàn 12 đã diễn ra ở thôn Vạn Định, xã Mỹ Lộc. Đây là một trận tập kích không được chuẩn bị trước. Thấy địch co cụm, đảng ủy và cán bộ chỉ huy trung đoàn quyết định điều quân tiến công ngay. Các tiểu đoàn vừa hành quân chiếm lĩnh vừa làm công tác tổ chức chiến đấu. Chiến sĩ vừa đi vừa bàn cách đánh. Lúc đầu trinh sát trung đoàn báo cáo chỉ có một tiểu đoàn, đến khi nổ súng mới biết địch có hai tiểu đoàn, một ban chỉ huy trung đoàn và một chi đoàn xe bọc thép.
Trận đánh diễn ra suốt đêm. Các chiến sĩ tận dụng mọi mô đất, gốc dừa. theo ký, tín hiệu, vừa phát triển vào khu trung tâm vừa chi viện cho nhau. Trận đánh bất ngờ, táo bạo đến mức, bọn địch ở xung quanh, dù rất gần cũng không sao chi viện được. Gần 300 tên lính thuộc trung đoàn 41 sư đoàn 22 ngụy đã bị tiêu diệt trong trận đánh bất ngờ đó. Hai trận tập kích ở Núi Một và Vạn Dinh thể hiện rất rõ sự tiến bộ về trình độ tổ chức, chỉ huy và khả năng chiến đấu của các cán bộ và chiến sĩ trung đoàn 2 và 12. Bọn địch ở Núi Một không hề nghĩ rằng, đối phương lại đưa hỏa lực vào quá gần, và bọn địch ở Vạn Dinh cũng không ngờ ta có thể tổ chức được một trận tập kích nhanh đến như vậy.
Không đạt được mục đích mà còn bị thua đau trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, cùng với quyết định tăng thêm cường độ của chiến dịch "Sấm rền" của không quân đánh phá miền Bắc, chính quyền Giôn-xơn chủ trương tiếp tục xoay chuyển tình hình chiến trường miền Nam vào mùa khô thứ hai ( l966 - 1967).
Để thực hiện mưu đồ đó, Mỹ tăng quân viễn chinh từ 20 vạn lên 40 vạn vào cuối năm 1966. Nhiệm vụ "bình định nông thôn" trước đây ở hàng thứ yếu, giờ được nâng lên ngang hàng với nhiệm vụ 'tìm diệt". Quân Mỹ 'tìm diệt" cho quân ngụy "bình định". Mac Na-ma-ra than thở: "Chúng ta đang ở trong tình trạng bế tắc về leo thang chiến tranh". Tuy vậy, y cũng phải thừa nhận rằng, leo thang quận sự là biện pháp duy nhất mà Mỹ buộc phải lựa chọn trong thời gian đó.
Mục tiêu chủ yếu của Mỹ trong mùa khô 1966 - 1967 là miền Đông Nam Bộ mà trọng điểm là căn cứ Dương Minh Châu của ta. Còn ở chiến trường Tây Nguyên, Khu 5 chúng sử dụng lực lượng để kiềm chế không cho ta đánh lớn.
Bước vào mùa khô thứ hai, bọn Mỹ - ngụy đã thực hiện một chiến dịch xúc tát dân hết sức thâm độc và tàn bạo. Chúng dùng xe ủi san phẳng nhà cửa, vườn tược dân không còn cơ sở kinh tế để quay trở về làng cũ được nữa, đồng thời dùng trực thăng bốc đi từng làng, từng xã đổ xuống các khu dồn quanh các thành phố, thị xã trong vùng kiểm soát của chúng. Kết hợp với chiến dịch xúc tát dân, lập vành đai trắng, là những cuộc hành quân "chài lết"1 (Chú thích 1. Từ bộ đội và đồng bào Khu 5 thường dùng để chỉ bọn địch rải quân phục kích, sục sạo dai dẳng từ một tuần đến hàng tháng ở một địa điểm, ngăn chặn sự di chuyển của ta.) dai dẳng ở các vùng giáp ranh các khu căn cứ và dùng bom B.52, hóa chất độc tàn phá núi rừng. Đánh vào hai chỗ dựa thiết yếu của Quân giải phóng là dân và vùng căn cứ, bọn Mỹ hy vọng có thể cô lập và tiêu hao lực lượng kháng chiến để giành thế chủ động trong mùa khô 1966 - l967
Do việc xúc tát dân và tăng cường đánh phá ác liệt các hành lang, cửa khẩu của địch, sư đoàn Sao Vàng, một sư đoàn mà sự ra đời và trưởng thành gắn liền với từng người dân, từng tấc đất của miền Trung. gặp nhiều khó khăn không nhỏ. Càng ngày việc tiếp tế lương thực, đạn dược càng trở nên hiếm hoi. Trong các trận đánh, hỏa lực sư đoàn, trung đoàn đã phải bắn cầm chừng, cân nhắc từng quả đạn. Đạn súng trường, đạn tiểu liên cũng ở trong tình trạng tương tự.
Tháng 10 năm 1966. Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy 5 ra lời kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Khu 5 quyết tâm vượt mọi khó khăn, ác liệt, đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của giặc. Hưởng ứng lời kêu gọi của quân khu, đảng ủy sư đoàn họp đánh giá tình hình và quyết tâm xây dựng sư đoàn thành sư đoàn tiên tiến. Các trung đoàn quyết tâm phấn đấu trở thành "trung đoàn thép". Một đợt sinh hoạt chính tri được tổ chức sâu rộng trong toàn sư đoàn. Các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ ở Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Vinh Thành... thay nhau vừa tác chiến vừa rút lên các triền núi cao hoặc thọc xuống bờ biển dựa vào cơ sở địa phương, tổ chức học tập. Cuộc đấu tranh giữa đúng và sai diễn ra gay gắt, nhưng thắng thắn ở từng đơn vị. Các chính trị viên tiểu đoàn, đại đội đã phân tích những thắng lợi to lớn của ta trong mùa khô thứ nhất, trong các chiến dịch Xuân và Hè, từ đó đi đến kết luận, mặc dù quân Mỹ và quân ngụy có đông thêm, nhiều thêm nhưng chúng đã tăng quân trong thế thua, thế bị động. Sư đoàn, trước mắt có gặp một số khó khăn về đạn, gạo, về quân số, nhưng vẫn có thể chủ động đánh địch và thắng địch trong mùa khô sắp đến. Rồi quyết tâm đánh Mỹ của Đảng, niềm mong mỏi của Bác, niềm tin của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với những người con ở chiến trường cũng được tọa đàm thảo luận. Có người chiến sĩ nào khi nghe nhắc đến câu nói "miền Nam luôn luôn ở trong trái tim tôi" của Bác mà không bồi hồi xúc động.
So với mùa khô thứ. nhất, lực lượng xung kích chủ yếu của địch trên chiến trường Bình Định vẫn là sư đoàn không vận số 1. Nhưng lực lượng ngụy quân, ngụy quyền, đặc biệt là bọn lính địa phương thì tăng lên rõ rệt. Do đó, việc "bình định nông thôn" cũng khốc liệt hơn mùa khô trước gấp bội. Thủ đoạn đánh phá của quân Mỹ cũng có nhiều thay đổi. Mùa khô trước, quân Mỹ ồ ạt đánh lướt khiến quân ngụy không trụ nổi ở các vùng quân Mỹ vừa "tảo thanh" để gom dân, lập ấp. Vì thế, mùa khô này, quân Mỹ chủ trương đánh phá dai dẳng ở từng khu vực. Chúng dùng máy bay chở lô cốt, rào kẽm gai, máy cưa, máy ủi thiết bị các trận địa pháo, xây dựng các cứ điểm ỉê dừng chân dài ngày, làm chỗ dựa cho quân ngụy tiến hành "bình định". Cứ điểm Gò Loi, Chóp Chài, trận địa pháo Xuân Sơn (Hoài ân) và một loạt cứ điểm khác ở Bình Định đã được xây dựng theo ý đồ của Mỹ.
Bước vào mùa khô thứ hai, lực lượng vũ trang quân khu 5 được tăng cường và thế bố trí chiến dịch cũng được điều chỉnh lại. Ở mặt trận Tây Nguyên có sư đoàn 1 và 3 trung đoàn 24, 95 và 33. Ở đồng bằng trung đoàn 20 chuyển vào Khánh Hòa, sư đoàn 2 được bổ sung thêm trung đoàn 31. Các đơn vi pháo binh, công binh, đặc công được tăng cường trên tất cả các hướng. Tháng 10 năm 1966, Bộ tư lệnh Quân khu quyết định mở chiến dịch Đông - Xuân 1966 - 1967, nhằm đánh quỵ cả hai gọng kìm chiến lược "tìm diệt" và "bình định" của quân Mỹ và quân ngụy trên địa bàn quân khu. Xuất phát từ nhiệm vụ trên, trong chiến dịch Đông - Xuân hoạt động của sư đoàn Sao Vàng được chia làm hai đợt : Đợt một từ trung tuần tháng 12 năm 1966 đến hết tháng 1 năm 1967. Đợt hai kết thúc vào cuối tháng 3 năm 1967. Nhiệm vụ chủ yếu của sư đoàn Sao Vàng là tiến công đánh bại các cuộc hành quân "bình định" của quân Mỹ và quân ngụy, song song với việc đánh vào các căn cứ điểm tựa của chúng. Chiến trường của sư đoàn vẫn là bắc Bình Định mà khu vực chính là huyện Hoài ân, trọng điểm càn quét và đóng chốt của quân Mỹ.
Suốt trong những ngày sư đoàn chuẩn bị bước vào chiến dịch, bọn biệt kích Mỹ, ngụy, Nam Triều Tiên không ngừng thay nhau lùng sục vào các hẻm núi, đổ quân xuống các điểm cao, nhưng vẫn không sao phát hiện được hướng tiến công chính của sư đoàn Sào Vàng.
Ngày 17 tháng 12 năm 1966, trận đánh đầu tiên trong chiến dịch Đông - Xuân của sư đoàn đã nổ ra ở hai thôn Long Giang, Lộc Giang, huyện Hoài ân. Tại đây bọn lính của sư đoàn không vận số 1 cũng đã bị đánh tơi tả vào mùa khô năm trước. Bảy ngày trước khi bước vào trận đánh này, trung đoàn 12 còn đang ở Vĩnh Thành. Nhận lệnh, bộ đội lên đường ngay. Đây là một cuộc hành quân hiếm có trong lịch sử của trung đoàn . Bộ đội chuẩn bị vào chiến dịch không có một hạt gạo. Các cơ quan trung đoàn bộ phải gom góp từng lon mới đủ nấu cho tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 6 mỗi người một nắm cơm mang theo. Vừa hành quân cấp tốc trở lại phía bắc, các đơn vị vừa lo liệu thức ăn ở dọc đường, chủ yếu là sắn, củ mài, củ chuối và các loại rau rừng
Đến vị trí chiếm lĩnh, bộ đội vừa bám địch, vừa ra ruộng cắt lúa hoang, bới các lẫm lúa bị giặc đốt cháy hốt từng bát, từng nắm đem về bỏ vào mũ sắt giã. Nỗi đau mất dân lúc ấy thực sự ngấm vào tâm trí họ. Hai thôn Long Giang và Lộc Giang trước kia đông đúc, trù phú là thế giờ đây hoang tàn chỉ còn lại dăm cụ già ở cách xa nhau hàng trăm mét trong những túp nhà đơn sơ, hoặc những căn hầm sụt lở.
Vào một buổi chiều, các chiến sĩ trinh sát trung đoàn gặp má Diễn sống lặng lẽ trong một túp nhà xiêu vẹo. Vừa gặp, má Diễn đã òa lên khóc. Má kể cả nhà má có bảy người, thì sáu người đã bị bom đạn Mỹ giết chết Khi địch đưa trực thăng đến định xúc má đi khu dồn, má đã kiên quyết ở lại. Hàng ngày má đeo giỏ, lặn lội từ cánh đồng này sang cánh đồng khác để mò cua bắt ốc, do đó má biết rất rõ tình hình quân Mỹ hay dừng lại nghỉ mỗi khi đi qua Long Giang, Lộc Giang. Theo phương án cơ bản, dựa vào tin tức của trinh sát và ý kiến của má Diễn, trung đoàn quyết định tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 6 sẽ triển khai một trận phục kích, tiêu diệt từ một đến hai đại đội Mỹ ở khu vực Long Giang và Lộc Giang.
6 giờ sáng hôm ấy, một bày sáu chiếc trực thăng vũ trang và tám máy bay phản lực đánh phá dữ dội vào các hốc núi và phát quang những bãi cây rậm rạp dọc hai bên con đường từ căn cứ Gò Loi đi đi Phù Mỹ. 10 giờ, hai tiểu đoàn Mỹ, chia thành ba cánh quân, một từ ven núi Đồng Bịch xuyên đồng thọc xuống, một từ ngã ba Tân Thạnh theo đường lớn đi vào và một cánh từ thôn Trí Tường lặng lẽ thọc lên. Ba cánh quân nay định hợp điểm ở thôn Long Giang, sau đó sẽ phát triển đội hình càn quét ở phía đông căn cứ Gò Loi vì bọn trinh sát đã đánh hơi thấy sự xuất hiện của bộ đội chủ lực ở khu vực kiểm soát của chúng.
Ở sở chỉ huy trưng đoàn, trung đoàn trưởng Nguyễn Duy Hồng, chính ủy Lê Hoài Thanh cùng các cán bộ chỉ huy hết sức lo lắng. Rõ ràng, đây là một cuộc hành quân không bình thường của bọn Mỹ. Chúng không đi theo đường lớn mà chia thành ba mũi thọc thẳng vào sườn và sau lưng đội hình phục kích của trung đoàn. Trung đoàn trưởng quyết định đánh theo phương án hai. Lập tức, trận địa phục kích của trung đoàn được lệnh chuyển thành trận đánh phản kích. Các trận địa cối 82 của trung đoàn cũng hối hả lấy lại cự ly, sửa sang lại công sự. Nhưng hơn một giờ sau, bọn giặc vẫn trùng trình trước trận địa của hai tiểu đoàn 4 và 6. Lúc ấy, len lỏi trong đội hình của quân Mỹ là bóng dáng gầy buộc của má Diễn. Với chiếc giỏ đeo bên hông, đầu đội chiếc nón cời; quần xâu quá gối, má lội hết đoạn suối này sang đoạn suối khác. Đôi lúc má sục vào cả khu vực bọn địch đặt súng giả đò xin thức ăn, nước uống. Những tin tức của má Diễn về tới vị trí chỉ huy của tiểu đoàn 6 rất kịp thời. Má khẳng định, ít nhất, bọn Mỹ cũng còn ăn trưa và nghỉ ngơi chút đỉnh rồi mới đi. Vì nhiều nơi, má đã thấy chúng lôi đồ hộp, bánh mì và đốt xăng nấu nước uống. Những nhận định của má Diễn rất khớp với những nhận định của cán bộ chỉ huy trung đoàn. Chó tới 13 giờ 30 phút hôm ấy, trận đánh của trung đoàn 12 mới xảy ra.
Quân Mỹ vừa vào tới sát bìa làng, hai tiểu đoàn được lệnh nổ súng. Ở mũi chính diện, đại đội 61 đánh lui một cánh quân địch đông gấp bội, tiêu diệt 47 tên. Không đẩy bật được đại đội 61 , bọn địch đành quặt sang đại đội 63. Các chiến sĩ đại đội 63 đã trụ bám, bẻ gãy các mũi tiến công của quân Mỹ, đánh giạt chúng ra ngoài đồng trống, Trung đội trưởng trung đội 2 Vũ Đăng Cộng xông xáo hết chỗ này sang chỗ khác. Cộng là người đầu tiên trong đại đội sử dụng súng M.79 và cũng là người đầu tiên phát hiện thấy bọn lính Mỹ rất sợ đạn M.79, Chỉ nghe một tiếng tróc đầu nòng, chúng đã la hét nằm rạp xuống. Nắm chắc được điểm ấy, Cộng nhắc anh em thu súng, đạn M.79 của địch và hướng dẫn cách sử dụng.
16 giờ, Mỹ dùng chín trực thăng đổ thêm một đại đội Mỹ xuống hướng đánh của đại đội 63. Sau những đợt bom pháo dập thẳng xuống trận địa, đại đội 63 chỉ còn lại một nửa quân số. Trước tình hình ấy, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 quyết định tung đội dự bị chi viện cho đại đội 63.
Sự xuất hiện đột ngột của đại đội dự bị ngay cạnh sườn đội hình tiến công của quân Mỹ đã xoay chuyển được tình thế. Xạ thủ trung liên Nguyễn Văn Quý khi súng hỏng đã dùng tiểu liên diệt 21 tên.
16 giờ l5 phút, một đại đội Mỹ khác được đổ tiếp xuống phía tây trận địa đại đội 63. Chúng chưa kịp đứng vững đã bị đại đội 62 vận động tới chia cắt tiểu diệt một số lớn. Như một con bạc khát nước, vào 8 giờ, quân Mỹ lại đổ thêm một đại đội nữa, nâng tổng số quân Mỹ trong trận đánh lên tới bảy đại đội. Chúng chia thành nhiều mũi thọc thẳng vào vị trí chỉ huy của đại đội 63. Đại đội trưởng Chu Đức Liên và chính trị viên Thái Đình Hoạt đã tập hợp tất cả y tá, chiến sĩ nuôi quân, vận tải, thông tin phản kích mãnh liệt, bắn rơi và bắn cháy một chiếc trực thăng vũ trang và một chiếc Xi-núc khổng lồ chở đầy quân Mỹ. Các trung đội cũng nổ súng giòn giã. Riêng trung đội của Vũ Đăng Cộng dã tiêu diệt hàng trăm tên, dựng lên một bức tường thép trước mặt quân Mỹ: Ngày hôm đó tiểu đoàn 6 và tiểu đoàn 4 đã tiêu diệt gần hết bốn đại đội, đánh thiệt hại nặng nhiều đại đội khác, bắn rơi 12 máy bay lên thẳng. Trong chiến công ấy, có chiến công đáng kể của một người mẹ, mà sau này , các chiến sĩ trung đoàn 12 thường gọi là "Người mẹ trinh sát" đó là má Diễn. Chiến thắng Long Giang - Lộc Giang của trung đoàn 12 đã nêu một tấm gương sáng trong sư đoàn về tinh thần khắc phục khó khăn, về khả năng tổ chức, chỉ huy của cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội. Trận đánh vừa chấm dứt, chính ủy trung đoàn Lê Hoài Thanh đã dẫn một đoàn cán bộ, nhân viên cơ quan xuống hai tiểu đoàn 6 và 4. Trên lưng mỗi người mang theo một gùi cơm vắt. Đó là những hạt gạo cuối cùng của ba cơ quan trung đoàn gom góp lại. Bộ dội vừa hành quân về vị trí tập kết vừa bê cơm chia nhau ăn. Cứ ba người một vắt kèm theo dúm muối lạc. Chính ủy trung đoàn nhìn các chiến sĩ ăn cơm mà không cầm được nước mắt.
Tiếng súng ở Long Giang - Lộc Giang vừa dứt, sư đoàn đã chuẩn bị xong phương án cho trận đánh lần thứ hai, tiêu diệt căn cứ pháo binh dã chiến của Mỹ ở Xuân Sơn.
Lúc đó, chiến dịch Đông - Xuân của Quân khu 5 đang ở giai đoạn rộ. Sư đoàn 2 mở một đợt hoạt động lớn ở bắc Quảng Ngãi, tiêu diệt hàng ngàn tên địch. Trung đoàn 2, tiểu đoàn 7 sư đoàn Sao Vàng cũng hoạt động liên tục ở vùng núi nam Quảng Ngãi, đánh thiệt hại nặng nhiều đại đội Mỹ, ngụy, giải phóng một vùng đất đai bao quanh quận lỵ Ba Tơ1 (Chú thích 1. Để tăng cường lực lượng ở hướng chính của quân khu, thời gian này trung đoàn 2 và tiểu đoàn 7 (trung đoàn 22) được điều ra hoạt động ở nam Quảng Ngãi.). Ở bắc Tây Nguyên, Quân giải phóng thắng lớn ở khu vực Sa Thầy, tiêu diệt hàng ngàn tên địch.
Khác với Long Giang, Lộc Giang, Xuân Sơn là một ngọn đồi thấp. Ba phía là ruộng hoang, mưa lũ tràn về trắng xóa. Sông Nước Lương chảy ở chân đồi phía đông, nước réo sôi sục, đục ngầu. Trên đỉnh đồi, bọn Mỹ bố trí một trận địa pháo 105 và 155 12 khẩu. Ngoài lực lượng pháo binh, chúng còn tăng cường một tiểu đoàn bộ binh (thiếu), một trung đội công binh, tất cả khoảng 650 tên Mỹ.
Dạo ấy đang vào những ngày cuối năm, trời mưa tầm tã. Từ An Lão, các chiến sĩ hai tiểu đoàn 8 và 9 phải trải qua hai ngày đêm vượt rừng. lội suối mới vào tới vị trí tập kết. Đến nơi, người nào cũng ướt sũng, mệt vì đói và mất ngủ. Một đại đội chỉ còn từ 35 đến 40 tay súng.
So với hai tiểu đoàn địch trong căn cứ có công sự, lô cốt dã chiến, số lượng ấy quả là quá chênh lệch. Nhưng biết chắc bọn địch mới ở Tây Nguyên về không thông thạo địa hình, lại chủ quan. đảng ủy và cán bộ chỉ huy trung đoàn 22 hạ quyết tâm diệt căn cứ này
Mọi việc chuẩn bị được hoàn thành vào đêm ngày 23. nhưng trưa ngày 24, trời đột nhiên đổ mưa lớn. Nước lũ tràn về ngập đầy các cánh đồng bộ đội phải vượt qua để vào chiếm lĩnh trận địa. Sau khi hội ý, thường vụ đảng ủy trung đoàn quyết định lui giờ nổ súng vào đêm 25, rạng ngày 26. Việc hoãn giờ nổ súng cũng căng thẳng quyết liệt như khi phát lệnh nổ súng. Bởi vì, bộ đội đã vào tới vị trí tập kết rồi dừng lại hai ngày liệu có giữ được bí mật trong khi máy bay trực thăng trinh sát địch thường xuyên quần lượn,. xoi mói trên đầu. Rồi bom, pháo không ngớt giội xuống xung quanh căn cứ tạo thành một vành đai chết để bảo vệ an toàn cho quân Mỹ. Cuối cùng trung đoàn quyết định chuyển đội hình vào sát căn cứ cách địch từ 200 đến 500 mét để đón thời cơ nổ súng tiến công và tránh phi pháo sát thương.
Với quyết định đó, cán bộ chỉ huy trung đoàn 22 đã tạo được thế bất ngờ lớn. Địch không thể lường được cách chúng chỉ vài trăm mét đối phương đã nằm chờ sẵn trong các khe, bụi. Chúng rất yên tâm bởi những loạt bom và pháo không ngớt dập xuống các vị trí mà chúng cho rằng, muốn tiến đánh Xuân Sơn, đối phương không thể không tập kết giấu quân ở đó.
Nửa đêm ngày 25 tháng 12 trung đoàn trưởng Sơn Diệp phát lệnh nổ súng. Từng chùm đạn cối 82, ĐKZ75 lập tức trùm lửa lên mặt đồi, Các súng máy cao xạ cũng hạ nòng, quét đạn tới tấp. vào các dãy nhà bạt căng san sát như nón úp trong căn cứ địch. 5 phút sau, đợt tập kích hỏa lực vừa dứt, từ ba hướng, các chiến sĩ xung kích chia làm sáu mũi ào lên. Tiểu đội trinh sát thọc sâu của Nguyễn Văn Bình lướt rất nhanh về phía trận địa pháo 155 đặt giữa đỉnh đồi. Quan sát trong các nhà bạt, Bình thấy xác lính Mỹ chết nằm đầy. Thì ra trời mưa làm các công sự địch ngập nước buộc bọn lính phải nằm phơi ra trên mặt đất dễ hứng những loạt đạn tập kích bất ngờ của ta.
Sáu tiểu đội thọc sâu như sáu mũi dao nhọn cắm vào đội hình của địch. Nhưng con thú bị thương bao giờ cũng là con thú nguy hiểm. Chỉ dăm phút sau, các hỏa điểm địch đã ngóc dậy bắn như vãi đạn vào đội hình mũi chủ yếu. Chiến sĩ Nguyễn Xuân Lộc, người đoàn viên thanh niên ưu tú đang cầm lá cờ "Quyết tâm lập công" xông lên bỗng lảo đảo ngã xuống. Từ phía sau, đại đội trưởng Khoa lao tới đỡ Lộc, đặt sang một bên rồi tiếp tục cầm ngọn cờ dẫn đại đội xông lên. Khoa vừa nhảy qua một đoạn hào thì trúng đạn ngã xuống. Sau lưng Khoa, phó trung đội trưởng Vũ Minh chồm tới, quật vào ổ súng máy địch hai quả lựu đạn rồi đỡ lấy ngọn cờ. Chưa kịp xốc đội hình đánh tiếp, Mình đã lại đổ xuống bên cạnh đại đội trưởng bởi một quả lựu đạn. Vừa lúc ấy, phó chính trị viên Thiệu kịp thời dẫn trung đội 3 vòng qua phía sau, lần lượt dập tắt những ổ đề kháng của địch. Lá cờ lỗ chỗ vết đạn và đẫm máu của Lộc, Khoa, Minh đã được Thiệu giương lên. Trong ánh đèn dù chập chờn, lá cờ như một ngọn lửa đỏ vẫy gọi các chiến sĩ xốc tới. Vào phút thứ chín của trận đánh lá cờ đã được cắm lên nòng khẩu pháo lớn của địch trên đỉnh ngọn đồi.
Ở nửa căn cứ bên kia, đại đội 83 cũng đang đánh Mỹ bằng tiểu liên và lựu đạn. Một chiến sĩ chợt nhìn thấy một tên Mỹ ngồi trong công sự nước ngập tới thắt lưng, giơ thẳng súng lên trời bắn hết băng này đến băng khác như một kẻ mất trí. "Giơ tay lên", Người chiến sĩ lao đến, mũi lê chĩa vào tấm lưng to bè của nó. Tên Mỹ ngừng bắn, quay lại trố mắt nhìn, khuôn mặt bê bết bùn đất. Sực nhớ mình đã hô tiếng Việt, anh chiến sĩ hấp tấp chữa lại: "Hơ-xen-dơ" Anh hô bằng tiếng Mỹ, đã học thuộc lòng từ trước. Lúc ấy tên Mỹ mới đứng dậy, run rảy giơ hai cánh tay lông lá lên trời, khẩu AR.15 rơi xuống dưới chân nó.
Sở chỉ huy trung đoàn nhận được báo cáo: Hướng chủ yếu tiểu đoàn 8 đã chiếm được khu trung tâm chỉ huy và một phần trận địa pháo địch. Riêng mũi vu hồi đang gặp khó khăn. Hướng tiểu đìan 9 phát triển thuận lợi. Lập tức, lực lượng dự bị được tung vào hướng vu hồi. Vào phút thứ 15 của trận đánh, tiểu đoàn 9, tiểu đoàn chiến thắng Chợ Cát, Thành Sơn đã báo cáo : Toàn bộ quân địch bị tiêu diệt. Bắt sống một tên Mỹ.
20 phút sau, bọn Mỹ điên cuồng giội pháo xuống khu đồi Xuân Sơn. Cũng ngay đêm ấy , chúng cấp tốc điều lữ đoàn 3 sư đoàn 25 phối hợp với sư đoàn không vận số 1 đi giải tỏa. Suốt trong năm ngày đêm đạn đại bác, rốc két và bom đánh nát tất cả các khu rừng còn sót lại. Từng tốp trực thăng bốc lên, đổ xuống đen đặc. Những trận đánh vô cùng khốc liệt lại diễn ra. Trời vẫn mưa tầm tã. Bom pháo địch vẫn điên cuồng trút xuống đội hình của trung đoàn. Bộ đội, thương binh không còn gì để ăn nữa. Đôi lúc gặp được một tổ du kích hoặc một vài đồng bào địa phương đem cho ít gạo nhưng không thể nào nấu nổi, đành chia cho mỗi người một nắm nhai sống giữ sức.
Sang đến ngày thứ sáu, trung đoàn quyết định chấm dứt trận đánh. Chiều hôm đó, một trung đội bộ dội huyện Hoài ân tìm bắt liên lạc được với trung đoàn. Cả trung đoàn chia thành nhiều mũi, xuyên rừng, vượt qua những hàng rào bom đạn dày đặc, trở về căn cứ. Trận tập kích Xuân Sơn đã kết thúc giòn giã năm 1966. Nó đã giáng một đòn nặng nề vào chiến thuật "điểm tựa", "đóng chốt" để càn quét dai dẳng của quân Mỹ
Trong tổng kết của Bộ tư lệnh Quân khu 5, trận Xuân Sơn được đánh giá là một điển hình về tập kích tiêu diệt gọn tiểu đoàn Mỹ, là trận đánh có giá trị chiến thuật cao, mở ra khả năng cho trung đoàn chủ lực thực hiện rộng rãi hình thức tập kích diệt gọn từng tiểu đoàn Mỹ. Để tiến hành thắng lợi trận đánh kể trên, các đội trinh sát các cán bộ chỉ huy sư đoàn, trung đoàn 22 đã lặn lội hàng tháng ròng xung quanh căn cứ địch. Các chính trị viên đại đội, tiểu đoàn, các cơ quan chính trị đã tổ chức thành công các đợt sinh hoạt tư tưởng, khơi dậy, nung nấu ý chí quyết chiến, quyết thắng của từng chiến sĩ. Hình ảnh lá cờ đẫm máu, đầy vết đạn đã được truyền qua hết tay người này đến tay người khác cho đến khi tung bay trên nòng pháo địch đã thể hiện rõ khí phách, ý chí tiến công triệt để của trung đoàn 22. Kết hợp với sức mạnh của ý chí là việc lập phương án tác chiến chính xác, cũng như quá trình chỉ huy xử trí tình huống trước và sau trận đánh của cán bộ chỉ huy trung đoàn, việc đưa đội hình vào sát căn cứ nằm đợi và thời điểm tung lực lượng dự bị chi viện cho mũi vu hồi kịp thời là những yếu tố quyết định thắng lợi của trận tập kích.
Tin chiến thắng Xuân Sơn bay về đúng lúc Đại hội chiến sĩ thi đua và dũng sĩ diệt Mỹ toàn quân khu lần thứ hai đang tiến hành sôi nổi. Đại hội nhất trí công nhận trận tập kích trận địa pháo hỗn hợp Xuân Sơn là một kỷ lục, ngọn cờ đầu về diệt gọn đơn vị Mỹ của toàn quân khu năm 1966. Với chiến thắng Xuân Sơn trung đoàn 22 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng hai.
Hai mùa khô đã trôi qua. Từ những trận đụng độ đầu tiên ở thung lũng Thuận Ninh, Hội Sơn, Chợ Cát... mang tính chất chống càn đến những chiến dịch nhỏ, những đợt hoạt động, những trận hoàn toàn chủ động tiến đánh quân Mỹ như ở Núi Một, Long Giang - Lộc Giang, Xuân Sơn, sư đoàn Sao Vàng đã tiến một bước dài từ chỗ còn phải xác định quyết tâm dám đánh Mỹ đến chỗ tìm ra cách đánh thắng Mỹ trong mọi tình huống, mọi điều kiện, cả trong và ngoài công sự. Có thể nhận thấy tỉnh Bình Định, nơi ra đời và đứng chân của sư đoàn Sao Vàng là một địa bàn nóng bỏng trong số những vùng nóng bỏng ở miền Trung Trung Bộ. Tại đấy, sư đoàn Sao Vàng non trẻ vừa bước vào chiến đấu đã đương đầu ngay với một đối thủ mạnh nhất của quân đội Mỹ lúc bấy giờ là sư đoàn không vận số 1. Sư đoàn đã bước đầu làm thất bại chiến thuật đổ bộ đường không bằng máy bay lên thẳng của Mỹ. Sư đoàn không những đã đánh thắng chúng về quân sự trong cả hai mùa khô mà đã cùng cán bộ địa phương tổ chức phát động nhân dân đấu tranh chính trị thắng lợi đối với quân viễn chinh Mỹ.
Cuộc chiến đấu với quân Mỹ, chủ yếu với sư đoàn không vận số 1 trên chiến trường Bình Định càng về cuối mùa khô thứ hai càng trở nên gay gắt, quyết liệt. Để tách sư đoàn ra khỏi dân, địch đã thực hiện một âm mưu thâm hỉêm: tàn phá nông thôn, triệt hạ mọi làng xã, dồn đẩy người nông dân vào thành phố. Với âm mưu đó, chúng đã gây không ít khó khăn cho sư đoàn. Đói, rét, bệnh tật, nhưng trong tình huống gian nan ấy. sư đoàn vẫn kiên định tư tưởng chỉ đạo tiến công, tiến công liên tục kiên quyết không phòng ngự. Có thể nói tinh thần khắc phục khó khăn trong giai đoạn này của cán bộ, chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng thật đáng kể. Nhiều trận đánh như Long Giang - Lộc Giang. Xuân Sơn, các chiến sĩ vào trận, lương thực chủ yếu dựa vào rau rừng và nước suối. Cũng trong những ngày này, các chiến sĩ càng thấm thía vai trò quyết định của nhân dân trong chiến tranh. Không có nhân dân hỗ trợ, nuôi dưỡng, sư đoàn không thể nào tồn tại và chiến thắng quân Mỹ được.
Hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ trong hai mùa khô, sư đoàn đã rút được nhiều kinh nghiệm về tổ chức chiến dịch cũng như vận dụng chiến thuật và thủ đoạn chiến đấu với quân Mỹ. Thời gian đầu, chúng định dùng nhiều quân, nhiềư hỏa lực, đánh ồ ạt, đánh quyết liệt để tìm diệt sư đoàn, nhưng chúng lại gặp một đối phương lúc ẩn lúc hiện, đặt chân đến chỗ nào chúng cũng bị tiêu hao, tiêu diệt ở chỗ đó. Trong mùa khô thứ nhất, các đơn vị trong sư đoàn được trải ra trên một bình diện rộng tạo thành thế cài răng lược rất hiểm hóc. Nhưng cách bố trí lực lượng như vậy chỉ tạo được bề rộng mà thiếu tập trung nên không tổ chức được những trận đánh tiêu diệt lớn
Bước sang mùa khô thứ hai, khi quân Mỹ đặt ngang kế hoạch "tìm diệt" với "bình định", xây dựng nhũng điểm tựa vững chắc. đứng chân dài ngày, tạo thế cho quân ngụy bình định, sư đoàn đã chủ động đánh thẳng vào nhữn điểm tựa ấy bằng những trận đánh tập trung trung đoàn và đã giành được thắng lợi lớn
Kết thúc hai mùa khô phản công chiến lược của Mỹ, sư đoàn Sao Vàng đã được tặng thưởng huân chương Thành đồng hạng nhất và lá cờ truyền thống mang dòng chữ: "Trung dũng kiên cường, lập công Đông Xuân"
Làm lễ đón nhận phần thưởng cao quý này, các chiến sĩ đều cảm thấy chính nhân dân Bình Định, Quảng Ngãi, những người mẹ, người cha, người chị, những em nhỏ đã trụ bám kiên cường giành từng hạt gạo, giọt sữa, dòng máu cho sư đoàn, những chiến sĩ bộ đội địa phương. dân quân du kích dũng cảm và thủy chung, chính những người thân yêu ấy là những người xứng đáng nhất đón nhận phần thưởng cao quý đó.
3. MÙA XUÂN 1968 - ĐÁNH QUỴ LỮ ĐOÀN "KỴ BINH THIẾT GIÁP" 173 MỸ
Mùa hè năm 1967,
Mặc dù bị thất bại trong hai mùa khô phản công chiến lược nhưng với tiềm năng quân sự lớn và bằng các thủ đoạn xúc tát dân tàn bạo, địch đã lập được chính quyền bù nhìn ở hầu khắp các khu vực đông dân tỉnh Bình Định và biến vùng giáp ranh, bàn đạp cùa sư đoàn Sao Vàng thành vùng trắng.
Đó là một trong những thời kỳ khó khăn, căng thẳng của chiến trường Bình Định. Ở những vùng địch tạm thời kiểm soát, quân bình cứ ba người dân có một tên lính trực tiếp kìm kẹp. Những làng mạc. thị trấn, thành phố phút chốc trở nên chật chội bởi dân ở các vùng nông thôn và gỉáp ranh bị dồn đến. Hàng trăm khu dồn được thiết lập. Người dân sống chui rúc sau những hàng rào kẽm gai. Đi làm hoặc trở về đều phải qua trạm kiểm soát Ban đêm mỗi nhà phải đặt một ngọn đèn dầu trước cửa. Ra khỏi nhà phải lên tiếng báo trước. Nhiều người không kịp nói đã bị bọn lính rình rập, bắn chết ngay tại chỗ, ở những vùng giáp ranh, nơi trước đây là làng mạc, vườn tược, giờ chỉ còn lơ thơ một vài bờ tre, một ngọn dừa. Lính Mỹ, lính Nam Triều Tiên chài, lết dai như đỉa. Còn vùng rừng núi, thì B.52, thuốc độc hóa học đã biến những khu rừng đại ngàn thành những khu rừng khô trắng. Ngày nào cũng như ngày nào, sau mỗi đợt B52 rải thảm. từng bầy trực thăng vũ trang thay nhau, quần lượn trên những rừng cây trụi lá, sẵn sàng xả súng hoặc đổ quân xuống bất kỳ nơi nào.
Sư đoàn Sao Vàng, sau hai năm chiến đấu liên tục, quân số mỗi ngày một hao hụt, gạo, đạn mỗi ngày một ít. Những loại rau rừng, mỗi ngày một khan hiếm. đến mức sư đoàn phải ra chỉ thị cho bộ đội chỉ được ăn lá già, tuyệt đối cấm không được hái lá non và nhổ cả cây các loại rau đại ấy để khai thác lâu dài. Đói, rách, bệnh tật, bom dạn cứ bám riết lấy từng chiến sĩ. Trước tình hình đó, đảng ủy và bộ tư lệnh sư đoàn kết hợp chặt chẽ với tỉnh ủy, tỉnh đội Bình Định chủ trương phát huy mạng lưới hậu cần, tuyển quân ở các vùng địch kiểm soát và tích cực khai thác hậu cần tại chỗ. Mặt khác, chủ động phá thế kìm kẹp của dịch, cài lực. lượng xuống đồng bằng, xuống vùng sâu, dựa vào dân, bám dân để tồn tại và đánh địch. Đây là một quyết định cực kỳ quan trọng và chính xác bởi nếu cứ tiếp tục cho bộ đội đứng ở trên núi thì đến một lúc nào đó sẽ không còn đất và có điều kiện để đứng nữa. Trong hoàn cảnh lúc đó, đưa lực lượng xuống hẳn vùng sâu là một việc hết sức táo bạo và rất nguy hiểm. Nhưng do hiểu dân, nắm được dân nên sư đoàn quyết tâm cắm trước một phần ba lực lượng xuống đồng bằng Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài Nhơn và phát triển sâu vào phía nam tỉnh. Có dân là có tất cả. Hơn nữa khi lực lượng ta xuất hiện và hoạt động ở giữa hậu phương địch. buộc chúng phải co và đối phó.Từ đó, những cuộc hành quân càn quét ở vùng giáp ranh và trên núi phải giảm bớt, tạo điều kiện cho các bộ phận còn lại mở rộng bàn đạp, khai thông các hành lang tiếp tế, vừa đánh địch,vừa tăng cường cơ sở sản xuất tự cấp, tự túc.
Giữa tháng ba, các đơn vị lần lượt xuyên rừng, vựợt qua vùng giáp ranh xuống đồng bằng. Hai trung đoàn 2 và 12 xuống Phù Mỹ, Phù Cát. Trung đoàn 22 xuống đông Hoài Nhơn. Chỉ sau nửa tháng hoạt động, ngụy quân, nguỵ quyền ở Hoài Nhơn đã bị quét đi từng mảng. Nhiều khu dồn bị phá vỡ. Ở các thôn xã mới giải phóng, các đội du kích gấp rút được thành lập, nhiều xã đã có trung đội du kích đảm nhiệm một mũi, một hướng trong các trận đánh phối hợp với bộ đội chủ lực.
Hoảng hốt trước sự xuất hiện của sư đoàn Sao Vàng giữa đồng bằng, bộ chi huy quân sự Mỹ vội vàng ra lệnh cho quân Mỹ kết thúc sớm cuộc càn ở hai bên bờ sông Hrê (tây Quảng Ngãi kéo về đối phó ở Bình Định, mặc dù lúc đó, sư đoàn Sao Vàng chưa tổ chức một trận đánh lớn nào.
Ngày 21 tháng 8, lữ đoàn 3 của sư đoàn không vận số 1 được lệnh đổ bộ xuống vùng đồi tranh Cát Sơn, huyện Phù Cát. Nởng vừa đặt chân xuống, lữ đoàn này đã bị hai tiểu đoàn của trung đoàn 2 đón đánh, diệt 210 tên. bắn rơi năm trực thăng, cuộc giải tỏa đồng bằng Phù Mỹ của lữ đoàn 3 chưa kịp hình thành đã bị đập tan.
Giảm hẳn lòng tin vào sự chi viện của quân Mỹ, bọn ngụy quân, ngụy quyền ở vùng đông Phù Mỹ trở nên lúng túng, bị động. Chớp thời cơ, sư đoàn chủ trương dùng đại đội đặc công, một bộ phận trung đoàn 12 cùng với địa phương tiến công quận lỵ Phù Mỹ. Sau hai tiếng đồng hồ, các chiến sĩ trung đoàn 12 đã đánh bật tất cả các ổ đề kháng của địch, làm chủ quận ly một đêm và tiêu diệt hầu, hết bọn tề điệp ở các xã Mỹ Tài, Mỹ Thọ. Sự kiện này dã gây chấn động lớn ở vùng đồng bằng ven biển Bình Định. Nhiều nơi vừa nghe tin bộ đội Sao Vàng đã về, bọn ngụy quân, ngụy quyền đã vội vã tháo chạy.
Hiệp đồng chặt chẽ với hướng nam, các chiến sĩ trung đoàn 22, trong đêm 17 tháng 8 cũng tiến công bảy ịi trí quanh thi trấn Bồng Sơn, Tam Quan và tiếp tục trụ lại ở đông đường (khu vực xã Hoài Thanh, Hoài Hương) vừa đánh địch vừa phát động quần chúng.
Thời gian này, tổ chức được một đợt tiến công vào sào huyệt địch rất công phu. Từ việc chuẩn bị chiến trường, đường hành quân đến việc giấu quân đều phải tính toán hết sức chi ly, chính xác. Đưa một tiểu đoàn chủ lực vào sát căn cứ địch, giữa một hệ thống đồn bốt dày đặc, bịt mắt được một mạng lưới tề điệp nhung nhúc của địch không phải là một điều đơn giản. Phải dựa vào dân, và chỉ có nhân dân mới làm được công việc ấy. Nhân dân phát hiện bọn tề điệp, nhân dân đi trinh sát, dẫn đường, nhân dân che giấu bộ đội.
Do tạo được thế đứng ở đồng bằng, mọi hoạt động của sư đoàn dần dần chuyển sang thế chủ động. Thắng lợi cơ bản của sư đoàn trong mùa thu năm 1967 là đã tạo được bàn đạp ngay trong lòng địch. Nhờ có dân, biết dựa vào sức dân, sư đoàn đã vượt qua được những khó khăn tưởng chừng như không thể nào vượt qua nổi. Ngược lại, nhờ có sự hoạt động của sư đoàn, phong trào địa phương cũng phát triển lên một bước mới. Hàng loạt các thôn xã ở Hoài Nhơn, Hoài ân, Phù Mỹ, Phù Cát... đã giữ được phong trào.
Thời cơ chuẩn bị cho những trận đánh tập trung lớn hơn, tiêu diệt sinh lực địch lớn hơn đã mở ra trước mắt sư đoàn.
Cuối mùa đông năm 1967 , trên chiến trường toàn miền, chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ đã bị thất bại thêm một bước nghiêm trọng. Ở miền Bắc, đế quốc Mỹ vẫn đang ra sức đẩy cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân lên những nấc thang mới, nhưng chúng vẫn không xoay chuyển được tình thế. Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết định động viên những nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, đưa cách mạng miền Nam lên bước phát triển mới bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt vào mùa Xuân năm l968
Ở Khu 5, quyết tâm thực hiện chủ trương nói trên, Khu ủy và Quân khu ủy chủ trương sử dụng cả ba thứ quân tiến công liên tục, mạnh mẽ cả xuân và hè 1968, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền, tiêu diệt nặng sinh lực Mỹ, kết hợp với những cuộc nổi dậy rộng khắp và quyết liệt của quần chúng, giành chính quyền về tay nhân dân. Sư đoàn Sao Vàng, mặc dù đang gặp rất nhiều khó khăn, vẫn xác định tháng 12 năm 1967 phải là tháng chuyển biến mạnh mẽ về tình hình đơn vị và địa bàn hoạt động vùng sâu.
Một đợt sinh hoạt chính trị sôi nổi được tổ chức trong toàn sư đoàn. Trung đoàn 12 ở sâu nhất (giáp Quy Nhơn) dấy lên phong trào: "Tình nguyện vào đội quyết tử". Đội "Xung kích Ngô Mây"1 (Chú thích 1 . Ngô Mây quê ở Bình Định, người anh hùng ôm bom ba càng lao vào đội hình địch trên đường số 19 trong cuộc kháng chiến chống Pháp.) do trung đoàn trưởng Nguyễn Duy Hồng làm đội trưởng. Các chiến sĩ muốn trở thành chiến sĩ xung kích Ngô Mây đều phải viết đơn và tuyên thệ trước cờ Đảng. Kết hợp. với sư đoàn Sao Vàng, tỉnh ủy và tỉnh đội Bình Định cũng tích cực chỉ đạo củng cố lực lượng vũ trang và các tổ chức quần chúng, chuẩn bị vũ khí, chờ ngày xuống đường đấu tranh, diệt ngụy, cô lập Mỹ
Không khí chuẩn bị náo nức như sắp bước vào một ngày hội lớn. Song song với việc củng cố lực lượng, sư đoàn liên tiếp tiến công địch để giành địa bàn ở vùng sâu. Ngày 5 tháng 12, các chiến sĩ tiểu đoàn 6 trung đoàn 12 đã táo bạo đột nhập trường huấn luyện Gò Trạm tiêu diệt 150 tên sĩ quan và học viên sĩ quan. Tiểu đoàn 5 bất ngờ tiến công thị trấn Đập Đá (An Nhơn) diệt gọn một trung đội dân vệ, bắt sống một trung đội khác. Chiến sự loang ra nhiều nơi uy hiếp trực tiếp phía bắc và tây-bắc thị xã Quy Nhơn.
Để ngăn chặn những cuộc tiến công tiếp theo của đối phương, bộ chỉ huy quân sự Mỹ vội vã đưa sư đoàn "Mãnh Hổ" Nam Triều Tiên vào hoạt động. Bọn lính đánh thuê Nam Triều Tiên rất tàn bạo. Đi đến đâu chúng cũng thực hiện chính sách đốt sạch, phá sạch, giết sạch. Đội quân đánh thuê này đã gây ra biết bao tội ác ở các thôn xã dọc hai bên đường số 19. Ngày 1 5 tháng 5 năm 1967, một tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên dồn đồng bào xã Bình Quang, huyện Bình Khê ra bờ sông Côn tàn sát rất dã man hơn năm trăm người dân, cả cụ già, em nhỏ, phụ nữ có thai đều ngã gục dưới làn đạn tội ác của chúng.
Sáng ngày 24 tháng 12, một tiểu đoàn Nam Triều Tiên phát hiện được bệnh xá và một bộ phận trung đoàn bộ trung đoàn 12 ở dãy núi Bà, chúng liền bu ngày lại. Tiểu đoàn 5 , lúc đó đang ở một khu vực lân cận được lệnh hành quân cấp tốc tới bảo vệ cho cuộc di chuyển của bệnh xá ra khỏi vòng vây của giặc.
Nhắc tới những ngày hoạt động gian khổ ở phía nam Bình Định, các chiến sĩ trung đoàn 12 không sao quên được núi Bà. Đó là một dãy núi lớn nằm giữa vùng đồng bằng ven biển Phù Cát. Với những hang đá lớn kế tiếp nhau, nơi đây đã trở thành một căn cứ vững chắc của các~ lực lượng địa phương, tỉnh, huyện đồng thời cũng là nơi xuất phát của những trận đánh vào vùng đông của trung đoàn 12. Suốt bốn, năm năm nay, bom đạn và thuốc độc hóa học Mỹ không ngừng trút xuống dãy núi hiểm trở này, nhưng vẫn không sao hủy diệt được màu xanh trong các hốc núi. Núi Bà thường xuyên là đối tượng càn quét của bọn lính Nam Triều Tiên. Trong nhiều cuộc càn, chúng dùng xăng, hóa chất độc phun xuống các hang hốc. Nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh dưới đáy hang vì bệnh tật, đói khát, đã nói lên tấm lòng kiên trung bất khuất của chiến sĩ và đồng bào vùng đông Bình Định.
Ngày hôm lấy, tiểu đoàn 5 vừa hành quân đến một cánh rừng non dưới chân núi thì gặp địch. Lập tức bộ đội triển khai đội hình chiến đấu. Phó chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Hữu Thiềng và đại đội trưởng Đoàn Liên như hai con thoi chạy đi, chạy lại tổ chức cho đại đội 52 đánh địch. Trận đánh nhanh và gần đến mức các trận địa pháo Nam Triều Tiên ở Phù Cát. An Nhơn đã có sẵn tọa độ cũng không kịp phản ứng. Toàn tiểu đoàn địch bị đánh tan tác, trong đó có một đại đội bị tiêu diệt gọn và năm tên bị bắt sống.
Trận núi Bà là một trận đánh xuất sắc của một đại đội ta diệt gọn một đại đội Nam Triều Tiên. Trong điều kiện gặp địch đột ngột giữa đường, không có công sự, các chiến sĩ đại đội 52 đã lợi dụng địa hình, đánh gần, đánh nhanh, hiệp đồng giữa các trung đội rất chặt chẽ. Cán bộ đại đội chỉ huy vững vàng, linh hoạt. Trong điều kiện chiến đấu bất ngờ, cán bộ đại đội, trung đội, tiểu đội đều nắm rất chắc đơn vị. Trước khi xảy ra trận đánh. tiểu đoàn 5 đang ở vào tình trạng thiếu gạo, thiếu thuốc nghiêm trọng. Từ chỗ mỗi người mỗi ngày một lon gạo, tới chỗ mười người một lon. Riêng đại đội 52, hôm đó chỉ còn một lon gạo rang dành cho những đồng chí đau yếu. Trong điều kiện thiếu đói, các chiến sĩ vẫn đánh thắng đối tượng địch vào loại sừng sỏ. Điều đó nói lên phẩm chất chính trị vững vàng, tinh thần hy sinh không bờ bến và bản lĩnh chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ sư đoàn.
Sau trận đánh xuất sắc kể trên, đại đội 52 được vinh dự nhận lá cờ lưu niệm của nhân dân Triều Tiên gửi tặng. Lá cờ thêu dòng chữ: "Mặt trận tổ quốc Triều Tiên tặng đơn vị khá nhất tiêu diệt bọn lính đánh thuê Pắc Chung Hy". Thời gian đó, ở phía bắc Bình Định, trung đoàn 22 vẫn cùng các lực lượng địa phương bám chắc địa bàn đông Hoài Nhơn. Ngày 13. tháng 12 , bọn địch ở thi trấn Tam Quan bị tiến công chỉ sau 30 phút, 20 tên ác ôn khét tiếng bị diệt cùng với hai trung đội dân vệ. Nhà tù thị trấn bị phá vỡ; 600 đồng bào, cán bộ bị giam cầm được giải phóng. Địch đưa một tiểu đoàn Mỹ đến giải tỏa. Tiểu đoàn này đã bị trung đoàn 22 đánh thiệt hại nặng.
Trung đoàn 2 sau một thời gian ra nam Quảng Ngãi được lệnh trở lại Bình Định diệt gọn hai đại đội Mỹ và một đại đội bảo an, giải phóng thêm một số thôn xã nằm dọc ven biển huyện Phù Mỹ. Đến đây. chiến trường Bình Định đã chuyển sang một thế mới. Nhũng trận tập kích chớp nhoáng cũng như những trận đánh kéo dài liên tiếp diễn ra sát các quận lỵ, thị trấn. Sôi động nhất vẫn là những trận đánh tiêu diệt bọn Nam Triều Tiên ở khu đông nam tỉnh.
Ngày 19 tháng 1 năm 1968, các chiến sĩ tiểu đoàn 6 trung đoàn 12 được lệnh tiến công thị trấn Đập Đá (An Nhơn) lần thứ hai và tiêu diệt bọn địch giữ cầu Xi-ta trên đường số 1.
Mất Đập Đá, Quy Nhơn bị uy hiếp trực tiếp. Vì thế, ba ngày sau bọn giặc đã dồn vào khu vực này một trung đoàn Nam Triều Tiên thuộc sư đoàn "Mãnh Hổ", bốn đại đội bảo an, 32 xe tăng và xe bọc thép. Chúng còn huy động một lực lượng không quân, pháo hạm rất lớn. Cuộc chiến đấu ác liệt giành giật từng tấc đất xung quanh làng Phương Danh Nam, nơi tiểu đoàn 6 giữ bàn đạp đã diễn ra suốt ngày đêm. Bộ binh, xe tăng địch liên tục thay nhau tiến công vào tiểu đoàn 6.
Năm ngày năm đêm thôn Phương Danh Nam lúc nào cũng nóng bỏng. Trong các khu vườn, các ngôi nhà cháy đỏ, các chiến sĩ thay nhau đào những căn hầm rộng sâu để cất giấu thương binh và sửa chữa vũ khí. Số chiến sĩ bị thương mỗi ngày một tăng lên. Tuy bị những vết thương hành hạ đau đớn nhưng anh em vẫn bắn xả vào quân Nam Triều Tiên một khi chúng đến gần. Những đồng chí bị thương vào mắt thì ngồi lắp đạn. Trên các bờ hào, góc vườn. rải dầy xác giặc, Các chiến sĩ tiểu đoàn 6 càng đánh càng hăng. Lớp này hy sinh, lớp khác nhảy lên thay thế. Anh em đại đội 1 lấy cả xẻng, cả băng đạn AK rỗng đập lên đầu quân địch. Những trận đánh quá chênh lệch, một chọi năm, chọi mười, có chỗ, một chọi 50 thường xuyên diễn ra. Tỷ lệ chênh lệch ấy cứ tăng vọt lên mãi cho đến lúc hơn 10 chiếc xe tăng chạy xộc vào trận địa của tiểu đoàn 6. Không còn một quả đạn chống tăng, không còn một quả thủ pháo, các đội viên quyết tử đã đứng cả dậy cầm súng tiểu liên, lựu đạn, xẻng chiến đấu đến người cuối cùng. Tinh thần bất khuất của các chiến sĩ trung đoàn 12 đã làm rung động cả một vùng phụ cận Quy Nhơn. Một tuần liền, bọn lính Nam Triều Tiên vẫn kinh hoàng như đang sống trong một cơn ác mộng. Trận đánh chứng tỏ lòng căm thù bọn giặc Nam Triều Tiên của cán bộ, chiến sĩ dã được phát động tới đỉnh cao. Người chiến sĩ được trang bị đầy đủ về ý chí, do đó, mặc dù nằm ở một vị trí hoàn toàn bất lợi, chênh lệch lớn về so sánh lực lượng, vũ khí, họ vẫn chiến đấu hết sức dũng cảm, không chịu nhường một tấc đất nào cho giặc.
Những trận kịch chiến dai dẳng như vậy tiếp tục diễn ra trên chiến trường Bình Định cho đến những ngày cuối tháng chạp. Chủ trương không đứng trên núi mà thọc thẳng xuống đồng bằng, bám đất, bám dân, dựa vào đất, dựa vào dân để tồn tại và chiến đấu của sư đoàn là hết sức đúng đắn. Trải qua hơn nửa năm vừa tiêu diệt sinh lực đích, vừa gây dựng phong trào quần chúng, sư đoàn Sao Vàng đã tạo được một thế đứng hết sức thuận lợi giữa đồng bằng, chuẩn bị bước vào mùa xuân tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt toàn miền năm 1968.
Mùa xuân 1968. một mùa xuân lịch sử báo hiệu sự suy sụp không cứu vãn nổi của bọn xâm lược Mỹ, buộc chúng phải xuống thang một lần nữa trong cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc và phải ngồi vào bàn hội ngaij thương lượng hòa bình ở Pa-ri. Sư đoàn Sao Vàng cùng với cán bộ và nhân dân trên chiến trường Bình Định đã góp một phần nhỏ chiến công của mình để tạo nên mùa xuân rực rỡ ấy của dân tộc. Cũng như những chiến dịch trước đây, vào khoảng giáp Tết Nguyên Đán năm 1968, Mặt trận Bình Định được thành lập. Đồng chí Đoàn Khuê, Phó chính ủy Quân khu 5 được cử làm Tư lệnh kiêm Bí thư Mặt trận. Trong Bộ chỉ huy Mặt trận còn có các đồng chí chỉ huy sư đoàn, thường vụ tỉnh ủy và tỉnh đội.
Riêng phía nam tỉnh, Khu ủy Khu 5 tổ chức Mặt trận Quy Nhơn do đồng chí Nguyễn Xuân Hữu, Thường vụ Khu uỷ và đồng chí Đặng Thành Chơn, Khu ủy viên phụ trách. Đồng chí Nguyễn Xương tỉnh đội trưởng Bình Định trực tiếp chỉ huy lực lượng vũ trang tiến công thị xã. Phương án chuẩn bị lực lượng đấu tranh chính trị trong đợt Tổng tiến công này cũng khá chặt chẽ. Các tỉnh ủy viên là nữ hầu hết được điều vào tăng cường cho thị xã Quy Nhơn. Ở những vùng có phong trào mạnh như Hoài Nhơn, Phù Mỹ và một số nơi khác, lực lượng quần chúng được tổ chức thành từng đội quân. Cứ 100 người thành lập một đại đội, 500 người thành lập một cụm. Đội quân chính trị lớn lao này từ những ngày trước tháng 12 đã được trang bi gậy gộc, dao liềm, cờ băng,, khẩu hiệu, truyền đơn, lời kêu gọi... Làm nòng cốt cho lực lượng trên là tiểu đoàn đặc công và hai tiểu đoàn của tỉnh.
Do tính chất của nhiệm vụ, Mặt trận và bộ lư lệnh sư đoàn sử dụng trung đoàn 2 và 22 vào khu vực huyện Phù Mỹ, Trung đoàn 12 đánh vòng ngoài hỗ trợ cho ba tiểu đoàn của tỉnh và các lực lượng chính trị của quần chúng ở phần nam tỉnh tiến công và nổi dậy trong thị xã Quy Nhơn. Nhiệm vụ xuyên suốt của sư đoàn trong quá trình tiến công và nổi dậy là phải kéo, kìm, diệt chủ lực cơ động ngụy, cô lập quân Mỹ và Nam Triều Tiên, kìm hãm chúng tại các căn cứ lớn.
Phương án chung của Mặt trận Bình Định là :
- Tiến công kết hợp với nổi dậy ở hai khu vực chính Quy Nhơn và Hoài Nhơn.
- Tiến công quân sự giải phóng quận Phù Mỹ, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giải phóng nông thôn và sẵn sàng nhập thị.
Không khí chuẩn bị khẩn trương, sôi động ở khắp mọi nơi. Chưa có mùa xuân nào, chiến dịch nào không khí chuẩn bị ra quân lại rạo rực, đầy tin tưởng như mùa xuân năm ấy.
Ngày 25 tháng 1 năm 1968, lệnh Tổng tiến công và nổi dậy được phổ biến tới các trung đoàn, các đơn vị trực thuộc và các thôn xã, một cuộc hành quân cấp tốc đã diễn ra với trung đoàn 22. Từ nam Quảng Ngãi và đông Hoài Nhơn, trung đoàn chia làm hai đường tiến về Phù Mỹ. Một cánh đi từ trên núi xuống, một cánh khác đi dọc bờ biển vào. Nhưng vì phải luồn lách qua nhiều vị trí địch, trung đoàn 22, trừ tiểu đoàn ở Hoài Nhơn, đã không đến kịp ngày nổ súng. Trong khi đó, theo đúng hợp đồng và mệnh lệnh, các chiến sĩ trung đoàn 2 do trung đoàn trưởng Trần Trọng Sơn và chính ủy Lê Huấn chỉ huy đã vào tới vị trí chiếm lĩnh, chuẩn bị nổ súng tiêu diệt quận ly Phù Mỹ.
24 giờ ngày 30 tháng 1 tức là đêm 29 Tết Nguyên Đán, trung đoàn 2 đã cắt xong hai lớp rào, hỏa lực cối, ĐKZ lần lượt đưa vào vị trí chuẩn bị nổ súng thì có lệnh khẩn của Bộ Tư lệnh Quân khu: hoãn nổ súng đến đêm mai.
Tình huống thật bất ngờ, Trung đoàn trưởng TrầnTrọng Sơn biết rút ra sẽ bị lộ và đêm mai khó có thể chiếm lĩnh được an toàn, nhưng chấp hành mệnh lệnh, anh cấp tốc ra lệnh cho các mũi, các hướng khẩn trương rút ra khu vực Bình Trị trước khi trời sáng. Ở phía nam tỉnh, theo kế hoạch hợp đồng với sư đoàn và tỉnh đội đến giờ nổ súng, cơ sở trong thị xã sẽ đưa Ô tô và lực lượng quần chúng ra đón bộ đội tỉnh nhập thị. Nhưng một tình huống ngoài dự kiến đã xảy ra. Sắp đến giờ nổ súng, đồng chí Nguyễn Khuông. thường vụ tỉnh ủy, bí thư thị ủy Quy Nhơn bị địch bắt và đã anh dũng hy sinh ngay trong đêm hôm ấy. Kế hoạch hợp đồng với bên ngoài không thực hiện được vì đồng chí Khuông là người chỉ huy cao nhất nắm toàn bộ phương án. Không còn cách nào khác, đến giờ G, các chiến sĩ bộ đội tỉnh, huyện và trung đoàn 12 cứ chiếu theo mệnh lệnh và phương án đã chuẩn bị. dóng hướng trên bản đồ, nổ súng tiến công. Tuy vậy, nhờ có bàn đạp vững. chắc và có lực lượng địa phương dẫn đường, trung đoàn 12 đã đánh rất mạnh ở phía An Nhơn, và đến ngày 3 tháng 2, tiến công sở chỉ huy trung đoàn Nam Triều Tiên ở Phú Kiều, diệt 100 tên. Ngày 9, 10, 11 phá sập cầu trên đường số 1, tiêu diệt bọn dân vệ, bảo an ở An Đức, bắn cối 82 vào Chợ Gồm...
Trong khí thế tiến công ào ạt như gió cuốn, tiểu đoàn 5 tách khỏi đội hình trung đoàn 12, phối hợp với địa phương vượt đầm Thị Nại xóa sạch một loạt đồn bốt, "ấp chiến lược", mở toang một mảng lớn ở bắc thị xã Quy Nhơn.
Trung đoàn 2, sau khi đưa được toàn bộ đội hình ra khỏi hàng rào quận lỵ Phù Mỹ theo lệnh của Bộ tư lệnh Quân khu, trung đoàn 41 ngay lập tức tràn ra vây bọc bốn phía quận lỵ. Một số đơn vị týam báo, bộ binh còn bám sát dấu vết của trung đoàn tới tận thôn Bình Trị. Từ phương án tiến công quận lỵ Phù Mỹ, trung đoàn 2 chuyển sang phản kích tiêu diệt địch ở bên ngoài căn cứ. Cuộc chiến đấu của trung đoàn 2 diễn ra quyết liệt ngay từ sáng ngày 31 tháng 1. Các chiến sĩ trung đoàn 2 ,trong những ngày đáng ghi nhớ ấy đã chiến đấu quên mình để thực hiện nhiệm vụ thu hút, kìm giữ địch cho các đơn vị bạn và lực lượng địa phương nổi dậy nhập thị.
Trong khi địch dồn quân đối phó với trung đoàn 2 và 12, các đội đặc công, biệt động, bộ đội tỉnh, du kích...từ các vị trí dấu quân bí mật đã ào ạt tiến công địch trong thị xã Quy Nhơn . Các đồng chí tỉnh ủy viên, huyện ủy viên cùng ngồi trên thuyền với chiến sĩ, vượt sóng gió từ ven biển đánh úp địch ở thị xã. Một số khác cải trang, đánh thốc từ phía cầu Đôi vào thị xã giữa ban ngày. Các chiến sĩ đặc công tỉnh có tiểu đoàn trưởng Mười chỉ huy đánh chiếm đài phát thanh, dinh tỉnh trưởng, chi khu cảnh sát, quân cảng, bến xe, nhà ga...giữ vững các khu vực này suốt một tuần lễ.
Kết hợp với lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị của tỉnh bao gồm mọi tầng lớp nhân dân mà đội quân tóc dài làm xung kích đã nổi dậy áp đảo địch ở hầu hết các thi trấn, quận ly. Gần ba vạn đồng bào ở Hoài Nhơn kéo đến bao vây thị trấn Tam Quan, thị trấn Bồng Sơn, đồi 10. Hàng ngàn các mẹ, các chị ở Phù Mỹ đã mang gậy tre; dao, liềm vào đánh đuổi bọn lính bảo an, dân vệ ở nhiều đồn và ấp chiến lược thuộc xã Mỹ Dục, Mỹ Lợi. Hàng vạn đồng bào các huyện Phù Cát, Bình Khê,Vĩnh Thành, An Nhơn... sôi sục xuống đường đấu tranh đòi lật đồ chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, đòi Mỹ không được can thiệp vào công việc của người Việt Nam. Trên toàn miền, quân và dân ta đã nổi dậy, tiến công vào hầu hết các thành phố, thị xã, căn cứ của Mỹ ngụy..
Rồi tin thành phố Huế được giải phóng, tòa đại sứ Mỹ bị tiến công, nhân dân đã nổi dậy làm chủ nhiều khu vực rộng lớn trong thành phố Sài Gòn. Chiến trường Khu 5. bộ đội và đồng bào các tỉnh Tây Nguyên đã đồng loạt tiến công địch ở Buôn Ma Thuột, Plây cu, Công Tum. đánh chiếm thị trấn Tân Cảnh, Hàng vạn đồng bào các dân tộc tiến vào thị xã Buôn Ma Thuột đấu tranh trực diện làm cho địch vô cùng hoảng sợ. Ở đồng bằng, chiến sự diễn ra sôi nổi và dồn dập. Các căn cứ lớn, sân bay, hậu cứ của cứ quân Mỹ lẫn ngụy ở Đà Nẵng, Hội An. Tam Kỳ, Quy Nhơn, Tuy Hòa. Quảng Ngãi, Nha Trang... đều bị lực lượng vũ trang quân khu phối hợp với lực lượng chính trị hùng hậu tiến công và chiếm nhiều vị trí quan trọng. Những tin tức đó làm nức lòng quân dân Bình Định và chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng. Trong những ngày sôi động đó, khi sư đoàn 22 ngụy và sư đoàn "Mãnh Hổ" Nam Triều Tiên đang bị kèm chặt ở khu vực của hai trung đoàn 2 và 12 thì ở vùng giáp ranh, quân Mỹ mở một cuộc phản kích nhằm co kéo lực lượng của sư đoàn Sao Vàng ra khỏi các vành đai bao quanh các thị trấn, thị xã.
Trước tình hình đó, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định tung lực lượng dự bị (trung đoàn 22) vào chiến đấu. Với truyền thống vốn có của mình, cán bộ chỉ huy trung đoàn 22 tập trung tất cả những xạ thủ B.40 xuất sắc của trung đoàn và chọn ba đại đội bộ binh có kinh nghiệm tổ chức tập kích ban đêm vào quân Mỹ ra phản kích. 3 giờ sáng ngày 8 tháng 3, những quả đạn B.40 bất ngờ nổ đồng loạt vào những chiếc xe tăng Mỹ ở khu vực ấp Diễm Tiêu cách quân ọy Phù Mỹ bốn ki-lô-mét. Ngay loạt đạn đầu, bốn chiếc xe đã bốc cháy. B.40 vừa nổ, bộ binh đã ập tới, chia cắt bộ binh địch để tiêu diệt. Chỉ hơn một giờ, toàn bộ chi đoàn xe bọc thép và một đạt đội Mỹ đã bị diệt gọn.
Sau tết Mậu Thân 1968. cuộc tiến công của sư đoàn Sao Vàng và các lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định vẫn không ngừng. Các chiến sĩ trung đoàn 12, trong một đêm đánh liền bảy vị trí từ Phù Cát đến bắc thị xã Quy Nhơn. Tiểu đoàn 5, phối hợp với đặc công tỉnh, tiến công lần thứ hai vào quận ly Tuy Phước. Các đội viên đội quyết tử quàng lên vai những chiếc khăn đỏ "Ngô Mây" vượt 12 lớp rào, đánh chiếm nhà tên quận trưởng, chi cảnh sát, nhà lao, sau đó trụ lại ban ngày đánh địch phản kích ở ngã tư quận lỵ Tuy Phước. Đại đội cối 82 và DKZ của tiểu đoàn, một lần nữa lại ngồi thuyền của đồng bào, vượt đầm Thị Nại tập kích địch trên quân cảng Quy Nhơn và thị trấn Gò Bồi... Một bộ phận cối của trung đoàn luồn sậu, tập kích sư đoàn bộ 22 ngụy ở An Sơn và bắn nát sở chỉ huy hành quân của sư đoàn "Mãnh Hổ" Nam Triều Tiên ở Gò Rộng, buộc chúng phải hủy bỏ cuộc phản kích vừa triển khai, quay về giữ căn cứ. Đặc công sư đoàn cùng tiểu đoàn 5 phát triển xuống hướng nam, tiêu diệt sở chỉ huy hành quân của bọn Nam Triều Tiên ở quán Cây Xoài (Phước Thuận) diệt 300 tên, phá huỷ năm pháo, 15 xe quân sự. Sở chỉ huy trung đoàn và trận địa pháo Nam Triều Tiên ở Mỹ Long cũng bị pháo binh sư đoàn làm cho tê liệt. Tiểu đoàn 4 từ phía đông vượt đường số 1 tiến về phía tây, ép bọn lính Nam Triều Tiên ở An Nhơn diệt 200 tên, bắn rơi ba máy bay, phá hủy ba xe bọc thép.
Tin chiến thắng như những tràng pháo đón xuân nổ dồn dập từ đầu chiến dịch đã làm cho chiến trường Bình Định thay đổi nhanh chóng. Mặc dù không có những chiến công vang đội như các chiến trường khác và còn nhiều thiếu sót về tổ chức hành quân, hiệp đồng chiến đấu nhưng sư đoàn Sao Vàng đã làm sáng rõ một điều: khi có những đơn vị chủ lực kìm giữ quân chủ lực địch. các lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng nổi dậy của quần chúng có thể đánh thẳng vào trung tâm các thành phố, thị xã và thị trấn. Thực tế đã xác minh chủ trương thọc thẳng xuống vùng sâu, bám đất, bám dân, tạo thế hoạt động trong lòng địch trong tình thế vô cùng khó khăn những tháng cuối năm 1967 của sư đoàn là hoàn toàn đúng đắn.
Mặt khác còn chứng tỏ tinh thần chấp hành mệnh lệnh triệt để của bộ tư lệnh sư đoàn. Nếu đêm ngày 29, trung đoàn 2 không rút khỏi ví trí chiếm lĩnh, tình hình khu chiến Phù Mỹ có thể đã đổi khác. Nhưng vì lợi ích chung của toàn chiến trường, các chiến sĩ trung đoàn 2 sẵn sàng chấp nhận một trận đánh hoàn toàn ở vào thế bất lợi.
Cùng với chiến thắng chung của toàn miền, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt xuân 1968, sư đoàn Sao Vàng và quân dân Bình Định với chiến công của mình, đã góp phần đẩy bọn xâm lược Mỹ và các đội quân tay sai của chúng ngày một lún sâu hơn vào thế bị động.
*
* *
Đến mua hè, chiến trường Bình Định vẫn nóng bỏng. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trong mùa xuân, những cuộc thay quân, điều chỉnh lại lực lượng của bọn xâm lược Mỹ đã diễn ra ở khắp nơi. Sư đoàn không vận số 1 Mỹ bị đánh giập dầu ở Bình Định phải điều gấp ra ứng cứu chiến trường Trị Thiên. Thế chân sư đoàn này là lữ đoàn "kỵ binh thiết giáp" 1731 (Chú thích 1. Lữ 173 là một đơn vị dù, nhưng qua Việt Nam. được trang bị thêm xe thiết giáp cho phù hợp với yêu cầu tác chiến nên còn được gọi là lữ đoàn "kỵ binh thiết giáp") Mỹ điều từ Phú Yên ra. Lữ đoàn 173 Mỹ có khoảng 100 xe tăng và xe bọc thép, là một trong những đơn vị có sức đột kích mạnh trên chiến trường miền Trung lúc bấy giờ. Vừa đặt chân tới đất Bình Định, lữ đoàn 173 Mỹ tổ chức ngay những cuộc hành quân nống lấn, càn quét trên một quý mô lớn. Tên đại tá lữ đoàn trưởng thường tuyên bố một cách ngạo mạn rằng những gì lính "kỵ binh bay" trước đây không làm được thì lính "kỵ binh thiết giáp" sẽ làm được. Kết hợp với chiến thuật thiết xa vận ném một lúc hàng chục, hàng trăm xe tăng, xe bọc thép vào các cuộc càn quét. cày ủi, bọn bộ binh địch gồm lính của sư đoàn 22 ngụy, sư đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên đã rải quân đóng chốt trên khắp các điểm cao, dọc các đường mòn vùng giáp ranh phía tây, các vùng đồng nước và vùng cát ven biển. Những trận phản kích diễn ra dữ đội từ tháng 3 cho đến tháng 5, nhưng đó chỉ là biện pháp nhằm đối phó với các cuộc tiến công của ta vào các thị xã, thị trấn. Theo chỉ thị của quân khu, cách đánh tốt nhất đối với chiến thuật thiết xa vận của lữ dù 173 là phải "điều chúng ra tương đối xa thành phố, thị xã, tìm cách chặn chúng lại, vây chặt bằng các hình thức phục kích vận động, vận động tiến công và tập kích diệt từng tiểu đoàn, tiến tới đánh quy cả lữ đoàn của nó". Thực hiện chủ trương trên, sư đoàn Sao Vàng dành một tháng cho hai trung đoàn 2 và 22 dừng lại tổ chức, củng cố lực lượng, chuẩn bị cho những trận đánh lớn. Riêng trung đoàn 12 vẫn tiếp tục hoạt động thu hút địch ở khu vực cũ. Một phong trào đăng ký "đại đội tình nguyện diệt xe", "tổ tình nguyện diệt xe", những cá nhân hăm hở xin nhận B.40, chai cháy, thủ pháo diệt tăng lan rộng khắp các đơn vị. Cán bộ, chiến sĩ gặp nhau là bàn cách diệt xe cơ giới.
Với truyền thống phá hủy và bắt sống xe tăng địch ở An Lão (1964) Đèo Nhông (1965) và gần đây, trận tập kích diệt cả một cụm xe bọc thép ở Diêm Tiêu, cách đánh xe bọc thép Mỹ vẫn còn là một vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu đối với các chiến sĩ Sao Vàng. Bên cạnh những khó khăn về chiến thuật, còn một khó khăn không kém phần quan trọng, đó là quân số và vũ khí. Từ trước đến nay, vũ khí đánh tăng của sư đoàn lớn nhất là ĐKZ, nhỏ là AT và thủ pháo tự tạo. Súng B.40 mỗi đại đội chỉ có vài ba khẩu với một số đạn rất ít ỏi, B.41 cả sư đoàn mới được trang bị năm khẩu.
Cũng như thời kỳ lính "kỵ binh bay" xuất hiện, một câu hỏi được đặt ra trước sư đoàn là: Với thực lực hiện nay liệu có thể diệt gọn được đơn vị xe bọc thép Mỹ không. Trận đánh Diêm Tiêu mới đây của trung đoàn 22 là một kinh nghiệm nóng hổi, nhưng đó mới chỉ là trận tập kích xe "chết" ban đêm. Từ đó, làm sao có thể rút được kinh nghiệm đánh xe bọc thép cơ động ban ngày. Câu hỏi ấy đã trở đi trở lại trong các cuộc họp của bộ tư lệnh sư đoàn, trong các hội nghị quân chính trung đoàn, các cuộc họp của chi bộ, chi đoàn đại đội. Cuối cùng, phương án đánh đã được xác định. Hai trung đoàn 2 và 22 sẽ mở đợt hoạt động tại khu vực ba xã Mỹ Lộc, Mỹ Tính, Ân Tường, nơi tiếp giáp hai huyện Phù Mỹ với Hoài Ân. Sư đoàn chủ trương bố trí các bộ phận chặn đầu, vận động tiến công bên sườn, khóa đuôi nhiều lớp khép kín đội hình địch, diệt nhanh, gọn và chắc từng chi đoàn xe bọc thép địch.
Ngày 3 tháng 5, sư đoàn trưởng Lư Giang cùng với chính ủy sư đoàn Nam Khánh đưa sở chỉ huy tới khu vực Hòn Nọc để theo dõi và chỉ huy chung cả hai hướng nam và bắc tỉnh. Sở chỉ huy tiền phương đặt sát đội hình trung đoàn 2 do phó sư đoàn trưởng Huỳnh Hữu Anh và phó tham mưu trưởng Sơn Diệp phụ trách
0 giờ 30 phút ngày 5 tháng 5, phốỉ hợp với chiến trường toàn quân khu, cùng một lúc, các đơn vị đặc công, công binh, pháo binh của sư đoàn tiến công tám cứ điểm và căn cứ, trận địa pháo địch trên trục đường số 1. Một đoạn đường dài hơn mười ki-lô-mét từ cầu Ông Diệu qua Bình Dương, Đèo Nhông đến giáp quận lỵ Phù Mỹ hoàn toàn bị cắt đứt, buộc bộ chỉ huy quân Mỹ ở Bình Định phải tung lữ đoàn kỵ binh thiết giáp đi giải tỏa. Tờ mờ sáng, từng bầy xe tăng, xe bọc thép từ quận ly Phù Mỹ xồng xộc thọc lên. Trên trời, từng bầy trực thăng bay sát các ngọn cây, cánh quạt khua ầm ĩ. Phía sau đoàn xe là bộ binh Mỹ. Trong các công sự, các chiến sĩ trung đoàn 2 bình tĩnh chờ địch đến. Sở chỉ huy sư đoàn, trung đoàn luôn thông báo về địch cho các đơn vị. Đến gần cánh đồng An Bảo, đoàn xe địch đột nhiên dừng cả lại. Từ trên tháp pháo, bọn lính nhảy xuống lùng sục hai bên đường. Giữa lúc đó, một loạt đạn tiểu liên từ ven núi bất thần rộ lên. Rồi một loạt nữa, một loạt nữa. . . Có tiếng hét của tên chỉ huy. Bọn lính nhảy bổ lên xe, và đoàn xe rú máy, chạy về phía có tiếng súng nổ.
Hai tổ bộ binh của tiểu đoàn 2, được lệnh bắn nhử địch bây giờ lại nằm im làm cho tên chỉ huy đoàn xe do dự. Khi còn cách trận địa ta 600 mét, hắn lại ra lệnh cho đoàn xe dừng lại và tung bọn lính bảo an lên trước. Một trận đánh nhỏ, miễn cưỡng đã diễn ra. Ngay từ loạt đạn đầu, 12 tên lính bảo an đã ngã gục, số còn lại vội chạy lui, bám vào xe bọc thép Mỹ.
Biết chắc đã gặp chủ lực ta, đoàn xe Mỹ ngập ngừng xông lên, 15 chiếc vừa M.113 , M.41 dàn làm hai hàng vừa chạy vừa bắn vào các lùm cây ở phía trước. Trùng trình mãi, lúc chạy, lúc dừng, 12 giờ trưa, địch vẫn còn thập thò trước trận địa trung đoàn 2. Thấy có thể đánh được rồi, phó trung đoàn trưởng Vũ Quang Trắc báo cáo xin nổ súng. Phó sư đoàn trưởng trả lời: "Nhất định chúng sẽ vào gần nữa. Hãy đợi. Trận đánh diễn ra càng muộn, càng có lợi".
Bọn lính xe tăng dừng lại, mở đồ hộp ra ăn. Một hai thằng dò dẫm đi về phía trận địa tiểu đoàn 3. Vẫn không có lệnh nổ súng. Rồi trực thăng vũ trang ào lên vãi đạn xuống phía sau trận địa của trung đoàn.
"Tất cả chuẩn bị", phó trung đoàn trưởng ra lệnh cho các tiểu đoàn khi thấy đoàn xe tăng lại rồ máy chậm chạp lăn về phía trước.
"Bắn". Nhiều tiếng hô cùng bật lên một lúc. ĐKZ nổ, B.41 nổ, những chiếc xe tăng đang chồm lên bỗng khựng lại bốc cháy. Sáu đụn khói bùng lên cuồn cuộn giữa cánh đồng An Bảo. Bị đánh bất ngờ, số xe tăng và bộ binh còn lại tháo chạy hỗn loạn. Lập tức, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 được lệnh xuất kích. Thêm hai đụn khói nữa cuộn lên.
Một chiếc M.113 bỗng đâm vào một bờ đất. Tên lái bật nắp xe thò đầu ra ngoài, hốt hoảng nhòm ngó, rồi vội vã đóng nắp xe lại. "Không cho nó chạy, bắt sống, bắt sống", Đại đội trưởng đại đội 1 Lê Văn Cao vừa hô vừa lao vọt lên như một mũi tên. Bám sát sau anh là Nghĩa, chiến sĩ người dân tộc Tày, cả hai lao nhanh về phía chiếc xe. Tên xạ thủ súng máy ngồi trên xe phát hiện ra Cao. Nó luống cuống quay gấp nòng súng chĩa về phía Cao bắn như điên đại. Nhưng súng máy không còn tác dụng nữa vì Cao đã xáp lại quá gần. Bằng một động tác điêu luyện, Cao nhảy lên xe bắn gục tên xạ thủ. Nghĩa lia hai loạt dạn vào trong xe diệt hai tên. Hai tên khác vọt ra được, chạy cuống cuồng. Nhanh như sóc, Lê Văn Cao lôi xác tên xạ thủ đang nằm đè lên khẩu súng máy, rồi chộp khẩu 12,7 còn nguyên cả một băng đạn. Anh siết cò. Hai tên Mỹ ngã đè lên nhau.
Lúc đó, trên cánh đồng An Bảo, đội hình xe tăng và bộ binh địch vỡ ra từng mảng. Lê Văn Cao vừa dùng súng máy trên xe tăng địch bắn đón đầu những chiếc trực thăng đang đâm bổ xuống, vừa quét bộ binh địch trên cánh đồng, chi viện cho đại đội xuất kích. Phía tiểu đoàn 2 và tiểu đoàn 3 lại bùng lên hai đám cháy lớn.
Ở sở chỉ huy trung đoàn 2, chính ủy trung đoàn Lê Huấn vừa báo cáo diễn bịến trận đánh về sư đoàn vừa thông báo tin chiến thắng cho các hướng, đặc bịệt là gương bắt sống xe tăng Mỹ của Lê Văn Cao. Anh nhấn mạnh, đây là lần đầu tiên ta bị sống xe tăng Mỹ và kêu gọi các tiểu đoàn, đại đội hãy học tập Lê Văn Cao tiêu diệt và bắt sống nhiều xe tăng Mỹ.
Tin chiến thắng bay nhanh đến các đơn vị như một luồng gió mát. Mười phút sau lại một chiếc M113 bị các chiến sĩ xung kích tiểu đoàn bắt sống.
Xế trưa, bọn giặc và số xe sống sót mới lọt ra khỏi tầm súng. Lúc vào hùng hùng hổ hổ với 15 xe và một đại đội bộ binh, khi tháo chạy chỉ còn lại bốn chiếc cõng theo bảy tên lính lui về thôn Tân Ốc.
Sau đó là bom, pháo dập tới tấp xuống trận địa của trung đoàn 2. Dứt bom, 15 chiếc xe tăng khác lại tiến vào khu vực chiến đấu với mệnh lệnh bằng bất cứ giá nào cũng phải kéo được xác 11 chiếc xe tăng đã bị bắn cháy ra phía đường số 1 . Nhưng một lần nữa, chúng bị đánh tan tác. Các chiến sĩ đại đội 2 trung đoàn 2 đã trụ lại ở thôn An Bảo đánh bật ba đợt xung phong của địch, bắn cháy hai chiếc.
Đánh chính diện không được, địch vòng xa, định đánh bọc từ sau lưng. Nhưng ở hướng này, chúng cũng không gặp may, chưa kịp kéo xác chiếc xe nào, đã bị cối 82 ta bắn hỏng thêm hai chiếc nữa. Cay cú, vào lúc 14 giờ, tên chỉ huy lữ đoàn 173 điên cuồng tung thêm 17 xe tăng khác. Như vậy là trên cánh đồng An Bảo lúc đó đã có 30 xe tăng, với sự chi viện của nhiều tốp máy bay ném bom và hàng chục trận địa pháo các loại, kể cả pháo 175 "vua chiến trường".
Sở chỉ huy sư đoàn nhận định : trước mắt, địch có hai khả năng, thứ nhất, dùng toàn bộ 30 xe tăng và bộ binh tràn vào trận địa lấy xác và giải quyết hậu quả. Thứ hai sẽ huy động thêm trực thăng đổ quân phía sau lưng trung đoàn 2, đánh từ trên xuống, kết hợp với xe tăng từ dưới lên "nhổ" cho được trận địa trung đoàn 2. Từ nhận định đó, sư đoàn quyết định vẫn giữ trung đoàn 2 đứng ở phía Ân Tường, sẵn sàng đánh trực thăng đổ quân và làm lực lượng dự bị. Nếu trung đoàn không diệt được đoàn xe 30 chiếc trước khi trời tối thì phải kìm nó lại bằng được để tổ chức tập kích vào ban đêm.
7 giờ 30 phút 30 chiếc xe địch chia làm hai mũi tràn vào trận địa. Các chiến sĩ đại đội 2 tiểu đoàn 1 lập tức nổ súng. Nhưng địch đã quay ngoắt sang hướng khác rất nhanh. Tiểu đoàn 2 được lệnh vòng qua cánh đồng chặn đánh. Hai chiếc xe địch bốc cháy, một chiếc đứt xích nằm lại. Trời gần tối, bọn giặc muốn nhanh chóng thoát khỏi chiếc chảo gang nóng bỏng này, nhưng các ngả đường đều bị ta vít chặt. Thế là chúng đành phải nằm lại trên cánh đồng An Bảo.
Đêm ấy sở chỉ huy trung đoàn 2 tấp nập lạ thường. Những cán bộ tham mưu, chính trị được tung xuống các tiểu đoàn cùng cán bộ các đơn vị xốc lại đội hình, chuẩn bị cho trận tập kích. Những chiến sĩ thông tin, trinh sát, quần áo mồ hôi ướt đẫm đi về như con thoi. Chuông điện thoại réo liên hồi. Máy hai oát xè xè làm việc không nghỉ. Trên các con đường mòn, các bãi cỏ, từng đoàn bộ đội vận tải khiêng, cõng đạn đánh tăng xuống, chuyển thương binh và chiến lợi phẩm lên. Các chiến sĩ xung kích, lúc đó mới có dịp nghỉ ngơi, vừa rút kinh nghiệm rồi chia nhau những điều thuốc rê hoặc tranh thủ gặp nhau nhắc lại giao ước thi đua diệt và bắt sống xe tăng Mỹ.
Địch cụm lại trong đêm trên trận địa là thời cơ rất thuận lợi cho ta tiêu diệt. Sư đoàn quyết đinh sử dụng sáu đại đội mạnh nhất của trung đoàn 2 và trung đoàn 22 vào trận tập kích này.
3 giờ 30 phút ngày 6, hai phát pháo hiệu đỏ vọt lên không trung. Sau đó là một loạt tiếng nổ. Trong ánh chớp của lựu đạn và ánh đèn, bóng các chiến sĩ xung kích loang loáng lao về phía địch. Cối 82, cối 60, súng máy từ các hướng nổ giòn vào đoàn xe tăng địch đậu rải rác từng cụm trên bờ một con suối cạn giữa đồng. Gần một chục khối lửa không lồ bùng lên. Giữa lúc các mũi xung kích đang phát triền thuận lợi thì một nhóm hỏa lực địch rất hiểm xuất hiện ở góc một vườn dừa bắn xả về hướng tiểu đoàn 3. Thì ra trong lúc nhá nhem tối, một số xe tăng địch đã di chuyển đội hình, ngụy trang kín, khiến các chiến sĩ trinh sát không phát hiện được hết. Bây giờ, chúng trở thành những ổ đề kháng hết sức lợi hại.
Ở hướng tiểu đoàn 7 các chiến sĩ lợi dụng con mương cạn luồn được vào giữa cụm xe thứ hai. Phó đại đội trưởng Đinh Văn Nho trực tiếp bắn quả B.40 đẩu tiên, diệt một xe tăng làm hiệu lệnh. Vài phút sau, ba chiếc khác bốc cháy. Lửa hút lên trời đỏ rực. Bị đánh thốc từ bên trong, bọn địch hốt hoảng quay nòng súng bắn vào nhau. Lợi dụng tình thế đó, từ bên ngoài, các chiến sĩ đánh thốc vào diệt thêm năm chiếc khác. Nhưng đạn B.40 đã hết, Nho ra lệnh tập trung lựu đạn, chai cháy lại đánh tiếp.
Hướng tiểu đoàn 3 cũng lâm vào tình trạng thiếu đạn tương tự. Sau khi phá tan được những ổ đề kháng trong vườn dừa, các chiến sĩ dùng chai cháy và thủ pháo diệt thêm ba chiếc xe tăng nữa thì sở chỉ huy trung đoàn ra lệnh rút.
Trận tập kích diệt 21 xe tăng và xe bọc thép đêm mồng 5 rạng ngày 6 tháng 5 cộng với 11 chiếc bị tiêu diệt ban ngày đã giáng đòn phủ đầu địch đáng vào lữ đoàn kỵ binh thiết giáp 173 Mỹ. Trong vòng 18 tiếng đồng hồ, kể từ 11 giờ trưa ngày 5 đến 5 giờ sáng ngày 6, 33 xe tăng thiết giáp địch bị tiêu diệt, trong đó hai chiếc bị bắt sống. Ba đại đội cơ giới cùng với hai đại đội bộ binh khác bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Sau trận đánh, sư đoàn chủ trương giãn đội hình lui về hướng Mỹ Trinh. Trung đoàn 2 chuẩn bị đánh trận thứ hai. Trung đoàn 22 vẫn đứng ở khu vực Ân Tường để đánh địch giải tỏa.
Đột ngột tiến công như gió bão, rồi lại đột ngột mất hút khỏi khu vực chiến đấu, các chiến sĩ trung đoàn 2 đã làm cho lữ 173 Mỹ hết sức hoang mang. Chúng cho bịệt kích sục vào núi, dùng trực thăng đồ thám báo trên các điểm cao, nhưng vẫn không tìm thấy dấu vết của "sư đoàn Sao Vàng" , trừ một vài cuộc đụng độ nhỏ với một vài mũi phục kích của trung đoàn 22.
Trong khi đó, ở Mỹ Trinh, các chiến sĩ trung đoàn 2 đang hối hả chuẩn bị trận địa, tổ chức chiến đấu, đi lấy gạo. Các chiến sĩ nói với nhau "Chưa đánh giập đầu lữ đoàn kỵ binh thiết giáp thì chưa thể nghỉ ngơi được".
Sau mấy ngày hoang mang dừng lại, lữ đoàn 173 tiếp tục thăm dò, nhằm trả đũa bằng một trận quyết liệt hơn. Ngày 9, chúng bị trung đoàn 22 chặn đánh, bắn cháy hai xe bọc thép, diệt 80 tên Mỹ ở Ân Tường. Sau đó, trung đoàn 22 được lệnh di chuyển đội hình về phía Mỹ Trinh để nhử địch. Lập tức, lữ đoàn 173 cuốn ngay sang Mỹ Trinh, hòng "vét một mẻ lưới từ ven núi xuống tận đường số 1 , xem đối phương còn sức tiến công nữa hay không" như lời tên đại tá lữ đoàn trưởng tuyên bố.
Sáng ngày 10 tháng 5, một đoàn xe thiết giáp 22 chiếc của lữ đoàn 173 tù Đèo Nhông ầm ầm tiến về phía cánh đồng Trịnh Vân, nơi các chiến sĩ trung đoàn 2 đang bố trí trận địa. Sau nửa giờ lùng sục không có kết quả, lính Mỹ vào các bụi cây, căng bạt tránh nắng.
Thấy thời cơ diệt địch đã đến, trung đoàn 2 xin phép nổ súng. Bộ tư lệnh sư đoàn đồng ý và ra lệnh : "Nếu mũi chủ yếu nổ súng, các mũi khác phải nhanh chóng chiếm cho được bàn đạp, dồn địch lại, bít chặt, chia cắt chúng mà tiêu diệt"
Đúng 12 giờ trưa, tiếng súng của các chiến sĩ trung đoàn 2 nổ giòn giã vào các cụm xe tăng địch. Ngay từ loạt đạn đầu, tiểu đoàn 3 bắn cháy năm xe, tiểu đoàn 2 bắn cháy bốn chiếc khác. Bị đánh bất ngờ, địch vừa phản ứng vừa hốt hoảng tháo chạy, nhưng đã bị tiểu đoàn 1 chặn đường, bắn cháy thêm hai chiếc nữa.
Bẵng đi một tuần, không thấy địch mon men đến khu vực tác chiến, bộ tư lệnh sư đoàn nhận định : đây là lúc chúng dừng lại củng cố và tìm thủ đoạn mới. Vì chỉ hơn mười ngày chúng bị mất gần 50 xe tăng; xe bọc thép, chiếm gần một nửa tổng số xe của toàn lữ đoàn. Để kéo địch ra, sư đoàn chủ trương dùng hỏa lực tiếp tục ép địch ở các căn cứ quận ly, chi khu, không cho chúng nghỉ ngơi, tính toán mà phải tung tiếp xe bọc thép và xe tăng đi giải toả
Sáng ngày 23 tháng 5, cối 120, 82 của sự đoàn bất ngờ tập kích vào các trận địa pháo Đèo Nhông, Mồ Côi, Gò Lôi... Đồng thời, một số phân đội đặc công kết hợp với lực lượng địa phương tiến công địch trong các ấp chiến lược và những chốt lẻ ở tây và tây-bắc quận ly Phù Mỹ. Chúng giẫy nảy buộc phải tung lữ đoàn 173 đi giải toả. Thế là, một lần nữa, sư đoàn Sao Vàng lại "điều" địch từ các căn cứ ở đồng bằng lên vùng giáp ranh để tiêu diệt.
7 giờ sáng ngày 25, một đoàn xe tăng và xe bọc thép 36 chiếc thuộc lữ đoàn 173 và một chi đoàn thiết giáp của trung đoàn 40 ngụy mở cuộc hành quân giải tỏa hỗn hợp lên phía tây quận ly Phù Mỹ. Khi đến cánh đồng thôn Trịnh Vân, xã Mỹ Trinh, chúng thận trọng tiến theo đội hình chữ U và nham hiềm bắt dân đi hai bên. Sư đoàn lệnh cho các đơn vị bí mật xuất kích. Đặc bịệt, hai đại đội khóa đuôi phải khép đội hình thật kín không cho chúng chạy thoát.
Như những mũi tên bật khỏi dây cung, tiểu đoàn 2, tiểu đoàn 3 (trung đoàn 2) lợi dụng gò, bãi lao thẳng vào đội hình xe địch. Một cuộc hỗn chiến diễn ra trên cánh đồng nắng cháy. Sau 30 phút tiến công, ta bắn cháy tám xe tăng. Đội hình xe địch bị xé nát. Chúng luống cuống yểm trợ cho nhau, cuốn dần đội hình ra xa, dựa vào nhau đối phó với các mũi xung kích ta đang xáp tới. Chúng vừa cụm lại, cối 120, 82 của sự đoàn và trung đoàn đã kịp thời giã từng chặp. Thêm hai chiếc xe trúng đạn bốc cháy. Hơn hai mươi chiếc còn lại vội vã bỏ giở cuộc hành quân, tháo chạy về phía Trung Hội. Tại đây, chúng lại gặp mũi khóa đuôi của tiểu đoàn 2 bắn cháy thêm bốn xe. Lúc này, đội hình xe tăng và bộ binh địch đã rối loạn, càng thêm rối loạn. Chúng không còn yểm trợ được cho nhau, mạnh thằng nào, thằng ấy chạy về gần tới đường số 1 chúng bị tổ chốt của công binh sư đoàn chặn lại bắn cháy thêm hai chiếc. Quá hốt hoảng, những chiếc còn lại lao bừa vào bãi mìn, lật nhào thêm bốn chiếc nữa.
Cho tới tận chiều tối, đoàn xe địch mới rải rác chạy về được đường số 1. Lúc đi, 36 chiếc ầm ầm kéo bụi hàng ki-lô-mét, khi về, vẻn vẹn còn 10 chiếc mang đầy thương tích với những tên lính bộ binh sống sót không dám ngoái cổ nhìn lại.
Cũng như những trận đánh phủ đầu sư đoàn không vận số 1 ở Thuận Ninh, Hội Sơn năm trước, những trận đánh phủ đầu lữ đoàn 173 Mỹ Ở Mỹ Lộc, Mỹ Trinh mùa hè năm 1968 đã mở ra khả năng đánh bại thủ đoạn dùng xe tăng làm xung kích của Mỹ.
Để đánh bại chiến thuật "thiết xa vận" của lữ đoàn này, bộ tư lệnh sư đoàn đã phân tích và đánh giá đúng địch, ta đã sử dụng rất khéo léo xung lực, hỏa lực và phương pháp chiến đấu thích hợp. Hoàn toàn khác với những trận đánh Mỹ ở Thuận Ninh, Hội Sơn và các trận đánh Mỹ khác trong mùa khô lần thứ nhất, sư đoàn phải giành lại thế chủ động từ thế bị động đối với các cuộc hành quân của quân Mỹ ở Mỹ Lộc, Mỹ Trinh, sư đoàn hoàn toàn nắm thế chủ động : chủ động chọn địa hình, chủ động điều địch đến và chủ động tiêu diệt chúng. Trong cả hai trận đánh Ở Mỹ Lộc và Mỹ Trinh, đội hình xe tăng và bộ binh địch ngay từ đầu đã lâm vào thế bị bao vây, chia cắt, bị chặn đầu, khóa đuôi, và sau đó, bị tiến công cả bằng hỏa lực lẫn xung lực, cả ban ngày lẫn ban đêm.
Ngoài việc chọn địa hình một cách chính xác và điều quân địch đi đúng vào thế trận của mình, bộ tư lệnh sư đoàn còn sử dụng lực lượng một cách hợp lý . Lực lượng tiến công quá đông dễ bị hỏa lực trên xe địch sát thương, nhưng quá mỏng cũng không đủ sức giải quyết trận đánh nhanh và gọn. Các chiến thuật sử dụng trong hai trận đánh kể trên cũng được xác định thích hợp. Địch hành quân thì sử dụng chiến thuật phục kích. Địch cụm lại thì chuyển ngay sang tập kích. Hiếm có những trận đánh nào lại trọn vẹn như hai trận tiêu diệt xe tăng của lữ đoàn 173 Mỹ, 76 xe bị diệt trong tổng số 100 chiếc, các chiến sĩ Sao Vàng đã đánh bại chiến thuật "thiết xa vận" của lữ đoàn "con cưng" này trên địa bàn hoạt động của mình.
Trong hai trận đánh ở Mỹ Lộc và Mỹ Trinh, khí phách của chiến sĩ trong sư đoàn thể hiện rất rõ. Khi có lệnh xuất kích, các chiến sĩ đồng loạt xông ra đồng trống dưới làn đạn bắn phá, ngăn chặn của máy bay và pháo binh địch để đuổi đánh và bắt sống xe tăng Mỹ. Hình ảnh đạt đội trưởng Lê Văn Cao đứng trên tháp pháo xe tăng dùng súng máy trên xe vừa bắn máy bay, vừa bắn bộ binh địch là một bịểu tượng đẹp của khí phách kiên cường và tài trí đó. Sau này, Lê Văn Cao được tuyên dương Anh hùng Các lực lượng vũ trang nhân dân. Cùng với trận đánh tiêu diệt lữ đoàn 173 Mỹ, tên anh mãi mãi được ghi trong trang sử truyền thống vẻ vang của sư đoàn.
Gần ba năm đã trôi quạ, kể từ ngày những tên lính Mỹ đầu tiên của sư đoàn không vận số 1 bị tiêu diệt ở thung lũng Thuận Ninh đến những chiếc xe bọc thép của lữ đoàn kỵ binh thiết giáp 173 bị tiêu diệt trên cánh đồng Mỹ Trinh, Mỹ Lộc, sư đoàn Sao Vàng đã có nhũng bước trưởng thành vượt bậc.
Trong mùa khô thứ nhất (1965- 1966), sư đoàn Sao Vàng vừa tìm hiểu đối tượng tác chiến mới, vừa tìm cách đánh thắng chúng, và kết quả đã đánh thắng cánh quân lớn nhất trong cuộc phản công chiến lược của quân Mỹ. Đây là một mùa khô gian khổ, ác liệt nhưng hào hùng. Sư đoàn đã không ngừng tiến công quân địch có hỏa lực mạnh, quân số đông, sức cơ động cao, và đã đánh bại một bước chiến thuật của một sư đoàn Mỹ chuyên đổ bộ đường không như sư đoàn kỵ binh không vận số 1.
Sang mùa khô thứ hai (1966-1967) khi đã hiểu rõ thủ đoạn tác chiến của quân chiến đấu Mỹ, sư đoàn không dừng lại ở các trận đánh phản kích như trong mùa khô trước mà thường xuyên tổ chức những trận tập kích tiêu diệt các căn cứ bàn đạp hành quân quan trọng của quân Mỹ, đánh bại chiến thuật dùng điểm tựa của quân Mỹ làm chỗ dựa cho quân ngụy bình định nông thôn của chúng.
Trước những khó khăn của phong trào địa phương và những thiếu thốn về cơ sở vật chất, sư đoàn đã táo bạo thọc thắng xuống đồng bằng, lấy nhân dân làm chỗ dựa và đã tạo cho mình một thế đứng vững chắc để bước vào mùa xuân Tổng tiến công và nồi dậy đồng loạt năm 1968. Những trận đánh quyết liệt, hy sinh đến người cuối cùng như trận đánh phản kích của tiểu đoàn 6 ở làng Phương Danh Nam, Phù Cát là những bịểu hiện hết sức cao đẹp về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và ý chí gang thép của người chiến sĩ Sao Vàng mang trong mình bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Có thể khẳng định sau ba năm đối đầu với quân Mỹ, quân Nam Triều Tiên và quân ngụy Sài Gòn, từ chỗ dám đánh, quyết đánh, sư đoàn đã đánh bại các thủ đoạn chiến thuật của các đối tượng tác chiến, giành lại thế chủ động trên chiến trường đẩy quân địch vào thế bị động, bị tiêu hao dẫn tới bị tiêu diệt từng đơn vị, từng căn cứ.
Với bất kỳ kẻ thù nào, đối tượng tác chiến nào, sư đoàn Sao Vàng cũng quyết đánh và đã tìm ra cách đánh thắng chúng. Chúng không chỉ thất bại về âm mưu, bịện pháp chiến lược mà còn thất bại cả các mặt chiến địch, chiến thuật.
Mỗi chiến dịch, mỗi trận đánh, sư đoàn Sao Vàng luôn gắn bó chặt chẽ với phong trào nổi dậy của quần chúng và các lực lượng vũ trang địa phương. Sư đoàn luôn luôn lấy chỗ dựa vững chắc nhất mà kẻ thù không thể có được là nhân dân để đánh bại chúng. Có dân, lực lượng yếu sẽ thành mạnh, ít sẽ thành nhiều, khó khăn sẽ bịến thành thuận lợi. Điều mà kẻ thù không sao hiểu nổi, vì sao sư đoàn Sao Vàng đã bị bao vây về kinh tế, triệt cắt các đường tiếp tế, bị đánh phá liên miên quyết liệt cả phía trước và phía sau vẫn đứng vững và không ngừng lớn mạnh.
Đối với các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng, điều đó thế đơn giản và dễ hiểu: Họ có Đảng lãnh đạo. Họ có dân. Đảng là người chỉ đường đến mọi thắng lợi. Nhân dân là nguồn sống của họ.