ĐỊA BÀN MỚI, NHIỆM VỤ MỚI, KẺ THÙ MỚI
1. THẾ TRẬN
Khi truy kích giặc tới phần đất cuối cùng của bán đảo Vũng Tàu cũng như khi vượt biên đi giải phóng Côn Đảo trong chiến địch Hồ Chí Minh lịch sử, các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng ít ai nghĩ rằng, để bảc vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ Quốc, bốn năm sau, họ lại bước vào một cuộc chiến đấu mới, chống một kẻ thù mà hôm qua còn là đồng chí, còn là người bạn.
Tháng 6 năm 1976, trước những âm mưu mới của giới cầm quyền Bắc Kinh, Bộ Tổng Tham mưu quyết định điều sư đoàn Sao Vàng của Quân khu 5 ra phía bắc, làm nhiệm vụ thường trực cơ động của Quân khu 3 và của Bộ.
Lúc này, tình hình biên giới phía tây-nam Tổ Quốc đã có những diễn biến phức tạp. Ngay từ cuối tháng 4 năm 1975, bọn phản động Pôn Pốt - lêng Xa-ri, theo lệnh của Bắc Kinh đã tập kích đánh chiếm nhiều đồn biên phòng Việt Nam ở biên giới giữa hai nước, tổ chức nhiều vụ đột nhập vũ trang sâu sang lãnh thổ Việt Nam, gây nên nhiều tội ác man rợ đối với đồng bào ta sống dọc theo biên giới ở địa phận Quân khu 5, Quân khu 7 và Quân khu 9.
Ở biên giới phía bắc, những cuộc khiêu khích vũ trang của quân Trung Quốc cũng liên tiếp xảy ra tại các đồn biên phòng, các cột mốc biên giới. Bọn người theo chủ nghĩa Mao đã không từ bất kỳ một thủ đoạn hèn hạ nào để lấn chiếm từng thước đất, kể cà việc lén lút di chuyển các cột mốc đến những vụ đột nhập sâu sang lãnh thổ Việt Nam.
Như vậy, trong cùng một lúc, bè lũ phản động Bắc Kinh đã nham hiểm thọc hai mũi dao vào hai đầu Tổ Quốc ta, kết hợp với việc âm mưu gây rối trong nội địa, hy vọng có thể làm suy yếu, tiến tới khuất phục nước Việt Nam, một đất nước vừa trải qua 30 năm chiến tranh gian khổ và ác liệt nhất trong lịch sử của mình.
Nguy cơ của một cuộc chiến tranh xâm lược do bọn bành trướng Bắc Kinh gây ra đối với Tổ Quốc ta đang đến gần. Một lần nữa, cùng với quân dân cả nước, với trách nhiệm thiêng liêng chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đối đầu với quân Trung Quốc xâm lược. Và họ đã tổ chức cuộc hành quân trở lại phía bắc với tỉnh thần khẩn trương nhất.
Trong buổi gặp mặt thân mật chia tay với cán bộ sư đoàn, Thiếu tướng Đoàn Khuê thay mặt Bộ tư lệnh Quân khu 5 đã trao tặng sư đoàn lá cờ mang dòng chữ: "Phát huy truyền thống,sẵn sàng chiến đấu, sản xuất qiỏi, đoàn kết quân dân tốt". Nhân dịp này, với tình cảm của những người ruột thịt, tỉnh ủy và nhân dân Bình Định đến thăm và tặng sư đoàn lá cờ với dòng chữ "Nghĩa tình sắt son". Hai lá cờ đã nói lên tất cả tấm lòng của Bộ tư lệnh Quân khu, của quân dân miền Trung đối với sư đoàn.
Ngày 13 thăng 7 năm 1976, chuyến xe đầu tiên của sư đoàn lên đường. Đoàn xe lần lượt qua Phú Yên, vượt đèo Cù Mông xuống thung lũng Vân Canh. Một vùng đất quen thuộc, hiện ra trước mắt các chiến sĩ. Từ đây, mỗi địa phương đều gợi lên một chiến công, đều gắn bó với một thời kỳ oanh liệt trong trang sử mười năm trưởng thành và chiến đấu của sư đoàn. Lòng các chiến sĩ bồi hồi khi xe qua ngã ba đường số 19, con đường đẫm máu bọn lính đánh thuê Nam Trịều Tiên và đã kết thúc số phận bi thảm của sư đoàn 22 ngụy vào mùa hè năm trước.
Xe chạy qua những miền đất trù phú của tỉnh Bình Định, các chiến sĩ nhớ tới những tháng năm nóng bỏng hoạt động độc lập ở phía nam tỉnh, ở Phù Mỹ miền đất gợi nhớ những năm tháng vẻ vang với những người mẹ, người chị khi gặp các chiến sĩ vượt "ranh" xuống chỉ biết ôm lấy họ mà khóc để rồi vài hôm sau, kéo đi bao vây bức hàng, bức rút hàng loạt chốt điểm địch. Xe vượt qua Bồng Sơn, Đệ Đức, Tam Quan, Hoài Châu. Lòng mọi người nhói lên một niềm day dứt, sự day dứt của một đứa con đi qua nhà mà không kịp dừng lại để thăm những người mẹ, người cha đã thắt lưng buộc bụng nuôi mình, hôm nay đã kiên nhẫn cày cuốc, xây dựng lại làng mạc bị chiến tranh tàn phá.
Trong suốt những năm trụ bám ở vùng đất này cho tới khi dừng lại ở bán đảo Vũng Tàu lộng gió, lòng các chiến sĩ không lúc nào nguôi nỗi nhớ đất, nhớ người Nghĩa Bình. Họ luôn thầm mong sẽ có dịp trở về vùng đất ấy cùng với đồng bào trồng lại từng gốc dừa, dựng lại từng ngôi nhà, xóa dần đi những vết tích đau thương cũ. Nhưng bọn bành trướng Bắc Kinh đã không cho họ kịp làm công việc đó.
Đoàn xe nối nhau chạy qua những vùng đất sâu nặng nghĩa tình, gắn bó sắt son. Trước mắt các chiến sĩ là nhiệm vụ, là một cuộc chiến đấu mới, sau lưng họ là chiến công. Họ tin một cách mãnh liệt rằng, đã có những tháng năm như thế, họ sẽ không lùi bước trước bất kỳ một kẻ thù nào nếu chúng dám đụng đến Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mới ngày nào, họ còn phải làm cuộc trường chinh vào phía nam, hôm nay họ lại hành quân cuồn cuộn ra phía bắc. Miền đất hôm qua là hậu phương lớn, hôm nay đang đứng trước một kẻ thù mới.
Cuộc hành quân lịch sử vượt 1.400 ki-lô-mét bằng cơ giới của sư đoàn kết thúc vào những ngày đầu tháng 8 năm 1976. Tỉnh ủy và các cơ quan tỉnh Hà Bắc cũng như chính quyền và nhân dân hai huyện Lục Nam, Lục Ngạn, nơi sư đoàn đứng chân, bằng mọi cách đã giúp đỡ sư đoàn ổn định nơi ăn, chốn ở, vui mừng đón sư đoàn như đón những người con thân yêu đi chiến đấu xa trở về.
Từ tháng 8 năm ấy, sư đoàn vừa làm nhiệm vụ thường trực cơ động, sẵn sàng chiến đấu vừa làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế và huấn luyện chiến sĩ mới cho Quân khu 3, một công việc hết sức mới mẻ đối với sư đoàn.
Lúc bấy giờ, bọn bành trướng Bắc Kinh thông qua bọn tay sai Pôn-pốt-lêng Xa-ri đang đẩy cuộc xâm lấn ở biên giới tây-nam thành một cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc trên mốt quy mô lớn. Bọn Pôn-pốt đã huy động hàng vạn quân tràn sang lãnh thổ Việt Nam, tàn sát, cướp bóc, hãm hiếp gây nên những tội ác tày trời đối với nhân dân ta. Chúng ngang ngược đòi chủ quyền đảo Phú quốc, các tỉnh miền Tây và đe dọa tiến quân vào Sài Gòn. Kết hợp với mũi dao thọc vào bên sườn ấy, bọn cầm quyền Bắc Kinh đơn phương tuyên bố cắt viện trợ, rút chuyên gia về nước, đình chỉ hơn bảy mươi công trình đang xây cất dở dang, xúi giục bọn xấu trong người Việt gốc Hoa chống lại Chính phủ ta, rời bỏ nơi họ đang sinh sống, vượt biên giới về Trung Quốc. Đối với các tỉnh phía nam, chúng gây nên một làn sóng di tản ồ ạt. Một chiến địch tiến công vào nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã được triển khai trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế và ngoại giao. Chúng hy vọng trong một thời gian ngắn có thể bẻ gãy được ngọn cờ Việt Nam, lực lượng chủ yếu ngăn chặn làn sóng bành trướng của chúng xuống Đông-nam Á.
Những điều kiện chuẩn bị cho một cuộc xâm lược vũ trang lớn đang được chúng đẩy tới mức độ cao.
Thời gian này sư đoàn đang làm nhiệm vụ huấn luyện tân binh, tham gia xây dựng kinh tế và thực hiện chính sách phục viên, xuất ngũ cho cán bộ chiến sĩ. Nắm vững nhiệm vụ chính của mình, nhận thấy được những khó khăn, phức tạp nếu đơn vị bước vào chiến đấu ngay bởi sự trống thiếu đội ngũ cán bộ cơ sở và chuyên môn kỹ thuật do phải thực hiện ra quân hàng loạt, đảng ủy và chỉ huy sư đoàn chủ trương động viên số cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm chiến đấu; có trình độ chuyên môn khá ở lại giúp sư đoàn đào tạo các cán bộ tiểu đội, pháo thủ, y tá, thông tin và huấn luyện chjến sĩ mới. Hai tiểu đoàn huấn luyện chiến sĩ mới và đào tạo hạ sĩ quan được tổ chức; các lớp đào tạo y tá, báo vụ, pháo thủ liên tục mở. Chỉ một thời gian ngắn sư đoàn đã có hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ nòng cốt đủ khả năng chỉ huy và phục vụ chiến đấu, đây là một chủ trương mà sau này được đánh giá là nhạy bén và kiên quyết, bởi vai trò to lớn của nó trong những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc.
Mọi công việc vừa hoàn thành thì trung tuần tháng 7 năm 1978 sư đoàn được lệnh về Quân khu 1 làm nhiệm vụ phòng thủ ở đông-nam tỉnh Cao Lạng, một địa bàn trọng yếu của quân khu và của Bộ.
Nếu như hai năm trước, tỉnh ủy và nhân dân Hà Bắc đón sư đoàn như đón những người con đi chiến đấu xa trở về thì hôm nay, tỉnh ủy và nhân dân Lạng Sơn đã nồng nhiệt đón sư đoàn như đón những người con đến đứng chung một chiến hào, một trận địa, chia sẻ từng nỗi lo toan và cùng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ từng quả đồi, từng con suối, từng màu áo của các dân tộc trên mảnh đất địa đầu của Tổ Quốc.
Cũng như nhiều tỉnh biên giới khác, địa hình Lạng Sơn chủ yếu là đồi núi kế tiếp, xen kẽ nhau: Tỉnh có 10 huyện thì năm huyện nằm dọc theo biên giới với chiều dài 253 ki-lô-mét (từ cột mốc 1 đến cột mốc 61). Phía bắc giáp Quảng Tây (Trung Quốc), phía đông giáp Quảng Ninh, tây giáp Cao Bằng và phía nam giáp Hà Bắc với các con đường chiến lược quan trọng là 1B, 4A, 4B. Tuyến đường sắt chạy song song với đường 1A từ Hà Nội đến cột mốc số 0 ở Hữu Nghị Quan (cũ).
Lạng Sơn là tỉnh biên giới gần Thủ đô Hà Nội nhất( 150 ki-lô-mét), lại có đường sắt, đường bộ, thuận tiện cho việc di chuyển lực lượng. Vì vậy, khi cuộc chiến tranh với bọn bành trướng Bắc Kinh xảy ra, nhất định chúng sẽ chọn Lạng Sơn làm hướng tiến công chủ yếu.
Chính tại vùng đất cửa ngõ hiểm trở này, đến nay vẫn còn ghi lại những kỳ tích lịch sử nổi tiếng gắn liền với chiến công của tổ tiên ta trong hàng ngàn năm chống quân xâm lược phương bắc. Tại đây, Thoát Hoàn đã phải chui vào ống đồng thoát thân. Liễu Thăng phải bỏ xác tại Mã Yên, Tôn Sỹ Nghị sau trận đại bại ở Đống Đa cũng bỏ chạy thục mạng qua đất Lạng Sơn để thoát về bên kia biên giới. Có thể nói trong những cuộc chiến tranh chống bọn xâm lược phương bắc ấy, đồng bào các dân tộc Lạng Sơn là người cầm vũ khí đứng lên đánh tên xâm lược đầu tiên và cũng là người quét sạch tên địch cuối cùng ra khỏi đất nước. Lạng Sơn còn nổi tiếng với cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940), với chiến địch Biên giới (1950) trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhân dân các dân tộc Lạng Sơn đã gửi hàng vạn con em đi các chiến trường chiến đấu và cùng quân dân cả nước đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.
Cảnh giác, đoàn kết và anh dũng chống giặc ngoại xâm là truyền thống, là niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Lạng Sơn.
Nói đến Lạng Sơn, không thể không nói tới động Tam Thanh, chợ Kỳ Lừa, thị trấn Đồng Đăng... mà phiên chợ nào cũng là một ngày hội tưng bừng của các dân tộc Tày, Nùng, Dao. Tại miền đất này, tiếng đàn tính, tiếng hát then, hát lượn, hát xli đã vang lên trong cuộc sống thanh bình, êm ả từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954. Giờ đây, cuộc sống ấy đang bị bọn phản động Bắc Kinh đe dọa. Chúng không muốn có một tỉnh Cao Lạng giàu đẹp ở bên cạnh, cũng như bọn phong kiến phương bắc trong lịch sử không muốn có một nước Việt Nam độc lập ở phương nam.
Trung tuần tháng 7 năm 1978 toàn bộ đội hình sư đoàn Sao Vàng cùng với trung đoàn 166 pháo mặt đất và trung đoàn 272 pháo phòng không của quân khu và nhiều đơn vị trực thuộc khác của Bộ đã có mặt ở Lạng Sơn.
Ngày 9 và 10 tháng 8, đảng ủy sư đoàn họp xác định quyết tâm xây dựng phương án phòng thủ cơ bản. Khác với cuộc kháng chiến chống Mỹ - ngụy trước đây ở miền Nam, đối tượng tác chiến lần này của sư đoàn Sao Vàng là một đối tượng hoàn toàn mới. Làm thế nào để có thể phòng ngự được thật vững và giữ được thế chủ động ngay từ đầu?. Làm thế nào để có thể kết hợp được những kiến thức mới về phòng ngự trận địa, về phản kích, với những kinh nghiệm tiến công và phòng giữ trước đây, khi trận địa phòng ngự sư đoàn đang đảm nhiệm là một vùng quan trọng của biên giới quốc gia? Đó là những câu hỏi đặt ra không chỉ trên lĩnh vực tư tưởng mà cả trong công tác tổ chức, chỉ huy, chiến thuật và chiến đấu cụ thể.
Sau hai ngày làm việc, hội nghị khẳng định: "Chủ động, sẵn sàng đánh địch nhất định sẽ tìm ra cách đánh. Và phương án phòng ngự cơ bản của sư đoàn được thông qua.
Những ngày sau đó, một đợt mở đường xây dựng trận địa đã diễn ra sôi nổi và khẩn trương. Bộ đội và nhân dân các dân tộc ở Lạng Sơn với cuốc xẻng, xe gạt, xe ủi tất cả đều đổ ra mặt đường, đổ lên các điểm cao. Mỗi ngày mỗi giờ đối với sư đoàn lúc này hết sức quý giá... Khẩu hiệu hành động của bộ đội là: Nằm sương ngủ đất để hoàn thành trận địa phòng ngự. Bộ tư lệnh sư đoàn vừa đôn đốc xây dựng trận địa, vừa tổ chức cho các đơn vị tranh thủ ôn luyện chiến thuật cũ cũng như học tập các chiến thuật mới. Kết quả, sau năm tháng lao động quên mình, hơn 113.500 mét khối đất đá được đào đắp, gần 20 nghìn công sự được xây dựng, hàng chục bãi mìn hỗn hợp, bãi vật cản đã được bố trí và ngụy trang dọc theo biên giới. Các lớp học bồi dưỡng kỹ thuật, chiến thuật cho cán bộ các cấp cũng đạt kết quả tốt.
Cùng với việc nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự bộ tư lệnh sư đoàn và cơ quan chính trị còn tổ chức những đợt học tập chính trị sâu rộng trong toàn sư đoàn mà trọng tâm là xác định rõ nhiệm vụ mới, kẻ thù mới, trên địa bàn mới. Hai cuộc vận động: "phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân" và "Bồi dưỡng, rèn luyện, lựa chọn những quần chúng ưu tú kết nạp vào Đảng" do Ban Bí thư Trung ương Đảng và đảng ủy quân khu phát động được các đơn vị trong sư đoàn nhiệt liệt hưởng ứng. Các chỉ tiêu thi đua phấn đấu trở thành chiến sĩ ưu tú, đơn ại quyết thắng, cá nhân diệt 30 - 40 tên địch trở thành phổ biến hầu khắp các đơn vị.
Đầu tháng 10, Bộ chỉ huy, Mặt trận thống nhất nam Cao Lạng được thành lập do đồng chí Nguyễn Duy Thương, sư đoàn trưởng sư đoàn Sao Vàng làm chỉ huy trưởng, đồng chí Hoàng Trường Minh, ủy viên Trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy Cao Lạng làm chính ủy. Thành phần của Bộ chỉ huy Mặt trận còn có các đồng chí đại diện ủy ban nhân dân tỉnh, bộ chỉ huy quân sự tỉnh, ty công an và thị đội Lạng Sơn. Song song với việc thành lập Bộ chỉ huy Mặt trận, ban chỉ huy thống nhất các huyện cũng được thành lập gồm huyện ủy, huyện đội và cán bộ chỉ huy trung đoàn. Theo chỉ thị của trên, Bộ tư lệnh Mặt trận thống nhất nam Cao Lạng chủ trương rút một số cán bộ sư đoàn Sao Vàng về tăng cường cho các trung đoàn của tỉnh, tiểu đoàn của huyện đồng thời đảm nhiệm việc bồi dưỡng huấn luyện kỹ chiến thuật cho các lực lượng địa phương. Các tiểu đoàn bộ đội địa phương thị xã Lạng Sơn và các huyện Văn Lãng, Cao Lộc được bố trí trong đội hình các trung đoàn chủ lực do trung đoàn chỉ huy.
Cho đến cuối tháng 1 năm 1979, trận địa phòng ngự thê đội 1 của sư đoàn căn bản được xây dựng xong với chiều dài 60 ki-lô-mêt. Trận địa thê đội 2 cũng đang được triển khai. Khu vực phòng ngự của sư đoàn tuy chưa hoàn chỉnh nhưng đã được chuẩn bị súng đạn, công sự, lương thực, nước uống khá chu đáo. Các chiến sĩ đều tin chắc rằng, trong trận quyết chiến sắp tới, một lần nữa, chiến thắng sẽ lại thuộc về họ.
*
* *
Ở bên kia biên giới, bọn giặc cũng ráo riết đào đắp công sự, tập trung xe pháo chuẩn bị cho một cuộc xâm lược lớn.
Thời gian này, Mặt trận dân tộc cứu nước Cam-pu-chia đã được thành lập. Quân đội nhân dân Việt Nam cùng lực lượng cách mạng Cam-pu-chia đã đánh bại quân của bọn Pôn-pốt ra khỏi biên giới Việt Nam Cam-pu-chia. làm chủ nhiều vùng đất đai rộng lớn.
Vào đầu tháng 7 năm 1978, bọn phản động Bắc Kinh gây ra vụ "nạn kiều" cưỡng bức hàng vạn gia đình người Việt gốc Hoa công khai kéo qua cửa khẩu Hữu Nghị Quan về nước. Đoàn người khốn khổ bị chúng lừa gạt này nối nhau đi trên các ngả đường, đói khát, bệnh tật không ngừng giày vò, hành hạ họ. Ngày 12 tháng 7, chúng đột ngột đóng chặt cửa khẩu, khiến đám người đi từ các nơi đến đây bị dồn cục lại, phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Nhiều lần đại diện của ta yêu cầu chúng mở cửa nhưng chúng không chịu. Xúi giục người ta đi rồi giở trò không cho người ta đi tiếp là một thủ đoạn thấp hèn nhằm vu khống Đảng và Chính phủ ta. Ngày 25 tháng 8, chúng còn cho côn đồ từ bên kia biên giới tràn sang, dùng dao quắm, gậy gộc hành hung các nhân viên y tá, các mẹ, các chị đang chữa chạy, cung cấp thuốc men cho những người Hoa đau yếu. Hôm đó, các chiến sĩ đồn 193 bộ đội biên phòng ở Hữu Nghị Quan đã kiên quyết đánh trả bọn địch và Lê Đình Chinh, người chiến sĩ ưu tú đã anh dũng hy sinh trong lúc trừng trị những hành động côn đồ của giặc.
Cái chết anh hùng của người chiến sĩ biên phòng ấy đã gây xúc động lớn trong toàn sư đoàn. Một phong trào thi đua trở thành chiến sĩ ưu tú, phấn đấu trở thành đảng viên, đoàn viên dấy lên khắp các đơn vị. Học tập Lê Đình Chinh, chiến sĩ trinh sát mới nhập ngũ NguyễnVăn Tân thuộc trung đoàn 12, trong một lần đi tuần tra bị một toán lính Trung Quốc nhảy ra bắt cóc; một tên giặc lao tới ôm chặt lấy Tân; rất nhanh, Tân lộn người né tránh, rút dao cắm vào giữa lưng hắn. Đó là tên lính Trung Quốc đầu tiên bị các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng tiêu diệt. Mũi dao của Tân đã mở đầu cho những đòn trừng trị địch đáng sau đó đối với bọn lính Trung Quốc xâm lược.
Cuối tháng 10 năm 1978. Thượng tướng Chu Huy Mân, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cùng với đoàn cán bộ Tổng cục Chính trị lên kiểm tra trận địa phòng ngự của sư đoàn. Đến trận địa của tiểu đoàn 4 trung đoàn 12, đồng chí hỏi các chiến sĩ:
- Các đồng chí rời đồng bằng lên canh giữ những dải đồi trọc, khí hậu khắc nghiệt này có ý nghĩa gì?"
- Đồi trọc nhưng là lãnh thổ của đất nước ta. Có giữ được dải đồi này mới giữ được đồng bằng, mới bảo vệ được Tổ quốc ạ? - Một chiến sĩ trả lời.
Thượng tướng gật đầu nói:
- Đúng, dù là đồi trọc nhưng cha ông ta đã phải đánh đổi biết bạo xương máu mới có được. Dù là đá sỏi, nhưng đó là chủ quyền của Tổ quốc. Các đồng chí nhận thức như thế là rất đúng, rất tốt.
Tiếp đó là những lần kiểm tra của Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Văn Tiến Dũng, Trung tướng Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn, Trung tướng Giám dốc Học viện quân sự cấp cao Hoàng Minh Thảo. Các đồng chí đều đi khắp lượt các điểm tựa phía trước, tham gia ý kiến với bộ tư lệnh sư đoàn, cán bô các cấp và chiến sĩ về bố trí trận địa và cách đánh. Sự quan tâm của các đồng chí đã củng cố thêm thế trận của sư đoàn và tăng thêm niềm tin đối với cán bộ, chiến sĩ.
Cùng với sự chỉ đạo, theo dõi thường xuyên của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ tư lệnh Quân khu, tỉnh ủy và nhân dân tỉnh Lạng Sơn cũng đánh cho sư đoàn sự chăm sóc đặc biệt. Ngay sau vụ Trung Quốc cho côn đồ sang hành hung ở Hữu Nghị Quan ngày 25 tháng 8, tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ thị cho các xưởng cơ khí trong toàn tỉnh ngừng sản xuất các mặt hàng trong một thời gian, tập trung làm chông sắt, cọc sắt chi viện cho sư đoàn xây dựng trận địa phòng ngự. Các đội dân quân sát cánh cùng với các chiến sĩ, các đồn biên phòng đi tuần tra ngày đêm, sẵn sàng trừng trị bọn thám báo đột nhập vũ trang, khiêu khích.
Các đoàn đại biểu của tỉnh ủy, ủy ban nhân dân, tỉnh hội phụ nữ, tỉnh đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thường xuyên đến các trận địa, thăm hỏi, động viên chiến sĩ. Chị Đường Thị Kim, tỉnh ủy viên, hội trưởng hội phụ nữ tính, mỗi lần cùng với đoàn cán bộ phụ nữ đến thăm các điểm tựa, ngoài quà bánh, các chị còn mang theo gà con, hạt giống rau để các chiến sĩ phát triển chăn nuôi, sản xuất.
Từ Hà Bắc, Hà Nội, với vị trí là hậu phương trực tiếp của các tỉnh biên giới phía bắc, đặc biệt, với tinh thần chuẩn bị đánh quân Trung Quốc xâm lược từ xa, đã huy động hàng trăm chuyến xe, chở hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm, hàng hóa cho sư đoàn Sao Vàng và quân dân Lạng Sơn đủ dùng trước mắt và chiến đấu lâu dài. Rồi các cơ quan trung ương, các trường đại học, trung học, các trường phổ thông cơ sở ở Hà Nội, ở các tỉnh miền Nam, ở Thành phố Hồ Chí Minh liên tiếp gửi lên biên giới, gửi đến sư đoàn Sao Vàng nhiều quà tặng, thư thăm hỏi, khích lệ ân tình.
Có thể nói, chưa bao giờ trong lịch sử chiến đấu của mình, chiến sĩ sư đoàn lại thấy được gần gũi với hậu phương lớn, được sự chăm sóc, động viên của cả nước kịp thời như lúc này. Niềm phấn chấn, niềm tin, niềm tự hào tràn ngập trong lòng chiến sĩ.
Những ngày chuẩn bị trận địa khẩn trương và ấm tình quân dân nhanh chóng trôi qua. Rồi mùa xuân đến trên các triền đồi bao quanh các điểm tựa, hoa mận nở bung từng mảng trắng xóa xén kẽ với những mảng hoa đào đỏ tươi. Nhân dịp năm mới, sư đoàn Sáo Vàng vui mừng được nhận lẵng hoa của Bác Tôn gửi tặng. Trong buổi lễ đón nhận lẵng hoa của Bác Tôn, chính ủy sư đoàn Nguyễn Khắc Hào bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của toàn thể cán bộ chiến sĩ trong sư đoàn trước sự quan tâm chăm sóc của Đảng, Chính phủ và Bác Tôn nhân dịp năm mới và hứa: "Nếu kẻ thù liều lĩnh xâm phạm biên giới Tổ quốc, sư đoàn kiên quyết đánh thắng chúng ngay từ trận dầu, thắng liên tục, thắng giòn giã để bảo vệ biên giới Tổ Quốc, xứng đáng với sự chăm sóc của Đảng, Chính phủ và Bác Tôn kính mến"
Lời hứa ấy, hơn một tháng sau, đối với các chiến sĩ Sao Vàng đã trở thành một lời thề.
2. NGÀY 17 THÁNG 2 NĂM 1979
Đầu tháng giêng, khi cuộc chiến đấu ở biên giới phía tây-nam bước vào giai đoạn kết thúc (ngày 7 tháng 1 theo yêu cầu của bạn, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng với Quân giải phóng Cam-pu-chia tiến vào giải phóng Phnôm Pênh) thì ở biên giới phía bắc, các lực lượng vũ trang nhân dân ta cũng được lệnh tăng cường cảnh giác, sẵn sàng giáng trả bất kỳ hành động điên cuồng nào của bè lũ phản động Bắc Kinh.
Bấy giờ đang là mùa xuân, nhưng bầu không khí ở biên giới Việt - Trung lúc nào cũng căng thẳng. Một cuộc tiến công xâm lược trên quy mô lớn của địch đang được gấp rút chuẩn bị. Tính đến ngày 16 tháng 2 năm 1979, chín quân đoàn thuộc năm đại quân khu trong số 11 đại quân khu của chúng, bốn sư đoàn địa phương, 1.908 khẩu pháo từ 85 đến 152 mi-li-mét cùng với hàng trăm dàn hỏa tiễn của 41 trung đoàn đã được lệnh chuẩn bị tiến công ồ ạt sang lãnh thổ Việt Nam.
Với một lực lượng quân số và vũ khí to lớn như vậy, bọn bành trướng Bắc Kinh chủ định tiến công trên hai hướng: Hướng chủ yếu từ Cao Bằng đến Quảng Ninh, hướng thứ yếu từ thị xã Lào cai đến Phong Thổ, Hà Tuyên. Trên hai hướng này, chúng sẽ tiến công vào sáu khu vực trong đó có ba khu vực trọng điểm là ba thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn. Trong ba khu vực kể trên, thị xã Lạng Sơn, nơi sư đoàn Sao Vàng bố trí trận địa bảo vệ được coi là khu vực chủ yếu nhất vì đó là bàn đạp tốt nhất để tiến tới Thủ đô Hà Nội và vùng đồng bằng bắc bộ
Hứa Thế Hữu, nguyên tư lệnh đại quân khu Quảng Châu, người cộng sự thân thiết của Đặng Tiểu Bình được bổ nhiệm làm tư lệnh mặt trận. Dương Đắc Chí, tư lệnh đại quân khu Vũ Hán, người đã từng chỉ huy cuộc chiến tranh ở Triều Tiên trước đây được giao nhiệm vụ đặc trách chỉ huy các cuộc hành quân trực tiếp xâm lược Việt Nam. Cả hai tên tướng cáo già này đinh ninh chỉ trong hai ngày 17 và 18, với một lực lượng quân sự áp đảo, chúng sẽ làm chủ Cao Bằng - Lạng Sơn - Lào Cai để tiếp tục mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược vào sâu lãnh thổ Việt Nam. Sở dĩ chúng chọn thời gian này và chọn ngày 17 tháng 2 là ngày khởi đầu cuộc tiến công vì cho rằng, lúc đó, đại bộ phận lực lượng của ta còn đang giải quyết hậu quả ở mặt trận tây nam và ngày 17 còn là ngày cuối tuần, ngày mà dư luận thế giới thường ít quan tâm đến tình hình quốc tế. Nếu giành được thắng lợi trọn vẹn trong hai ngày, chúng sẽ đặt dư luận vào một việc đã rồi. Mặt khác, bất ngờ tiến công trên toàn tuyến biên giới phía bắc Việt Nam, chúng hy vọng có thể buộc các lực lượng chủ lực của Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia phải rút về nước. Nhờ thế mà bọn tàn quân của Pôn Pồt sẽ thôi bị truy kích và có điều kiện hồi phục trở lại.
3 giờ 30 phút sáng ngày thứ bảy, 17 tháng 2, mặt đất ba huyện Trà Lĩnh, Hà Quảng, Quảng Hòa (Cao Bằng) rung lên dữ dội trong tiếng nổ tội ác của đạn pháo đủ các loại từ bên kia biên giới bắn sang, mở đầu cho cuộc tiến công xâm lược quy mô trên toàn tuyến biên giới của bọn phản bội Bắc Kinh.
Sau loạt pháo đầu tiên đó của quân Trung Quốc, bộ tư lệnh sư đoàn Sao Vàng nhận được điện khẩn của Bộ tư lệnh Quân khu 1: "Địch bắn pháo và có khả năng tiến công Cao Bằng. Hướng sư đoàn 3 cần tăng cường cảnh giác và nhanh chóng tổ chức đơn vị sẵn sàng chiến đấu".
Ngay sau đó, cán bộ chủ trì các cấp đang tập huấn ở sư đoàn và quân khu được lệnh nhanh chóng về đơn vị và mệnh lệnh chiến đấu được chuyển ngay xuống các điểm tựa, các trận địa hỏa lực toàn sư đoàn.
5 giờ sáng, giữa lúc bầu trời còn dày đặc sương mù, đạn pháo địch bắt đầu bắn phá trên đất Lạng Sơn. Dọc tuyến biên giới từ mốc số 15 (Văn Lãng) trên mốc số 45 (Lộc Bình); dọc trục đường 1A từ Hữu Nghị Quan đến Tam Lung, dọc trục đường 1B từ Thâm Mô đến Đồng Uất và các điểm cao bao quanh thị trấn Đồng Đăng dày đặc khói đạn.
Mở đầu cuộc tiến công vào Lạng Sơn, địch dùng lực lượng của hai quân đoàn 55 và 43, một trung đoàn bộ binh địa phương, ba tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, được pháo binh chi viện tối đa tiến công trên hai hướng: Hướng chủ yếu do hai sư đoàn tăng cường hai tiểu đoàn xe tăng của quân đoàn 55 đảm nhiệm đánh chiếm thị trấn Đồng Đăng, Tam Lung, Khôn Làng Tân Yên, tổ chức thành ba cánh: Cánh chủ yếu do sư đoàn 163, tăng cường một tiểu đoàn xe tăng bắt đầu từ cửa khẩu Hữu Nghị Quan tiến theo đường bộ, đường sắt đánh chiếm Đồng Đăng, Pháo đài, điểm cao 339, Thâm Mô, 505, 423 và ngã ba đường 1A, 1B. Cánh phối hợp do sư đoàn 164 tăng cường một tiểu đoàn xe tăng, xuất phát từ mốc 15, 16 đánh chiếm xã Tân Yên, Tân Thanh, cắt đứt đường 4A từ Đồng Đăng đi Na Sầm, chiếm các điểm cao 386, 438 thọc ra Con Khoan chiếm Khôn Làng. Cánh vu hồi do một trung đoàn bộ binh được trang bị gọn nhẹ xuất phát từ mốc 19, 20 bí mật luồn lách vượt qua điểm cao 811, 675, 611 đánh chiếm điểm cao 409, khu đồi Chậu Cảnh, cắt đứt đường 1A tại ngã ba Tam Lung, cô lập Đồng Đăng.
Hướng thứ hai do quân đoàn 43 đảm nhiệm tổ chức thành hai cánh. Một cánh do sư đoàn 127 từ mốc số 32, 33 đánh vào Bản Xâm, Lục Quyên, Bản Trang, Ba Sơn...Cánh còn lại do sư đoàn 128 và một tiểu đoàn xe tăng từ mốc số 43, 45 đánh chiếm Chi Ma, điểm cao 392, 623, bản Khoai, bản Khiêng... Ngoài ra còn một trung đoàn địa phương đánh chiếm Bản Rọi (Cao Lộc) để mở đường tiếp tế bằng ngựa thồ cho cánh vu hồi vào Tam Lung.
Với ưu thế về lực lượng, lại chủ động về thời gian tiến công và có "lực lượng thứ năm" cài cấy từ lâu trên đất Việt Nam, thê đội 1 gồm quân đoàn 55 và quân đoàn 43 được lệnh bí mật bất ngờ bao vây tiêu diệt 2 trung đoàn 12 và 141 của ta ở sát biên giới, tạo bàn đạp cho thê đội 2 (quân đoàn 54) thọc vào tiêu diệt trung đoàn còn lại của sư đoàn Sao Vàng và chiếm thị xã Lạng Sơn vào ngày hôm sau, ngày 18.
Chúng dự tính, với thủ đoạn bí mật luồn sâu tạo thế chia cắt kết hợp với đòn tiến công áp đảo ở chính diện, đối phương sẽ nhanh chóng bị cô lập, rối loạn, chỉ có đầu hàng hoặc bị tiêu diệt
Ngay sau khi địch bắn những loạt pháo đầu tiên vào Lạng Sơn, các đơn vị pháo binh ta đã lần lượt giội đạn xuống các trận địa pháo và đội hình tiến công của bộ binh địch. Trên các điểm tựa, cán bộ chiến sĩ nhanh chóng ra các chiến hào đánh trả quyết liệt với bộ binh và xe tăng địch. Nhiều nơi, bộ đội đánh giáp lá cà với giặc ngay trước cửa hầm, trước sân cỏ, hất chúng xuống sườn đồi. Các cây cầu từ Thanh Lòa, Bản Xâm về thị xã Lạng Sơn bị các chiến sĩ ta phối hợp với lực lượng địa phương phá sập.
Trên các huyện Tràng Đinh, Lộc Bình cũng như trên toàn tuyến biên giới từ Quảng Ninh đến Lai Châu, quân và dân các dân tộc cũng nổ súng chặn đánh quyết liệt các cánh quân khác của địch đang ỷ thế đông ồ ạt tràn qua các cột mốc biên giới.
Ngày 17 tháng 2, một ngày hết sức bình thường, một ngày mà mọi người dân Việt Nam đang lao động, xây dựng đất nước trong hòa bình bỗng trở nên một cái mốc trong lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của đất nước. Một kẻ thù mới đã lộ rõ nguyên hình với bộ mặt thâm hiểm ghê tởm, đầy tội ác, và một cuộc chiến đấu mới lại bắt đầu với dân tộc ta.
*
* *
Những ai đã từng một lần đi qua Đồng Đăng đều không thể nào quên được thị trấn biên giới nhỏ bé này. Vào những phiên chợ, trên những con đường rải đá, dồn dập tiếng vó ngựa và vang lên tiếng khèn của những chàng trai từ rẻo cao đổ xuống. Rồi những cô gái các dân tộc duyên dáng, những ông ké bán thuốc nam, những bát hủ tiếu ngon nổi tiếng.
Đồng Đăng nằm cách cửa Hữu Nghị Quan ba ki-lô-mét về phía nam và cách thị xã Lạng Sơn 14 ki-lô-mét về phía bắc. Ở phía nam thị trấn là các điểm cao Pháo Đài, Thâm Mô, 339, ở phía đông-nam là Phai Môn, Chậu Cảnh...
Đồng Đăng, Văn Lãng là hướng phòng ngự do trung đoàn 12 đảm nhiệm. Địch đã chuẩn bị hết sức công phu cho cuộc tiến công vào khu vực này nhằm tiêu diệt nhanh chóng trung đoàn 12, chiếm gọn thị trấn Đồng Đăng trong chốc lát. Ngoài việc tập trung vào đấy hai sư đoàn bộ binh, một trung đoàn xe tăng có chi viện của sáu trung đoàn pháo binh, trong đêm 16 tháng 2, chúng đã tung các tổ thám báo mang theo bộc phá lọt vào Đồng Đăng móc nói với bọn phản động lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu để ngăn chặn lực lượng ta từ phía sau chi viện lên. Trong khi đó, trước giờ nổ súng, bọn điệp ngầm bí mật cắt các đường dây điện thoại giữa trung đoàn 12 với sư đoàn và với các tiểu đoàn, các trận địa pháo. Chúng định dáng vào trận địa phòng ngự của ta không chỉ bằng lực lượng bộ binh áp đảo mà còn định đẩy trung đoàn 12 vào tình thế cô lập, xé lẻ, không chỉ huy, không liên lạc được với mọi chi viện của cấp trên.
Mờ sáng ngày 17 tháng 2, khi đồng bào ta còn đang ngủ ngon giấc, bất thần hàng ngàn quả đạn pháo địch giội xuống thị trấn Đồng Đăng và các điểm cao khu vực phòng ngự của trung đoàn 12. Lợi dụng tiếng nổ và khói đạn, bộ binh địch nhào tới dùng bộc phá phá hàng rào biên giới cho xe tăng tràn qua. Đạn pháo vừa dứt, bọn lính Trung Quốc đã xuất hiện trong tầm bắn của súng bộ binh. Nhiều nơi, bộ đội vừa nhảy xuống giao thông hào là cưỡi lên đầu địch. Trung đoàn trưởng và chính uỷ trung đoàn trên đường ra vị trí chỉ huy phía trước cũng bị địch phục đánh, xe bị hỏng. Các anh phải xuyên rừng lên sở chỉ huy. Ở đây các sĩ quan tác chiến báo cáo địch cũng đã vào tới khu vực đài quan sát. Điện thoại đi các nơi không liên lạc được. Rõ ràng chúng định bưng tai bịt mắt, xé lẻ trung đoàn ra để tiêu diệt ngay trong trận đấu này. Nhưng vốn đã từng hoạt động độc lập ở vùng sâu trong những năm đánh Mỹ, ban chỉ huy trung đoàn một mặt ra lệnh cho cán bộ cơ quan cùng các chiến sĩ vệ bịnh, trinh sát tổ chức đánh hất địch khỏi sở chỉ huy, mặt khác cho các chiến sĩ thông tin đi nối đường dây và dùng liên lạc bộ để chỉ huy các đơn vị.
Điều làm cho sở chỉ huy trung đoàn yên tâm là trừ khu vực đại đội 41 đã im tiếng súng còn hầu như tất cả các điểm tựa trên trận địa phòng ngự của trung đoàn tiếng súng vẫn nổ rát. Ở điểm cao 339, xen lẫn tiếng la của địch còn vang lên tiếng reo hò của bộ đội ta, chứng tỏ không những bộ đội ta đang đánh địch mà còn đánh thắng nữa.
Đúng như vậy, mặc dù không bắt liên lạc được với trung đoàn nhưng theo phương án các tiểu đoàn, đại đội đều chủ động chặn đánh quân địch đang như những cơn lũ hung dữ tràn tới. Cũng như trận đánh Mỹ đầu tiên trước đây ở Thuận Ninh, các chiến sĩ ngạc nhiên khi thấy bọn giặc dàn hàng ngang lao lên trận địa như những con thiêu thân. Tiếng kèn đồng, tiếng còi rúc kéo theo những tiếng hô "tả, tả" điên dại phát ra từ miệng bọn lính cùng với những loạt đạn bắn như xé lên đỉnh đồi.
Ở khu vực Tân Yên, Tân Thanh, trong trạng thái như vậy, tiểu đoàn 5 phải đánh trả với hơn một trung đoàn địch có hàng chục xe tăng yểm trợ. Cán bộ tiểu đoàn, cán bộ đại đội vừa chỉ huy đơn vị, vừa cầm súng chiến đấu bên cạnh các chiến sĩ để nhắc nhở những điều cần thiết đối với những đồng chí lần đầu ra trận. Chính nhờ đó, ở các điểm tựa của tiểu đoàn, chiến sĩ ta đã đánh lui mọi đợt tiến công ồ ạt của địch. Ở Bản Thấu, phó trung đội trưởng Nguyễn Văn Vĩnh, cùng tiểu đội trưởng Bùi Viết Bình đã xách B.40, B.41 vận động xuống sườn đồi chặn đánh một cánh quân thọc sườn có bốn xe tăng dẫn đầu bắn cháy liên tiếp hai chiếc. Hai chiếc còn lại vội vàng tháo chạy bị các chiến sĩ đồn biên phòng Tân Thanh bắn cháy một chiếc, chiếc cuối cùng hốt hoảng nhào xuống chân đồi nhưng lại sa vào hầm chống tăng của các chiến sĩ công binh. Đó là những chiếc xe tăng đầu tiên của quân Trung Quốc xâm lược bị tiêu diệt trên trận địa sư đoàn Sao Vàng. Các chiến sĩ ta ở các điểm tựa xung quanh đều đứng lên reo hò trước chiến công xuất sắc ấy ở đại đội 1 cao xạ 37, chiến sĩ thông tin Nguyễn Đức Thuần trên đường nối đường dây phát hiện xe tăng địch đang tiến vào trận địa ta đã cùng tổ diệt tăng của đại đội quần nhau với chiếc xe tăng địch, bị chúng dùng nòng pháo gạt xuống nhưng vẫn tìm cách nhảy lên và cuối cùng đã nhét được lựu đạn vào trong xe tăng; sau đó cùng đồng đội truy đuổi tiêu diệt tên chỉ huy, thu súng đạn và tài liệu.. .
Ở khu vực Hữu Nghị Quan, bọn địch dùng một tiểu đoàn, lợi dụng thế dốc của đồi Ra Đa ồ ạt tiến công sang đồn biên phòng 193 và dùng hai tiểu đoàn bộ binh kết hợp với xe tăng đánh vào cụm điểm tựa của đại đội công binh trung đoàn 12. Đây là vị trí địch cố sống cố chết chiếm cho bằng được để đưa xe tăng và các phương tiện kỹ thuật chi viện kịp thời cho mũi tiến công chủ yếu của chúng vào thị trấn Đồng Đăng.
Tại khu vực này, cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt ngay từ những phút đầu tiên. Bọn địch từ đồi Ra Đa tràn xuống cùng với một chi đội xe tăng lợi dụng suối cạn tổ chức đánh thọc vào sườn phải của đồn 193 nhưng cả hai mũi chính diện và thọc sườn đều bị những đồng đội của anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh chặn đứng lại.
Cách Hữu Nghị Quan 500 mét, ở khu vực cống Ba Cửa, đại đội công binh trung đoàn 12 và đơn vị dân quân xã Bảo Lâm do đồng chí Sáu, bí thư đảng ủy xã trực tiếp chỉ huy cũng chặn đánh dữ dội một mũi tiến công khác của địch. Do địa hình quá rộng, đại đội công binh phải căng mỏng lực lượng ra nhiều hướng. Tiểu đội Trần Ngọc Sơn đảm nhiệm một hướng phòng ngự ở phía tây-bắc phải giãn thưa đội hình để đối phó với một đại đội địch. Các chiến sĩ trong tiểu đội của Sơn còn rất trẻ, phần lớn quê ở Hà Bắc, chỉ có mình Sơn quê Hà Nội. Vào các buổi tối, Sơn thường tự hào kể cho các chiến sĩ trong tiểu đội nghe về chiến công của người chú ruột Trần Ngọc Xuân, anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân và thầm hứa sẽ chiến đấu thật xứng dáng với chú nếu quân Trung Quốc dám tràn vào trận địa của tiểu đội.
Sau một hồi đánh địch, vào đợt tiến công thứ ba của chúng, tiểu đội Sơn chỉ còn lại một phần ba quân số và đến lần tiến công thứ năm, chỉ còn lại một mình Sơn, lúc đó cũng bị thương vào cánh tay phải. Sau khi băng tại vết thương, như một con sóc, Sơn di chuyển nhanh nhẹn từ phải qua trái, vừa bắn tiểu liên, B.40 vừa tung lựu đạn xuống đội hình dày đặc của địch. Cứ như vậy cho đến 14 giờ, địch không sao vượt qua được cống Ba Cửa để tiến vào Đồng Đăng. Bên phải Sơn, tiếng súng ở trận địa trung đội dân quân xã Bảo Lâm vẫn nổ rát. Trước mặt Sơn, 75 tên lính Trung Quốc chết gục. 16 giờ, Sơn lại bị thương vào chân và trong tay chỉ còn một quả lựu đạn. Bên dưới, bọn địch đang la hét tràn lên, Sơn bình tĩnh ném quả lựu đạn cuối cùng và một vầng lửa màu da cảm của đạn B.40 địch đã trùm kín người anh. Chiều ngày hôm ấy, Sơn đã cùng với đồng đội của mình dừng lại mãi mãi ở tuổi hai mươi. Sơn đã sống và chiến đấu xứng đáng với người chú của mình mà anh luôn lấy làm mẫu mực.
Cụm điểm tựa Hữu Nghị Quan sau này được đánh giá rất cao vì đã chặn đứng được một lực lượng đáng kể của địch trong một thời gian nhất định, giảm bớt được lực lượng của chúng trên hướng phòng ngự chủ yếu của sư đoàn. Đặc biệt là đơn vị dân quân xã Bảo Lâm đã bám trụ suốt cả quá trình chiến đấu, tổ chức những trận đánh nhỏ, lẻ vào đội hình địch, gây tình trạng căng thẳng, bất ổn ở sau lưng chúng. Cụm chốt Hữu Nghị Quan là một biểu hiện hết sức sinh động của tình đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu giữa ba lực lượng dân quân, bộ đội biên phòng và bộ đội chủ lực.
Cũng trong buổi sáng ngày 17 tháng 2 lịch sử ấy, tại cụm điểm tựa Đồng Đăng, hai trung đoàn địch phối hợp với xe tăng và pháo binh cố sống cố chết chiếm các điểm cao Pháo Đài, 339, Thâm Mô. Ở điểm cao 339, ngoài lực lượng phòng ngự chủ yếu là đại đội 61 và một trung đội của đại đội 62 còn có hai khẩu pháo 85 của tiểu đoàn 12 trung đoàn 68.
Các chiến sĩ ở cụm điểm tựa này hiểu sâu sắc rằng mất các điểm cao họ đang chiếm giữ, Đồng Đăng sẽ hoàn toàn lọt vào tay giặc, và thị xã Lạng Sơn sẽ bị uy hiếp từ phía bắc. Vì vậy bằng mọi giá họ quyết hy sinh chiến đấu để bảo vệ các điểm cao ấy. Hai khẩu pháo 85 trên điểm cao 339 đã đóng góp một phần quan trọng trong việc bảo vệ trận địa phòng ngự chủ yếu này của sư đoàn.
Ngay từ những ngày đầu tiên đặt chân lên đất Lạng Sơn, rút kinh nghịệm trong chiến đấu phòng giữ Hoài ân năm trước, bộ tư lệnh sư đoàn đã nghiên cứu bố trí thế trận pháo binh thành nhiều tầng, xen kẽ với đội hình bộ binh để chi viện cho toàn khu vực, nhất là hướng phòng ngự chủ yếu. Theo đề nghị của các cán bộ chỉ huy trung đoàn 68, sư đoàn không chỉ đưa pháo 85 lên chiếm lĩnh điểm cao 339 mà tất cả các trận địa pháo của trung đoàn đều được đưa lên chiếm lĩnh các điểm cao. Ai cũng biết, sức mạnh của pháo binh sẽ được tính bằng cấp số nhân nếu có thế trận hoàn chỉnh, hiểm hóc, tạo được bất ngờ, tập trung được sức mạnh trong phòng ngự cũng như khi phản kích .
Hôm ấy, khi địch ồ ạt tiến lên điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, 339, phó đại đội trưởng Nguyễn Văn Điền quyết định cho các khẩu đội đánh theo phương án 2: rút một số pháo thủ dùng súng bộ binh bảo vệ trận địa, số còn lại sử dụng hai khẩu 85 chi viện cho Pháo Đài và bắn xe tăng địch. Nhưng mới bắn được đến viên đạn thứ 7 thì một quả pháo địch nổ ngay bờ công sự, khẩu đội 2 hỏng thiết bị ngắm phải dừng lại. Khẩu đội 1 được lệnh tăng tốc độ bắn. Độ chính xác và hiệu quả cao của pháo bắn thẳng đã có tác dụng cùng với các chiến sĩ trên Pháo Đài đánh bật nhiều đợt tiến công của một tiểu đoàn địch.
9 giờ sáng, khi phát hiện bốn chiếc xe tăng đang bám đuôi nhau lên điểm cao 300, phó trung đội trưởng Hoàng Hữu Yên chỉ huy khẩu đội bắn cháy hai chiếc. Hai chiếc còn lại hốt hoảng bỏ chạy.
Bằng lối đánh đó, lát sau trung đội của Yên lại bắn cháy một trong hai chiếc xe tăng ở hướng Na Sầm xuống; đến 16 giờ, bắn tan một cụm địch ở sân bóng Đồng Đăng và bắn cháy hai xe chở đầy lính từ Hữu Nghị Quan chạy tới.
Trận địa 339 với các dũng sĩ kiên cường suốt ngày 17 đã trở thành một chướng ngại trên đường tiến quân của bộ binh và xe tăng địch. Chúng tập trung rất nhiều pháo tầm xa, pháo đi cùng, pháo xe tăng quyết tiêu diệt trận địa này. Vào lúc 17 giờ, ba chiến sĩ bị thương, khẩu đội 2 hỏng nòng, khẩu đội 1 hỏng kim hỏa và bệ khóa nòng. Thấy trận địa pháo 85 của ta im lặng đột ngột, bọn giặc ào ạt mở một đợt tiến công vào các điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, điểm cao 300... Trên đường số 4, bốn chiếc xe tăng địch gầm rú tiến vào Đồng Đăng.
Trước tình hình đó, Yên đề xuất tháo kim hỏa của khẩu 2 lắp vào khẩu 1 ngắm bắn trực tiếp qua nòng pháo. Ý kiến đơn giản nhưng đưa ra đúng lúc làm mọi người hết sức phấn chấn. Một lát sau, trận địa 85 lại sống dậy, sôi động. Bằng ba quả đạn, Hoàng Hữu Yên lại bắn cháy một chiếc xe tăng trên đường số 4. Ba chiếc còn lại chưa kịp phản ứng thì những loạt đạn pháo của đơn vị bạn đã kịp thời trút xuống tiêu diệt toàn bộ tốp xe tăng này. Đó là trận địa pháo Cồn Chủ do trung đội trưởng Nguyễn Trường Sơn chỉ huy.. Phát hiện thấy xe tăng địch đông mà trận địa 339 chỉ bắn phát một, Sơn chủ động ra lệnh cho các khẩu đội lấy phần tử kịp thời nổ súng chi viện cho bạn. Sau khi toàn bộ tốp xe tăng địch bị tiêu diệt, khẩu đội của Hoàng Hữu Yên còn bắn được 18 viên đạn nữa, làm tê liệt trận địa pháo 122 của địch mới kéo đến chân điểm cao 402. .
Trong lúc các cán bộ và chiến sĩ ở cụm chốt Đồng Đăng nổ súng đánh địch quyết liệt thì Hoàng Quý Nam, đại đội trưởng đại đội 42 cùng với một số đông cán bộ chủ trì các đơn vị dự lớp tập huấn của sư đoàn đang trên đường cấp tốc trở về đơn vị.
Hoàng Quý Nam là một cán bộ trẻ. Anh nhập ngũ năm 1971 mới tốt nghịệp sĩ quan và về trung đoàn được hơn một năm nay. Đó là một cán bộ sôi nổi, tự tin và quyết đoán, những đức tính cần thiết đối với một cán bộ chỉ huy quân sự. Hôm đó, Nam, Minh và một số cán bộ trong tiểu đoàn 4 về đến doanh trại thì cả khu nhà trước đây nhộn nhịp giờ vắng tanh, vắng ngắt. Nam xuống bếp, gặp mấy chiến sĩ nuôi quân đang nấu cơm, anh lấy một khẩu AK vài băng đạn rồi cùng với Minh chạy về điểm cao Pháo Đài, nơi đại đội của Nam đang chốt giữ.
Hai người chạy tới ngã tư đường sắt và đường 1B thì gặp ba chiếc xe tăng địch đang bắn về phía trường cấp một gần đấy. Anh và Minh vội tạt xuống con suối nhỏ để tránh đạn. Tại đây, Nam lại mượn được khẩu B.40 và ba quả đạn.
Nam và Minh nhanh nhẹn chạy vòng lên đón đầu ba chiếc tăng. Hai tiếng nổ của đạn B.40 dội xuống khe suối và lát sau khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi của Nam hiện ra ở chân dốc. Anh đưa trả khẩu B.40 tiếc rẻ: "Bực quá, chỉ có ba quả đạn thì quả thứ ba lại bị thối". Mọi người nối nhau vượt qua đường. Cách họ một quãng ngắn, hai chiếc xe tăng đang bốc cháy.
Đó là chiến công đầu tiên của Hoàng Quý Nam.
*
* *
Trong cuộc tiến công của địch vào trận địa sư đoàn Sao Vàng của quân Trung Quốc xâm lược, điều làm cho bộ tư lệnh sư đoàn suy tính nhiều là quy mô, lực lượng lớn ngoài dự kiến và thủ đoạn vu hồi khá sâu, khá phổ biến của chúng. Qua sơ bộ nắm tình hình, sư đoàn đang phải đương đầu với gần hai quân đoàn địch có xe tăng, pháo binh yểm trợ. Đó là lực lượng quá lớn so với khả năng sư đoàn hiện có. Chúng đã thực hiện các mũi vu hồi nguy hiểm ở Tam Lung (cách thị xã Lạng Sơn bảy ki-lô-mét) và Con Khoang, sau lưng trận địa phòng ngự chủ yếu. Ngày đầu chiến đấu, do được tập dượt nhiều lần theo phương án từ trước, với tinh thần tích cực tiến công, trận địa sư đoàn vẫn được giữ vững. Nhưng liệu các đơn vị có đứng vững được trong những ngày tiếp theo không?
Vấn để cấp bách là phải xác định rõ mũi tiến công chủ yếu của chúng để tập trung sức đánh bại nó. Không khẳng định rõ được vấn để này hoặc phán đoán sai lệch nhất định chúng sẽ nhanh chóng chọc thủng trận địa ta. Các cánh quân vu hồi của địch hết sức nguy hiểm: Không những nó tạo thế chia cắt trận địa của sư đoàn mà còn ngăn chặn chi viện của ta từ phía sau lên phía trước. Tuy nhiên, tổ chức những mũi vu hồi quá sâu vào khu vực phòng ngự của ta, bọn địch đã gặp những trở ngại lớn và bộc lộ nhiều mặt yếu: Chúng nằm quá xa sự chỉ huy của cấp trên. Địa hình xa lạ, việc tiếp tế trở nên khó khăn trong điều kiện vận chuyển còn lạc hậu, rất dễ bị ta chặn đánh, chia cắt, cô lập và tiêu diệt. Những trận đánh trong ngày đầu của ta ở Tam Lung và Song Áng là những biểu hiện cụ thể.
Ở ngã ba Tam Lung, bọn giặc vừa xuất hiện đã bị tiểu đoàn 1 và đại dội công binh trung đoàn 2 chặn đánh phía trước, tiểu đoàn địa phương thị xã nổ súng phía sau, toàn bộ quân địch phải dừng lại không dám tiến ra đường 1A phải kéo ĐKZ và trọng liên 12,8 lên sườn đồi khống chế mặt đường, đồng thời giờ thủ đoạn tàn sát đốt phá đối với nhân dân ta ở Bản Phân, khu công nhân địa chất.
Trên cánh đồng Song Áng, khu vực Con Quyền, Con Khoang, mũi vu hồi chiến thuật của địch đã bị một trận thua rất đậm. Hôm ấy, sau khi các chiến sĩ trinh sát, vệ binh chặn bọn bộ binh địch trước sở chỉ huy trung đoàn ở điểm cao 438. Bọn địch ùn ùn theo đường hẻm đổ vào Song Áng để tiến ra đường 1B thực hiện ý định vu hồi và chia cắt toàn bộ trận địa phòng ngự của trung đoàn 12 với hậu phương. Nhận thấy tính chất nguy hiểm của cánh quân này, trung đoàn trưởng Nguyễn Xuân Khánh và chính ủy Đồng Sĩ Tài quyết định dùng đại đội 63, lực lượng cơ động còn lại của trung đoàn do cán bộ chỉ huy tiểu đoàn 6 trực tiếp chỉ huy, cơ động từ điểm cao 339 về Con Khoang, hình thành thế vây cắt tiêu diệt cụm quân chủ yếu trên cánh đồng Song Áng, một thung lũng nhỏ hẹp nằm lọt giữa dãy núi Con Khoang, Con Quyền và điểm cao 438. Mệnh lệnh được chuyển đi qua các chiến sĩ chuyền đạt.
20 phút sau khi nhận lệnh, đại đội 63 đã bố trí hoàn chỉnh một trận phục kích vận động, lối đánh sở trường của đơn vị. Việc đầu tiên được đặt ra với cán bộ chỉ huy tiểu đoàn 6 là phải nhanh chóng cắt địch ra không cho chúng dồn vào Song Áng quá đông (lúc đó địch ở Song Áng đã có khoảng một tiểu đoàn và đang tiếp tục tràn vào theo hướng Mỹ Cao), đồng thời phải đánh từ phía sau và bên sườn, đẩy chúng ra đồng trống để tiêu diệt.
9 giờ sáng. Giữa lúc bọn địch đang nghênh ngang xếp hàng dọc kéo vào Song Áng thì mũi khóa đuôi của trungđội 3 đã ' luồn rừng bất ngờ đánh thốc vào dội hình địch.dùng đại liên vịt chặt con đường độc gạo từ Mỹ Cao vào Song Áng. Ngay lúc đó, từ bìa rừng, hai trung đội còn lại được lệnh xuất kích dưới sự chi viện của đại liên. Bị đánh một lúc từ nhiều phía, đội hình địch rối loạn. Chúng la hét, nằm bẹp giữa đồng trống bắn trả. Các chiến sĩ đại đội 63 chia thành từng tổ, cắt địch ra từng mảng để tiêu diệt. Từ phía sau, địch vẫn cố tràn lên cứu nguy cho đồng bọn nhưng chúng đã bị tổ khóa đuôi chặn đứng lại. Đại đội hỏa lực của tiểu đoàn cũng quay nòng bắn thốc vào lưng bọn viện binh địch.
Trận đánh một chọi bốn chọi năm của đại đội 63 trên cánh đồng Song Áng diễn ra ngày một quyết liệt. Các chiến sĩ quân khí , y tá vừa làm nhiệm vụ của mình vừa cầm súng chiến đấu. Chính trị viên Phạm Bồng Giỏi bị thương, phó chính trị viên Việt, một học viên sĩ quan về thực tập lên thay thế.
Càng cố gắng chống dỡ, bọn địch càng lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Đường rút lui bị chặn, quân viện đang bị đánh tơi tả, không còn cách nào khác, chúng liều mạng tổ chức một bộ phận đánh lên Con Khoang, định dựa vào hang đá cầm cự. Nhưng ở sườn núi Con Khoang, chúng đã gặp trung đội dân quân xã Hồng Phong do Trần Văn Trung chỉ huy đánh bật trở xuống. Hôm ấy Trần Văn Trung vừa cho anh em đưa bà con còn lại trong xã sơ tán vào hang đá, vừa lo tổ chức lực lượng chốt giữ ngoài của hang. Mọi việc vừa xong thì tiếng súng bên ngoài đã rộ lên. Vài giờ sau, bọn địch liều lĩnh đánh lên của hang nhưng cả ba lần tiến công chúng đểu bị đánh bật ra đồng trống. Đến đây, toàn bộ cụm quân của mũi vu hồi vào Song Áng đã bị tiêu diệt và tan rã. Một số tên chạy lên phía bắc định vòng ra đường 1B nhưng bị các chiến sĩ vận tải, thông tin của tiểu đoàn, đánh tiếp một trận nữa. Tối hôm đó, bọn giặc bắn hàng ngàn quả đạn vào cánh đồng Song Áng để xóa đấu vết thất bại. Một tên tù binh sau này bị tiểu đoàn 5 bắt ở cầu Khánh Khê đã thú nhận: "Hôm 17 tháng 2, một tiểu đoàn của chúng tôi đã bị tiêu diệt gần hết ở chân điểm cao 438.".
Đối với đại đội 63, đây là một trận đánh không cân sức nhưng với ý thức chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, tận dụng được lợi thế về địa hình và vận dụng chiến thuật thích hợp nên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Những trận đánh trên đã mở ra khả năng tổ chức phản kích của ta và thấy được những mặt yếu của địch. Tuy vậy chúng có tới năm sư đoàn tiến công trong khi sư đoàn Sao Vàng chỉ có thể huy động tối đa được năm tiểu đoàn cơ động phản kích để làm chùn bước tiến của chúng. Đánh vào đâu, với quy mô nào là một tính toán căng thẳng.
Đêm 17 tháng 2, thường vụ đảng ủy và bộ tư lệnh sư đoàn họp, xác định: Hướng tiến công chủ yếu của địch sẽ là Đồng Đăng - Lạng Sơn và các mũi vu hồi Tam Lung, Con Khoang chính là để giải quyết nhanh việc chiếm Đồng Đăng, làm bàn đạp thọc vào Lạng Sơn. Bẻ gãy các mũi vu hồi này thì thế trận của ta ở Đồng Đăng sẽ được giữ vững. Cuộc họp đang sôi nổi thì có điện của Tổng Tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Các đồng chí khen ngợi sư đoàn đã giữ được thế trận, diệt được hàng ngàn tên địch, bắn cháy 13 xe tăng, xe bọc thép của địch trong ngày chiến đấu đầu tiên; thông báo cho sư đoàn những thắng lợi của quân dân ta trên toàn tuyến biên giới và nhắc sư đoàn phải đặc biệt chú ý tới hướng tiến công Đồng Đăng và mũi vu hồi vào Tam Lung của địch; phải tăng cường công tác chính trị tư tưởng và công tác bảo đảm vật chất để bộ đội đánh thắng.
Từ phân tích cụ thể về địch ta, qua chỉ đạo của Bộ, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định: Dựa vào trận địa có sẵn, trụ bám kìm địch trên tất cả các hướng; sư đoàn sẽ tập trung lực lượng cơ động mở những trận phản kích vào hướng tiến công chính của địch. Trước mắt, đánh bật cánh quân vu hồi của chúng để giữ vững thế trận của ta ở Đồng Đăng. Đây là một chủ trương kịp thời và chính xác làm căn bản cho xác định mục tiêu, sử dựng lực lượng của sư đoàn trong quá trình chiến đấu; tránh được tình trạng rải đểu lực lượng, "be bờ" đối đầu với địch. Ngay đêm đó. tham mưu trưởng sư đoàn Bùi Quốc Miện, chủ nhiệm chính trị Lê Văn Quýt cùng một số cán bộ cơ quan xuống trung đoàn 12 tăng cường chỉ huy, tổ chức lại mạng thông tin liên lạc từ sư đoàn đến trung đoàn và các điểm tựa. Tiểu đoàn cao xạ 37 được lệnh bám giữ Thâm Mô. Lực lượng cơ động của trung đoàn 2 bước vào chiến đấu ở Tam Lung. Cũng đêm đó. Bộ tư lệnh quân khu điều tiểu đoàn 1 trung đoàn 197 Bắc Thái tăng cường cho sư đoàn Sao Vàng.
Suốt đêm 17, cả sư đoàn thức trắng chuẩn bị cho những trận đánh ngày hôm sau. Trên những con đường lớn 1A, 1B, 4A, 4B, người đi lại cuồn cuộn. Nhân dân sơ tán xuống các làng bản ở phía sau, bộ đội đổ ra phía trước. Xe đón dân, xe chuyển quân nối nhau chạy trên mặt đường. Thỉnh thoảng một chiếc xe tải đỗ cạnh một đoàn quân. Ba bốn cô nữ nhân viên mặc tạp dề màu xanh đứng trên thùng xe gọi to: "Đồng chí chỉ huy cho anh em mua hàng bách hóa. Của hàng bách hóa thị xã đây".
Thị xã Lạng Sơn sôi động. Những cơn gió mùa ào ạt tràn lên các mái nhà, các đường phố không chỉ mang theo hơi lạnh mà còn cuốn theo mùi thuốc súng nồng nặc, mùi khét của cỏ cây bị đốt cháy từ phía trước tràn về. Trên đường, từng đoàn người gồng gánh, dắt díu nhau qua cầu Kỳ Lừa xuôi theo đường 1A. Đó là những người dân từ Cao Lâu, Xuất Lễ, Thanh Lòa... suốt một ngày chạy giặc mới về đến đây. Có người chẳng kịp mang theo một thứ gì ngoài bộ quần áo mặc trên người. Có trẻ em chưa đầy tháng. Họ kể cho nhau tội ác quân Trung Quốc đối với bản làng mình. Chuyện chúng vây trưởng phổ thông cấp 1 rồi xả súng bắn chết cả giáo viên và học sinh, chuyện những chiếc xe ca trên đường đi Lộc Bình bị chúng chặn cướp của cải rồi bắn chết hành khách. Chuyện của hàng bách hóa và nhà ga Đồng Đăng bị chúng xông vào cướp hàng hóa và hãm hiếp nhân viên... Cứ thế, người phía trước nói với người phía sau, nhân dân nói với bộ đội, làm nung nấu thêm mối căm giận quân Trung Quốc xâm lược.
Đêm hôm ấy, đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam phát đi bản tuyên bố của Đảng và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông báo cho nhân dân cả nước và nhân dân thế giới về hành động điên cuồng trắng trợn của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Bản tuyên bố tố cáo tội ác của 60 vạn quân Trung Quốc dã man đốt phá nhà của phá hoại các công trình kinh tế, trường học, bệnh viện, đánh đập hãm hiếp; bắn giết, vơ vét tài sản... Bản tuyên bố kêu gọi: "Theo lời dạy của Hồ Chủ tịch kính yêu, không có gì quý hơn độc lập tự do, một lần nữa toàn quân, toàn dân ta, gái, trai, già trẻ đoàn kết một lòng, triệu người như một, nhất tề đứng dậy quyết chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc... ".
Hưởng ứng lời kêu gọi thiêng liêng ấy, một lần nữa cả nước lại vào trận.
3. NHỮNG ĐIỂM CAO BẤT TỬ
Trong khi những tiếng thét phẫn nộ: "Hãy chặn đứng bàn tay của bọn Trung Quốc xâm lược", "kiên quyết bảo vệ Việt Nam, ủng hộ Việt Nam chiến đấu", "Không được đụng đến Việt Nam"... đang vang lên ở khắp nơi trên thế giới, thì ở Lạng Sơn, hưởng ứng lời kêu gọi của tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, một phong trào thi đua "Quyết đánh thắng quân Trung Quốc xâm lược" đã diễn ra ở khắp nơi.
Các đơn vị tự vệ, dân quân được bổ sung thêm quân số trang bị; nhiều đại đội, trung đội được điều lên tăng cường cho tuyến một. Cơ quan an ninh tỉnh được lệnh tăng cường hoạt động, phân loại những phần tử xấu, lập các phương án, quét sạch "lực lượng thứ năm" của địch, đập tan kế hoạch gây bạo loạn từ bên trong của chúng.
Từng đoàn xe tải của Hà Bắc, Bắc Thái, Hà Nội... chở đạn, chở hàng nối nhau ngược lên Lạng Sơn. Đoàn tàu lửa Hà Nội - Đồng Mỏ được lệnh tăng chuyến, chở quân chở phương tiện lên biên giới, chở đồng bào sơ tán về phía sau. Lực lượng vũ trang các tỉnh thành phố từ Bình Trị Thiên trở ra được lệnh chuẩn bị gấp rút đi chiến đấu. Nhân dân khắp nơi trong cả nước sục sôi khí thế đánh giặc bảo vệ quê hương. Trước họa xâm lăng, cả dân tộc ta lại nhất tề đứng lên siết chặt đội ngũ.
Sáng ngày 18 tháng 2, sư đoàn mở trận phản kích đầu tiên với quy mô trung đoàn thiếu vào cánh quân vu hồi của địch ở Tam Lung. Một trong những mục tiêu chủ yếu của trận tiến công là phải chiếm lại các điểm cao Chậu Cảnh, đồi Địa Chất và Bản Phân, những vị trí quan trọng tại Tam Lung vừa bị địch chiếm.
Chậu Cảnh là một ngọn đồi cao gồm bốn mỏm nằm án ngữ ngay bên cạnh khúc lượn của đường 1A, Đại đội 5 tiểu đoàn 2, sau khi pháo ngừng bắn đã lao thẳng lên đánh chiếm tầng công sự thứ nhất. Một loạt đại liên của địch bắn chặn, đại đội trưởng Đồng Văn Sinh hy sinh, chính trị viên Hải ra lệnh cho bộ đội xung phong tiếp. Cả đại đội tràn lên đánh chiếm tầng công sự thứ hai. Chính trị viên Hải vừa dẫn đầu mũi chính diện vượt qua một sườn đồi bỗng đứng khựng lại lảo đảo rồi ngã vào lòng phó đại đội trưởng Dự. "Trả thù cho anh Hải, anh Sinh", Dự hô lớn rồi bật dậy dẫn tổ chính diện đánh thốc lên tuyến công sự địch. Khí thế tiến công của chiến sĩ ta làm cho quân địch khiếp sợ.
30 phút sau, đồi Chậu Cảnh im hẳn tiếng súng. Xác giặc nằm rải rác ở cả bốn mỏm đồi. Những tên sống sót vất súng chạy tộuc mạng về điểm cao 409. Ở hướng quan trọng, tiểu đoàn 1 cũng đã làm chủ Bản Phân, đồi Địa Chất.
Vậy là hai cánh quân vu hồi của địch ở đường 1A - và đường 1B bị giáng đòn đau ở Chậu Cảnh và Song Áng. Trên các điểm tựa, bộ dội ta vẫn trụ bám kiên cường đẩy lui hàng tiểu đoàn, trung đoàn địch tiến công. Điều đó làm cho bọn chỉ huy địch cay cú. Ngày 18 tháng 2 đã trôi qua nhưng thị xã Lạng Sơn, nơi kế hoạch hội quân của chúng sau 48 tiếng đồng hồ vẫn còn quá xa và đầy nguy hiểm. Chúng tiếp tục ném thêm hai trung đoàn bộ binh nữa để chia cắt bằng được con đường 1A, 1B. Rạng sáng ngày 19 lợi dụng sương mù và sử dụng một lực lượng pháo chi viện dày đặc, bọn giặc đã chiếm lại được đồi Chậu Cảnh và điểm cao Khôn làng.
Phải tránh những trận phản kích với quy mô lớn hơn trên cả hai hướng; tiêu diệt cả bọn địch phía trước và bọn địch phía sau không cho chúng ùn lên để giữ vững được thế trận. Đó là quyết định của bộ tư lệnh sư đoàn đêm 19 tháng 2. Theo kế hoạch này, ngay sáng ngày 20 tháng 2, sư đoàn mở hai khu vực tiến công. Khu vực 1 (hướng chính), dùng trung đoàn 2 có chi viện trực tiếp của hỏa lực sư đoàn, tiêu diệt bọn địch ở đồi Chậu Cảnh mở thông đường 1A lên Đồng Đăng. Khu vực 2, dùng tiểu đoàn 15 công binh và tiểu đoàn 7 quét sạch quân địch từ Khôn Làng đến Con Khoang mở thông đường 1B lên cụm điểm tựa 339, Thâm Mô, Pháo Đài, nơi vẫn dang diễn ra những trận chiến đấu giằng co quyết liệt từ sáng ngày 17. Các trận địa pháo được điều chỉnh để vừa chi viện trực tiếp cho bộ binh tiến công vừa bắn phá các trận địa pháo và các cụm quân địch ở phía sau.
Một cuộc chạy đua với thời gian, với địch diễn ra căng thẳng suốt đêm 19. Nhiều trận địa pháo được bố trí lại trên hướng chủ yếu. Sở chỉ huy trung đoàn 2, các đài quan sát pháo binh cũng tiến lên phía trước áp sát khu vực chiến đấu của trung đoàn. Các đơn vị bộ binh tăng cường cho các hướng cũng được lệnh gấp rút đến vị trí chiếm lĩnh trước khi trời sáng. Riêng tiểu đoàn 7 phải vượt quãng đường Đài hơn 50 ki-lô-mét trong điều kiện thiếu xe vận chuyển. Nhưng nhờ xử trí linh hoạt của cơ quan tham mưu và hậu cần sư đoàn, nhờ chi viện kịp thời của tỉnh Lạng Sơn nên đơn vị đã đến trận địa đúng kế hoạch bằng những chiếc xe kéo pháo, xe tải và đội xe Hải âu của tỉnh.
5 giờ ngày 20, tiểu đoàn 7 và đại đội 1 công binh sư đoàn do trung đoàn 12 chỉ huy bất ngờ đánh chiếm điểm cao Khôn Làng. Các chiến sĩ xung kích do đại dội trưởng Nguyễn Nho Bông chỉ huy đã táo bạo thọc thẳng lên trận địa địch, tiêu diệt gần hết một đại đội, mở đầu cho những đợt phản kích mới. Trong khi đó, tiểu đoàn 3 trung đoàn 2 đang nôn nóng chờ sương mù tan để đánh chiếm đồi Chậu Cảnh. Đây là trận đầu tiên của tiểu đoàn đánh quân Trung Quốc xâm lược. Lực lượng của tiểu đoàn còn rất sung sức cả về số lượng lẫn chất lượng. Trăm phần trăm cán bộ chiến sĩ xung phong nhận nhiệm vụ chiến đấu ở tuyến một.
7 giờ sáng, giữa lúc bọn giặc đang đi lại lộn xộn ở mỏm 2, sư đoàn trưởng ra lệnh cho pháo binh nổ súng. Những viên đạn pháo 85 bắn thẳng, pháo bắn vòng cầu liên tiếp trùm xuống bốn mỏm đồi Chậu Cảnh một biển lửa. Các điểm cao 409, 611, 675, những điểm tựa ở sau lưng chúng cũng nổ, cháy dữ dội. Trong khi đó, các chiến sĩ tiểu đoàn 3 nhanh chóng đánh chiếm bàn đạp đồi sắn. Đại đội 10 mũi chủ yếu của tiểu đoàn, khi pháo binh vừa ngừng bắn đã đánh thốc lên Chậu Cảnh, dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Phan Bá Mạnh. Vừa sử dụng M.79, vừa chỉ huy hai khẩu đại liên và hai khẩu cối 60, Mạnh kịp thời chi viện cho các chiến sĩ đánh chiếm mỏm 2 trong vòng 10 phút. Tại mỏm đồi này hai anh em Nguyễn Đức Vượng và Nguyễn Đức Huệ, cùng nhập ngũ một ngày, vừa yểm trợ nhau xung phong, vừa nhặt hàng chục quả lựu đạn của địch ném trả chúng, diệt hơn 30 tên địch. Tên tiểu đoàn trưởng chỉ huy mỏm 2 rối rít gọi điện xin rút lui nhưng hắn chỉ nhận được một bức điện trả lời cụt ngủn: "Các anh giữ được thì sống, không giữ được thì chết".
Ở hướng quan trọng, sau khi đánh chiếm tầng công sự thứ nhất, các chiến sĩ đại đội 11 vừa xung phong lên tầng hai đã bị đạn 12.8 ở điểm cao 675 bắn thúc vào sườn. Rất nhanh, tiểu đoàn trưởng Đỗ Ngọc Ngòi để nghị sư đoàn bắn pháo kiềm chế điểm cao 675 và ra lệnh cho đại đội 10 từ mỏm 2 đánh qua mỏm 1 chi viện cho đại đội 11. Bị ép từ hai phía, bọn địch ở mỏm 1 bung ra tháo chạy bỏ lại những tên bị thương chưa kịp băng bó đang lăn lộn trên mặt đồi. Sau một giờ chiến đấu, điểm cao Chậu Cảnh lại sạch bóng giặc. Hơn 200 tên lính phơi xác trên đỉnh đồi. Tổ quay phim của Phan Sĩ Lan cùng xung phong với bộ đội, đã kịp thời ghi vào ống kính những hình ảnh dãy chết thảm hại của quân Trung Quốc xâm lược.
Trận tiêu diệt tiểu đoàn địch ở đồi Chậu Cảnh của tiểu đoàn 3 là kết quả của tinh thần chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, khẩn trương của cán bộ, chiến sĩ và kết quả chuẩn bị công phu của các đơn vị hỏa lực. Pháo bắn thẳng cũng như pháo bắn vòng cầu đã góp một phần chiến công lớn trong trận chiến đấu xuất sắc này.
Sau trận phản kích thắng lợi ở Chậu Cảnh, tiểu đoàn 7 (thiếu) được lệnh chiếm lại điểm cao Khôn Làng lần thứ hai vào ngày 21 tháng 2 và trận vận động tiến công của tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 4 ở khu vực Thâm Mô ngày 22 làm cho các cánh quân vu hồi của địch bị thiệt hại nặng. Từ hung hăng, ào ạt bọn địch bắt đầu chững lại để dồn quân, dồn phương tiện, đánh lấn dần từng mục tiêu. Điều này chứng tỏ chúng đang rất lúng túng về chiến thuật, chiến dịch. Bọn lính Trung Quốc từ chỗ hò hét "tả tả" lao lên theo tiếng kèn và hiệu lệnh đã bắt đầu bỏ chạy khi bị pháo bắn hoặc bộ binh ta phản kích. Trên hướng phòng ngự của tiểu đoàn 5 ở Bản Thấu, từ sau trận thất bại ngày 18 tháng 2, địch chưa dám tổ chức tiến công thêm lần nữa. Tại Tam Lung. chúng chỉ dùng pháo bắn phá hoại trận địa của ta ở Chậu Cảnh. Địch tập trung lực lượng để đánh chiếm khu vực Pháo Đài, Thâm Mô, điểm cao 339. Mỗi ngày chúng bắn hàng vạn quả pháo lên các điểm tựa và thay quân liên tục. Trung đoàn này bị đánh giập đầu, chúng đưa trung đoàn khác lên thay thế. Mỗi ngày chúng tổ chức từ bảy đến 10 lần tiến công, có khi dùng lực lượng gần một sư đoàn cùng tiến công để đánh vào các điểm tựa chưa đầy hai tiểu đoàn của ta.
Các chiến sĩ trung đoàn 12, các chiến sĩ pháo binh, công binh đã chiến đấu dai dẳng, quyết liệt và gian khổ. Hàng ngàn tên địch bị đển tội, hơn hai chục xe tăng của chúng bị bắn cháy, nhưng lực lượng ta cũng vợi dần. Súng đạn phản dồn lại cho người còn sồng. Bộ đội ban ngày quần nhau với địch. ban đêm sửa sang công sự, giải quyết thương binh, tử sĩ. Các chiến sĩ vận tải, cán bộ, chiến sĩ cơ quan đêm nào cũng len lỏi giữa các cụm quân địch tiếp đạn, tiếp nước, tiếp lương thực thực phẩm cho các điểm tựa. Những nắm cơm vắt đêm đêm mang lên trận địa nhiều khi thấm máu của các chiến sĩ nuôi quân, liên lạc, y tá. Các chiến sĩ bảo vệ cụm điểm tựa Đồng Đăng đã làm sống lại một Cây Rui, một Đầu Tượng, 174 trên đất Lạng Sơn và ở đó một lần nữa họ lại trở thành bất tử.
Bọn địch càng cay cú vì tổn thất và vì những tham vọng ban đầu chưa thực hiện được. Đã năm ngày trôi qua nhưng thị xã Lạng Sơn vẫn còn cách xa hàng chục ki- lô-mét và đội quân hàng vạn tên của chúng vẫn còn bị ghìm cứng lại trước những ngọn đồi nhỏ bé tưởng như lúc nào cũng chỉ có mấy chục chiến sĩ ta canh giữ và chỉ cách biên giới chưa đầy bốn ki-lô-mét. Hãng thông tấn AFP lúc bấy giờ đã nhận xét: "So với quân đội Việt Nam, một quân đội dày dạn chiến đấu, quân Trung Quốc tỏ ra có sức phản công yếu. Mới gặp quân địa phương của Việt Nam họ đã bị chặn lại và bị tổn thất nặng".
Tuy nhiên chúng vẫn còn tiềm lực nên sau mỗi lần thất bại, chúng càng điên cuồng hơn, thủ đoạn càng thâm hiểm hơn. Nhưng trước khi lên được Pháo Đài, Thâm Mô, 339 bọn chúng đã phải chịu một tổn thất nặng nề và cụm điểm tựa Đồng Đăng đã chói ngời trong trang sử sư đoàn với những chiến công tuyệt vời của các dũng sĩ đã hy sinh chiến đấu để bảo vệ những điểm cao ấy.
Không chiếm được các điểm cao Pháo Đài, Thâm Mô, 339 địch không thể làm chủ được Đồng Đăng, không thể dồn quân đánh vào Tam Lung để tới thị xã Lạng Sơn được. Vì thế, đến ngày 21 chúng tung toàn bộ lực lượng dự bị của quân đoàn 55 vào khu vực Đồng Đăng và quân đoàn 54 dự bị chiến dịch cũng được lệnh áp sát biên giới Lạng Sơn nhằm tạo một ưu thế gấp hàng chục lần về binh hỏa lực để đánh vào cụm điểm tựa Đồng Đăng.
Phân tích địch, ta, bộ tư lệnh sư đoàn chủ trương kìm cánh quân địch ở Tam Lung để dồn sức tăng cường cho hướng chủ yếu Đồng Đăng: Ngay đêm 20, phó sư đoàn trưởng Đới Ngọc Cầu và phó chính ủy sư đoàn Nguyễn Ngọc San được lệnh xuống tăng cường chỉ huy trung đoàn 12. Các trận địa pháo được bổ sung thêm quân số và đạn. Nhiều chuyến hàng đã vượt qua khu vực Tam Lung lên chi viện cho cụm điểm tựa Đồng Đăng.
Cụm điểm tựa bảo vệ Đồng Đăng: Thâm Mô, Pháo Đài, điểm cao 339 như ba chân kiềng đứng ở phía tây-nam thị trấn Đồng Đăng. Trong những ngày qua, ba điểm tựa đã dựa vào nhau duy trì cuộc chiến đấu, bọn địch tràn lên Pháo Đài thì trận địa 339, Thâm Mô dùng hỏa lực đánh vào sau lưng và bên sườn chúng. Khi địch đánh lên Thâm Mô thì các chiến sĩ ta ở Pháo Đài, 339 lại làm công việc đó... Bọn địch đã bao lần phải thay đổi thủ đoạn để đánh chiếm các điểm tựa này: từ đánh ào ạt xoay sang đánh lấn từng bước, đánh đồng loạt một lúc không được phải xoay sang đánh chiếm từng mục tiêu vẫn không được. Giờ đây chúng phải tăng quân để chuẩn bị đánh một lúc cả ba điểm tựa
Thâm Mô là một ngọn đồi có năm mỏm kéo Đài từ ngã ba đường 1A, 1B đến sát phía nam thị trấn Đồng Đăng do đại đội 2 (tiểu đoàn 4) và đại đội cao xạ 37 chốt giữ. Từ rạng sáng ngày 17 tháng 2 cùng với xe tăng, bọn bộ binh địch đã tạo thành thế vây ép cô lập đại đội cao xạ và đại đội 2 với các đơn vị khác. Từ đó, suốt ngày này qua ngày khác, những trận chiến đấu liên tục diễn ra trên đồi Thâm Mô. Địch đã hai lần chiếm được hầu hết trận địa ta, nhưng được chi viện của trung đoàn, sư đoàn, tiểu đoàn 4 đã đánh hất địch xuống.
Mờ sáng ngày 22, sau khi tăng lực lượng, sư đoàn 63 địch có xe tăng và pháo binh chi viện mở đợt tiến công toàn diện vào cả ba điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, 339. Những trận chiến đấu giằng co quyết liệt diễn ra trên các mỏm đồi Thâm Mô. Các chiến sĩ y tá, nuôi quân, liên lạc cũng quần đánh địch từ khu nhà văn hoá đại đội đến hầm chỉ huy. Địch chết lớp này, chúng thay lớp khác và tới 0 giờ, các mỏm 1, 2, 3 rơi vào tay giặc. Từ đó, trận địa của đại đội 2 ở mỏm 5 mỗi lúc một căng thẳng vì đạn pháo và đạn đại liên địch. Sau năm ngày chiến đấu, lực lượng cơ động của trung đoàn đã bị tổn thất và đại đội 2 chỉ còn lại 20 chiến sĩ, do chính trị viên Phạm Ngọc Yểng và Phan Văn Thắng, học viên Học viện hậu cần về thực tập chỉ huy. Đại đội trưởng Nguyễn Văn Toàn đã hy sinh ngay từ đợt tấn công đầu tiên của địch vào sáng ngày 17.
Sau khi đại đội trưởng hy sinh, Yểng và Thắng trở thành chỗ dựa, thành linh hồn của đơn vị. Hai người thường đảm nhiệm hai hướng đánh và hết sức tin tưởng nhau. Trên ngọn đồi không rộng lắm này đã xuất hiện biết bao sự tích anh hùng mà chỉ khi giặc đến, phẩm chất và khả năng của từng chiến sĩ mới được bộc lộ hết. Chiến sĩ nuôi quân Nguyễn Hữu Dũng, 19 tuổi, suốt năm ngày chiến đấu là năm ngày đêm len lỏi giữa các ổ phục kích của địch, bất chấp pháo đạn ác liệt mang cơm tới từng mỏm đồi cho bộ đội; có lần gặp địch đã dùng dao găm chiến đấu diệt địch thu súng. Khẩu súng trên tay Phạm Ngọc Yểng là khẩu tiểu liên của đại đội trưởng. Trước khi hy sinh, mặc dù không nói được, anh vẫn dồn sức trao khẩu súng cho Yểng như gửi phần trách nhiệm của anh cho bạn.
14 giờ, địch lại nổi hiệu kèn tiến công. Trên đỉnh đồi, tiếng nói của chính trị viên Phạm Ngọc Yểng vang lên: "Các chiến sĩ đại đội 2 tiểu đoàn 4 hãy dũng cảm tiêu diệt quân cướp nước, giữ vững trận địa". Tiếp đó là tiếng súng đánh trả của ta rộ lên. Ở hướng trung đội 3, cuộc chiến đấu đang diễn ra dọc các hào giao thông. Biết lực lượng ta có hạn, địch cứ thúc quân tràn lên. Bộ dội ta đánh địch bằng mọi thứ có trong tay, từ súng đạn đến đất đá và tay không. Bản thân Phan Văn Thắng cũng giật súng địch đánh địch và lấy báng súng quật xuồng đầu chúng
Ở trung đội do Phạm Ngọc Yểng chỉ huy, khi địch ùa vào tầng công sự thứ nhất, các chiến sĩ ta đồng loạt ném lựu đạn theo tiếng hô của Yểng rồi xông tới. Một trận giáp lá cà diễn ra: Một tên địch bất ngờ lao tới húc đầu vào bụng Yểng làm anh ngã ngửa, khẩu tiểu liên văng sang một bên. Tên giặc theo đà chồm lên người Yểng. Nhưng bỗng nó giật nảy người, hai tay buông khỏi cổ Yểng, và vật xuống bên cạnh. Đồng chí liên lạc nhoài người đỡ Yểng. Hai người ôm chầm lấy nhau. Vẫn luôn theo sát chính trị viên, đồng chí liên lạc đã kịp thời kết liễu tên giặc cứu sống Yểng.
Càng về chiều, trận đánh trên đồi Thâm Mô càng diễn ra quyết liệt. Địch dồn quân, dồn đạn để chiếm nốt mỏm đồi cuối cùng trước khi trời tối, nhưng chúng vẫn bị ghìm lại ở tầng công sự thứ nhất. Các chiến sĩ còn lại trong đại đội dồn lên đỉnh đồi.
Xẩm tối, địch lại ồ ạt tổ chức đợt tiến công cuối cùng.Yểng và Thắng chia nhau mỗi người phụ trách một tổ chiến đấu. Lúc đó, trận địa chỉ còn lại 10 chiến sĩ. Từ tầng công sự thứ nhất, giặc bám nhau lao tới. Khẩu AK của Yểng hết đạn. Anh rút súng ngắn đánh địch. Một thằng giặc to béo nhảy bổ vào người anh. Yểng né tránh làm nó lỡ đà rồi giơ thẳng tay nện khẩu K. 54 vào sọ nó.
Tổ của Thắng cũng liên tiếp đánh địch hết đợt này đến đợt khác. Bọn địch chiếm gần hết công sự chiến đấu của tổ. Lựu đạn hết, đạn tiểu liên chỉ còn lại một băng. Giữa lúc đó, tin Phạm Ngọc Yểng hy sinh làm mọi người lặng đi. Thắng ra lệnh cho các chiến sĩ trong tổ rút về chỗ Yểng. Khi ấy. Yểng vẫn ngồi tựa lưng vào vách hào, bàn tay phải còn nắm chặt khẩu K.54, đôi mắt bất động vẫn mở to nhìn thẳng về phía trước. Bên cạnh anh, khẩu AK của đại đội trưởng đã bật lê cũng nằm lặng lẽ. Thắng cúi xuống bàn tay run run vuốt mắt cho Yểng, anh bàn với mọi người phải giữ gìn hai khẩu súng và mai táng thi hài Yểng thật chu đáo. Cuộc chiến đấu ở mỏm 5 đồi Thâm Mô tiếp tục kéo Đài cho đến 20 giờ bọn Trung Quốc mới lên được công sự cuối cùng.
Từ đó, với lòng thương tiếc và yêu mến sâu sắc, các chiến sĩ trung đoàn 12 gọi đồi Thâm Mô là đồi Phạm Ngọc Yểng.
Còn gia đình Phạm Ngọc Yểng khi biết tin này đã viết thư cho trung đoàn 12. Bức thư có đoạn: "Gia đình tôi vô cùng đau xót khi nhận được tin cháu Yểng hy sinh. Bởi vì đối với tất cả mọi người trong gia đình, Yểng là người con hiếu thảo, người anh rất mực yêu thương của các em nhỏ.. . Không thể nào kể xiết nỗi đau buồn của gia đình khi mất đi một người con thân yêu. Nhưng các đồng chí ơi, hôm nay, cố nén đau thương viết thư gửi tới các đồng chí, tôi không muốn nói tới điều ấy mà muốn nói rằng gia đình tôi rất tự hào về cháu và rất căm thù bọn xâm lược... Gia đình tôi thành thật cám ơn Đảng, cám ơn các cán bộ và anh em chiến sĩ đã rèn luyện dìu dắt cháu Yểng trở thành một con người biết chiến đấu đến cùng và dũng cảm hy sinh cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Cám ơn các chiến sĩ trung đoàn Tây Sơn đã gắn tên cháu Yểng với núi sông để cháu sống mãi với đất nước..."
Đối với sư đoàn Sao Vàng trong những ngày quyết liệt này càng thấy rõ phẩm chất cao quí của mỗi cán bộ, chiến sĩ, càng biết ơn những người mẹ Việt Nam đã sinh ra và gửi đến cho sư đoàn những người con ưu tú biết sống, hy sinh và chiến đấu xứng đáng để hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang.
*
* *
Cùng với Thâm Mô, cuộc chiến đấu của chiến sĩ ta ở điểm cao pháo Đài suốt mấy ngày qua cũng diễn ra vô cùng khốc liệt. Điểm tựa Pháo Đài là một dải đồi có sáu mỏm nằm ở mé tây - nam thị trấn Đồng Đăng, cách biên giới chưa đầy hai ki-lô-mét. Trên một mỏm đồi phía đông - nam, trong cuộc xâm lược nước ta trước đây, thực dân Pháp rồi phát xít Nhật đã xây dựng một pháo đài kiên cố để kiểm soát đường xe lửa, đường 1A, 1B và thị trấn Đồng Đăng. Pháo đài có ba tầng xây bằng đá và bê tông cốt thép dày 0,8 đến 1,2 mét; hai tầng dưới là một hệ thống đường ngầm chữ chi khép kín Đài khoảng 350 mét. Dọc hai bên đường hầm chính mở ra nhiều căn hầm rộng chứa được hàng chục người. Từ tầng hầm thứ ba có con đường ngầm chạy thẳng ra thị trấn Đồng Đăng. Bên trên những đường hầm đó là lớp đất dày hai ba chục mét. Năm góc pháo đài là bốn lô cốt và một nhà mái bằng nửa chìm nửa nổi xây bằng bê tông cốt thép dày 1.2 mét. Giữa và xung quanh Pháo Đài có nhiều ụ súng đồng thời là lỗ thông hơi cho các tầng dưới. Pháo Đài có hai cửa. Cửa chính ở phía đông từ nhà mái bằng và một cửa ở phía nam. Những năm trước đây, núp dưới danh nghĩa sang giúp nhân dân ta chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, quân đội Trung Quốc đã để tâm nghiên cứu Pháo Đài. Trước khi rút về nước, chúng phá sập đường hầm ra thị trấn Đồng Đăng, đánh hỏng cửa phía nam và phá hỏng toàn bộ hệ thống dây điện trong Pháo Đài. Tuy vậy Pháo Đài vẫn còn là một vị trí kiên cố có thể chịu đựng được nhiều loại bom pháo trong những cuộc tiến công của địch.
Pháo Đài là một trong những điểm tựa then chốt của trung đoàn 12 do đại đội 42, tiểu đoàn 4 đảm nhiệm. Để chiến đấu thắng lợi, trong những ngày chuẩn bị, đơn vị đã xây dựng một hệ thống hào giao thông và công sự bao quanh Pháo Đài kéo Đài từ mỏm 1 đến mỏm 6. Vị trí chỉ huy của đại đội đặt ngoài Pháo Đài, vì Pháo Đài có giá trị trú ẩn nhiều hơn là một vị trí chiến đấu. Đương nhiên trong những tình huống gay cấn, Pháo đài là nơi giấu quân tốt để từ đó ta mở những mũi phản kích diệt địch.
Nắm được giá trị chiến thuật của dãy điểm cao Pháo Đài, quân đoàn 55 địch đã tập trung xe tăng và bộ binh định đánh chiếm điểm tựa này ngay buổi sáng đầu tiên. Hàng ngàn quả đạn pháo giội xuống Pháo Đài suốt hàng tiếng đồng hồ. Pháo vừa dứt, xe tăng, bộ binh địch đã xuất hiện trước trận địa và những cuộc tiến công ồ ạt của chúng được tiến hành từ nhiều phía lên Pháo Đài.
Hôm đó đại đội trưởng và một số cán bộ trung đội đi tập huấn. Chính trị viên Nguyễn Bát và Ngô Chí Khán, học viên trường sĩ quan chính trị về thực tập nắm quyền chỉ huy đơn vị. Đêm 16 tháng 2, Bát lên mỏm đồi phía bắc kiểm tra trận địa và ngủ luôn với chiến sĩ ở đấy. Khi địch tràn vào, anh chỉ huy trung đội tiền tiêu đánh lui mấy đợt xung phong của chúng và anh dũng hy sinh.
Không bắt liên lạc được với tiểu đoàn, nhưng được các điểm tựa Thâm Mô và 339 chủ động chi viện, Ngô Chí Khán tổ chức đơn vị bám các hào giao thông và công sự đánh trả địch hết đợt này đến đợt khác. Nhưng do lực lượng chênh lệch nên ngày 17 , địch chiếm được 4 mỏm phía bắc Pháo Đài. Đại đội 42 chiến đấu giữa bốn bề quân địch từ đó.
Không thực hiện được ý định chiếm Pháo Đài ngay buổi đầu, rạng sáng ngày 18, lấy các mỏm phía bắc làm bàn đạp, kết hợp với các cánh quân phía tây và phía đông, chúng đánh lên Pháo Đài quyết liệt hơn. Suốt ngày hầu như lúc nào cũng có tiếng súng nổ trên hai mỏm cuối cùng của Pháo Đài. Không chi viện được cho Pháo Đài bằng xung lực, trung đoàn 12 ra lệnh cho các trận địa pháo và các điểm tựa Thâm Mô, 339 thay nhau bắn các loại hỏa lực vào các cánh quân địch, phối hợp với các chiến sĩ từ trên Pháo Đài đánh xuống. Địch dùng xe tăng dẫn đầu bộ binh xung phong nhưng bị pháo 85, cối 120 của ta tiêu diệt. Chúng kéo pháo 85 tới phía bắc Pháo Đài ngắm bắn trực tiếp vào từng công sự của ta nhưng cũng bị pháo bắn thẳng và pháo bắn cầu vồng của ta phá hủy. Được chi viện có hiệu quả của các đơn vị bạn, các chiến sĩ trên Pháo Đài ngày hôm đó dù chỉ còn 27 tay súng vẫn kiên quyết giữ vững trận địa, đẩy lùi 10 đợt tiến công của hàng nghìn quân địch.
Ở trung đội Nguyễn Đình Đức, sau khi địch bỏ chạy, thấy một chiếc xe tăng chúng mắc kẹt ở đoạn suối sâu, không bỏ lỡ thời cơ. Đức ra lệnh cho chiến sĩ yểm hộ rồi nhảy khỏi công sự trườn xuống chân đồi, chui vào gầm xe buộc chùm lựu đạn bốn quả vào xích ở đoạn đầu máy. Một tiếng nổ dậy lên. Bọn giặc hốt hoảng bật nắp xe lao ra ngoài bỏ chạy. Nhưng trên đường trở về, bọn địch ở mỏm đồi phía bắc đã phát hiện thấy Đức và anh bị hy sinh bởi một loạt đại liên của chúng.
Nguyễn Đình Đức hy sinh, nhưng tinh thần tiến công tiêu diệt địch của anh đã nêu gương cho các chiến sĩ quyết bảo vệ Pháo Đài.
Thấy ở Pháo Đài ta vẫn giữ được, đêm hôm đó, gần hai chục chiến sĩ biên phòng thuộc đoàn Thanh Xuyên sau những trận đánh quyết liệt ở sát biên giới đã tìm đường lên Pháo Đài, một số đồng bào ta ở Đồng Đăng cũng tìm lên Pháo Đài. Người nào cũng lấm đầy bùn đất, áo quần bị rách nhưng tất cả đều ánh lên niềm vui sướng được gặp bộ đội. Họ kể cho chiến sĩ nghe những hành động giết chóc, bắn phá, bắt bớ của bọn lính Trung Quốc đối với đồng bào ta ở Đồng Đăng. Thực ra suốt hai ngày nay. Từ trên Pháo Đài, các chiến sĩ đã chứng kiến bao tội ác dã man của giặc gây ra ở thị trấn nhỏ bé này ngay từ những loạt pháo đầu tiên của quân Trung Quốc. Những ngôi nhà đổ sụp, bốc cháy, những tiếng kêu thét của phụ nữ, trẻ em, những cảnh đánh đập xua đuổi tàn nhẫn đồng bào tới nơi tập trung. Tất cả chỉ cách Pháo Đài mấy trăm mét. Tình cảm đối với nhân dân đốt cháy trong lòng chiến sĩ, niềm phẫn uất cao độ quân phản bội cướp nước.
Cũng đêm ấy, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thu cùng một số cán bộ, chiến sĩ cơ quan, vận tải, lách qua các cụm quân địch tới Pháo Đài kiểm tra trận địa, tiếp đạn, lương thực, thực phẩm và vận chuyển thương binh về phía sau. Tiểu đoàn trưởng cho biết, tuy địch cố bao vây chia cắt nhưng trận địa phòng ngự của trung đoàn vẫn giữ vững. Trước mắt còn khó khăn do lực lượng ta có hạn nên phải tổ chức chặt, bám chắc trận địa và phối hợp thật tốt với các đơn vị không cho chúng chiếm Pháo Đài.
Ngày 19 tháng 2, những trận bắn pháo dữ dội của địch từ nhiều hướng dồn vào Pháo Đài. Nguy hiểm nhất là trận địa pháo 85 của địch vừa bí mật kéo lên đồi 440, đồi không tên và trận địa ĐKZ ở mỏm phía bắc Pháo Đài. Chưa kịp nghe tiếng nổ đầu nòng đã thấy đạn pháo cày trước công sự. Chúng còn tổ chức bọn bắn tỉa bám sát cán bộ chỉ huy và các xạ thủ súng máy của ta. Một số chiến sĩ đã hy sinh, bị thương vì bọn bắn tỉa này.
Có thêm các chiến sĩ biên phòng, lực lượng bảo vệ Pháo Đài thêm vững. Do nối lại được thông tin nên việc chỉ huy của trung đoàn, tiểu đoàn đối với Pháo Đài cũng chặt chẽ hơn. Các trận địa pháo sư đoàn, trung đoàn và đơn vị bạn xác định tọa độ khu vực bắn chặn và kìm hỏa lực địch chính xác và đúng thời cơ. Bọn địch tiến công từ phía đông bị cối 120 và súng máy của tiểu đoàn 6 ở điểm cao 339 dáng vào lưng. Chúng tiến công từ phía đông và phía nam bị đại đội 2 ở Thâm Mô bắn lướt sườn. Những tốp địch tiến vào gần Pháo Đài bị các chiến sĩ ta dùng lựu đạn, tiểu liên tiêu diệt. Cứ như vậy, suốt ngày 19 địch vẫn không chiếm được Pháo Đài, mặc dù hôm đó một số cánh quân của chúng đã vượt qua dãy Pháo Đài, Thâm Mô, tiến hành bao vây điểm cao 339 và cắt đường 1B ở Con Khoang, Khôn Làng.
Đêm 19 tháng 2, đại đội trưởng Hoàng Quý Nam và trung đội trưởng Phạm Hồng Minh cùng các chiến sĩ trinh sát dẫn đường vào tới Pháo Đài. Mọi người phấn khởi xúm quanh Nam và Minh, ai cũng thấy vững vàng hơn vì họ biết rõ về những cán bộ ưu tú của mình. Vẻ mặt Nam thoáng buồn vì thấy đại dội chỉ còn có vài chục người. Mở đầu cuộc họp, Nam nói với anh em: "Tôi xin lỗi các đồng chí vì không về được sớm hơn do phải đánh địch dọc đường. Nhưng còn Pháo Đài, thế trận của trung đoàn ta còn đứng vững. Địch ở quanh ta nhưng trung đoàn, sư đoàn ta lại ở xung quanh địch". Niềm lạc quan của Nam đã tăng thêm lòng tin cho từng chiến sĩ. Đêm đó, Nam đi khảo trận địa, điều chỉnh lực lượng; thống nhất phương án, thống nhất chỉ huy với các chiến sĩ biên phòng.
Ngày 20, địch bắt đâu dùng thủ đoạn đánh dần từng bước thay cho thủ đoạn đánh ào ạt. Cụm điểm tựa nam Đồng Đăng là mục tiêu đầu tiên của chúng. Lúc này Pháo Đài, Thâm Mô, 339 như mũi tên cắm sâu vào đội hình địch trên trận địa phòng ngự của sư đoàn. Pháo Đài là đỉnh của mũi tên ấy. Xe tăng, xe kéo pháo chở bộ binh từ mốc 16 theo đường 4A, từ Hữu Nghị Quan theo đường 1A ùn ùn đổ về Đồng Đăng, liên tiếp tiến công lên Pháo Đài, Thâm Mô, điểm cao 339. Ngày hôm ấy, sư đoàn mở những trận phản kích đánh vào cánh quân vu hồi từ Khôn Làng đến Con Khoang, Thâm Mô, buộc địch phải dồn quân đối phó. Các chiến sĩ trên Pháo Đài vừa chặn đánh các cánh quân tiến công lên trận địa mình, vừa chủ động dùng hoa lực bắn vào phía sau đội hình địch đang tràn lên điểm cao 339 và Thâm Mô. Mỗi lần như thế, các chiến sĩ ở chốt tiền tiêu đồi Thẩm Mô lại nhảy lên hoan hô làm cho không khí chiến đấu tuy ác liệt nhưng phấn chấn, tin tưởng. Ngày hôm đó, đại đội 42 bắn cháy hai xe tăng, một xe kéo pháo, diệt gần trăm tên địch.
Ngày 21 , địch dồn quân quanh Pháo Đài đông hơn, bắn pháo dữ dội hơn. Hoàng Quý Nam vẫn đứng ở vi trí chỉ huy của mình ở ngay trận địa hỏa lực. Bên phải là trung đội do Phạm Hồng Minh chỉ huy. Bên trái là các chiến sĩ bộ đội biên phòng do Ngô Chí Khán chỉ huy. Các cụ già, em nhỏ và thương binh nặng được chuyển xuống tầng hầm thứ hai. Như một con thoi, Nam chạy đi chạy lại giữa các tổ động viên bộ đội, tấm vải dù hoa rách toạc từng mảng. Bọn địch bắn tỉa ở mỏm đồi phía bắc mấy lần bắn hụt Nam và các đồng chí chỉ huy trung đội. Nam bố trí bộ phận phục bắn trả lại hạ một số tên. Trận địa DKZ của chúng khống chế gắt gao cửa Pháo Đài nơi thường xuyên qua lại giữa bộ phận chiến đấu và anh em thương binh, cũng là nơi có thể đại đội của anh phải rút về cố thủ. Nam quyết định phải diệt bằng được trận địa hỏa lực của địch. Anh hợp đồng với Khán và các chiến sĩ biên phòng kèm bọn bộ binh, trung đội của Minh kèm bọn xe tăng rồi thận trọng trườn ra hào giao thông bất ngờ đứng dậy bắn liên tiếp hai quả B.41, một quả vào cụm chỉ huy, một quả vào trận địa ĐKZ. Nam là một cán bộ không những chỉ huy giỏi mà còn sử dụng thành thạo nhiều loại vũ khí: AK, M.79, trung liên, đại liên, B.40, B.41 và cả súng cối.
14 giờ chiều, giữa lúc Nam đang giương khẩu B.41 nhằm vào một ổ trọng liên của địch thì một quả đạn B.41 của chúng đã đẩy anh ngã xuống, đùi bên phải giập nát, Nam không nói được câu nào nhưng đôi mắt anh như nói lên tất cả: Một đôi mắt trong trẻo, mở to như muốn níu giữ lấy hình ảnh những khuôn mặt thân yêu của đồng đội. Năm ấy Hoàng Quý Nam vừa tròn 27 tuổi.
Sau khi Hoàng Quý Nam hy sinh, địch tổ chức thêm nhiều đợt xung phong và chiếm được mỏm đồi phía tây-bắc Pháo Đài. Khán, Minh, Thức cùng với những chiến sĩ còn lại rút về mỏm Pháo Đài. Số thương binh và đồng bào được chuyển xuống tầng hầm thứ ba. Một đợt tiến công nữa của địch bị đẩy lui nhưng trung đội trưởng Thức hy sinh, Khán bị thương lần thứ hai.
Vào ngày cuối cùng, Phạm Hồng Minh, người thay thế Hoàng Quý Nam đã huy động toàn bộ lực lượng bám giữ quanh Pháo Đài. Đó là ngày bọn địch vừa đưa lực lượng dự bị vào đánh đồng loạt lên toàn bộ cụm điểm tựa nam Đồng Đăng. Cũng như ở Thâm Mô hôm đó, nhiều cuộc chiến đấu giáp lá cà đã diễn ra quanh của Pháo Đài. Có lúc Minh phải gọi các trận địa pháo của ta bắn trùm lên Pháo Đài để đẩy lùi đợt tiến công ào ạt của địch. Nhưng rồi máy thông tin lại bị hỏng. Các chiến sĩ ta chỉ còn hai vị trí chiến đấu ở cửa Pháo Đài. Một sồ thương binh nặng khi tỉnh dậy, nghe tiếng kêu gọi của Phạm Hồng Minh cũng bò lên cửa Pháo Đài tham gia chiến đấu Mọi người đều xác định: Thà hy sinh chứ không chịu để quân Trung Quốc bắt sống. Nhưng lực lượng quá chênh lệch, sau mấy lần tiến công bằng súng phun lửa, bọn địch đã tràn lên được bề mặt Pháo Đài. Những thất bại suốt năm ngày quanh Pháo Đài làm chúng lồng lên. Sau khi không kêu gọi được các chiến sĩ ta đầu hàng, chúng chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi. Các cụ già, em nhỏ sau những ngày đói khát đã kiệt sức, dần dần lả đi ở các căn hầm vòm. Những chiến sĩ bị thương nặng cũng lần lượt hy sinh. Pháo Đài chỉ còn lại Phạm Hồng Minh và một sồ chiến sĩ bị thương nhẹ. Trước tình hình ấy. Minh quyết định tổ chức đánh địch, mở đường máu để đưa lực lượng còn lại ra khỏi Pháo Đài.
Nếu như tên tuổi Phạm Ngọc Yểng và các chiến sĩ bảo vệ Thâm Mô đã được các chiến sĩ ta gắn liền với tên sông núi thì tên tuổi Hoàng Quý Nam cùng các chiến sĩ bảo vệ điểm cao Pháo Đài đã được lưu lại trong lòng cán bộ chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng và quân dân Lạng Sơn bằng những bài ca mà cho đến nay mỗi khi hát lên vẫn làm xúc động lòng người:
Ta hát lên. ngợi ca Pháo Đài Đồng Đăng
Ta hát lên. tên anh Hoàng Quý Nam.
Trước quân thù sống bất khuất. hiên ngang
Vì nhân dân chết anh dũng vẻ vang
4. TRƯỚC CỬA NGÕ THỊ XÃ LẠNG SƠN.
Đêm 22 tháng 2, thường vụ đảng ủy và bộ tư lệnh sư đoàn họp. Vấn đề trung tâm được đưa ra thảo luận là nên đưa trung đoàn 12 lập trận địa mới hay tiếp tục tỏ chức đánh chiếm lại các trận địa vừa bị mất trên hướng chủ yếu ở Đồng Đăng? Có ý kiến cần tập trung toàn bộ lực lượng khôi phục lại các điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, 339 bởi giá trị chiến dịch của nó có tính chất quyết định đối với việc bảo vệ Lạng Sơn. Mất khu vực cửa ngõ này, mũi vu hồi của địch ở Tam Lung có điều kiện tiến về Lạng Sơn nhanh hơn vì nó sẽ không còn bị đe dọa từ phía sau lưng nữa. Có ý kiến nếu tập trung sức của sư đoàn để phản kích thì sẽ khôi phục lại được trận địa vì ở Thâm Mô và điểm cao 339 ta vẫn còn giữ được một phần đất để làm bàn đạp, nhưng sự tiêu hao sinh lực sẽ lớn. Thêm nữa, địch vẫn liên tiếp tăng quân và đang dồn lực lượng vào hướng chủ yếu. Diệt hết lớp này lớp khác lại tràn đến thay thế. Trong khi ấy lực lượng ta có hạn, nhất là trung đoàn 12 phải tính đến từng người. Do đó, không thể đánh theo lối "đá bóng" như vậy mãi được.
Giữa chừng hội nghị, đồng chí Lê Thanh phó tư lệnh quân khu 1 đến. Sau khi nghe tóm tắt tình hình và những ý kiến thảo luận của hội nghị, đồng chí nhất trí với quyết định của sư đoàn điều trung đoàn 12 tổ chức trận địa phòng ngự ở đường 1B. Đồng chí nhắc sư đoàn những ý kiến của Bộ về mũi vu hồi ở Tam Lung, địch đã không thực hiện được ý định thì bây giờ, khi chiếm được Thâm Mô, Pháo Đài, điểm cao 339, chúng sẽ biến mũi vu hồi Tam Lung thành hướng tiến công chính. Bởi vậy sư đoàn phải nhanh chóng tập trung sức củng cố thế trận để chặn tránh địch ngay trong ngày mai vì trung đoàn 870 của chúng đã tập kết dưới chân điểm cao 811
Từ tình hình cụ thể của sư đoàn và những ý kiến của đồng chí Phó tư lệnh Quân khu, bộ tư lệnh sư đoàn quyết định đưa trung đoàn 12 và tiểu đoàn 1 Bắc Thái về lập trận địa mới trên hướng đường 1B từ Nà Pia đến Lũng Pảng. Đồng thời tập trung lực lượng bộ binh, pháo binh trên đường 1A sẵn sàng đánh phủ đầu trung đoàn 870 địch khi chúng bước vào tác chiến.
Suốt đêm hôm ấy, sư đoàn khẩn trương di chuyển tiểu đoàn 5, sau những ngày chiến đấu dũng cảm ở khu vực Tân Yên được lệnh qua Đồng Uất. Tiểu đoàn 4, tiểu đoàn 6 rời khu vực Thâm Mô, 339 tới khu vực Chóc Vỏ, 393. Tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 7 nhanh chóng từ Thâm Mô, Khôn Làng trở lại nam Tam Lung làm lực lượng cơ động cho sư đoàn. Tiểu đoàn 1 Bắc Thái chiếm lĩnh trận địa ở Nà Pia, Khôn Làng. Các đơn vị trực thuộc cũng được bố trí lại theo đội hình phòng ngự của từng hướng.
Để phục vụ cho sư đoàn điều chỉnh lực lượng, cơ quan hậu cần các cấp làm việc rất khẩn trương linh hoạt. Công tác hậu cần chiến dịch thực hiện tốt một phần do chi viện của hậu phương và cấp trên kịp thời, đắc lực, kết hợp với sự nỗ lực, năng động của các cán bộ chiến sĩ từ cờ quan đến các đơn vị vận tải quân y, các kho trạm, các xưởng quân giới. Chủ nhiệm hậu cần sư đoàn Nguyễn Xuân Khá cùng các trưởng ban, trong mọi cuộc di chuyển đều có mặt ở các mối đường, kiểm tra đôn đốc, bổ sung kịp thời các mặt cho từng đơn vị theo đúng yêu cầu nhiệm vụ. Trong khi đó, các sĩ quan tham mưu, chính trị, cũng xuyên rừng, lội suối đến các trận địa tham gia thực hiện các phương án chiến đấu.
Đêm rời khỏi khu vực Đồng Đăng gợi các chiến sĩ trong sư đoàn nhớ tới đêm rời khu vực Bồng Sơn vào mùa thu năm 1972. Khung cảnh hoang vắng của những bản làng mà sư đoàn hành quân qua, tội ác dã man của bọn bành trướng đã đốt cháy thêm lòng căm thù sâu sắc của cán bộ, chiến sĩ đối với quân xâm lược.
Mọi người đều hiểu trong hình thái phòng ngự của sư đoàn lúc đó, việc chủ động tổ chức lại trận địa là một quyết định chính xác. Sư đoàn cần có thời gian dù là rất ngắn để củng cố lực lượng. Mặt khác, tổ chức phòng ngự ở khu vực mới sư đoàn có điều kiện tập trung được lực lượng mạnh để tăng cường cho hướng phòng ngự chủ yếu, mở các đợt phản kích với quy mô trung đoàn nhằm đánh quỵ các lực lượng đột kích chính của địch.
Cuộc di chuyển đội hình đã diễn ra một cách chủ động và bí mật, đến nỗi sáng ngày 23, ở nhiều nơi, địch vẫn bắn pháo rồi xung phong ồ ạt lên các trận địa đã trống không. Bảy ngày liên tiếp tổ chức tiến công. Ném vào họng súng của đối phương hàng ngàn binh lính, hàng trăm xe tăng, xe cơ giới và pháo binh, bọn xâm lược Trung Quốc tiến được vẻn vẹn có bốn ki-lô-mét. Người ta nói rằng đó là một tốc độ tiến quân chậm nhất, tổn thất và tốn kém nhiều nhất so với bất kỳ cuộc chiến tranh xâm lược nào trong lịch sử. Bị Hứa Thế Hữu và Đường Đắc Chí thúc ép, vì một tuần lễ rồi vẫn chưa đánh tan được sư đoàn Sao Vàng để tới Lạng Sơn, sau khi chiếm được khu vực Đồng Đăng, bộ chỉ huy địch trên hướng Lạng Sơn chủ trương không để cho đối phương kịp hồi sức đã tổ chức đánh ngay vào khu vực phòng ngự của sư đoàn Sao Vàng ở Tam Lung. Chúng đinh ninh có bàn đạp Đồng Đăng với nhiều trận địa pháo vừa được thiết lập và sư đoàn Sao Vàng đã bị thiệt hại nặng nề ở Thâm mô, Pháo Đài, điểm cao 339 không thể nào đứng vững được trước đòn tiến công tập trung cao độ của chúng. Nhưng một lần nữa chúng phải trả giá cho sự chủ quan hợm mình đó.
7 giờ 30 phút ngày 23, hầu như toàn bộ lực lượng pháo binh địch trên hướng Lạng Sơn đều đổ đạn vào cụm điểm tựa Tam Lung. Bỗng nhiên, trong những phút cuối của trận mưa đạn ấy, đài quan sát trung đoàn 2 báo cáo pháo địch còn bắn nhưng một tiểu đoàn bộ binh chúng đang di chuyển dưới trung tâm tọa độ bắn phá hoại ấy. Nhận thấy địch đang có thủ đoạn mới, trung đoàn trưởng Nguyễn Lư vội cầm máy yêu cầu tiểu đoàn 3 ở Chậu Cảnh báo cáo cụ thể. Một lát, tiểu đoàn trưởng Đỗ Ngọc Ngòi cho biết, sau khi bắn đạn thật, địch bắn pháo giấy lên trận địa ta cho bộ binh chúng tiếp cận.. anh đã thông báo cho bộ đội biết và đang chuẩn bị chiến đấu...
Trung đoàn trưởng thở phào. Anh điện cho tiểu đoàn 2 nhắc địch đang nghi binh bắn pháo giấy để chiếm Phai Môn. Chú ý cảnh giác và đánh cho thật tốt.
Vừa buông ống nói, anh đã nghe tiếng súng rộ lên trên trận địa của tiểu đoàn 3. Đinh ninh với thủ đoạn bắn pháo giấy, bọn giặc ùn ùn kéo lên Phai Môn, một điểm cao nằm cách khu đồi Chậu Cảnh 500 mét về phía nam. Sở dĩ lần này địch tiến đánh Phai Môn trước vì Phai Môn là một mắt xích trọng yếu trong trận địa phòng ngự bảo vệ Lạng Sơn của sư đoàn. Chiếm được Phai Môn, địch sẽ khống chế khu đồi Chậu Cảnh, Bản Phân và các khu vực khác. Nhưng ở điểm cao này, sư đoàn Sao Vàng đã chuẩn bị một trận giáng trả đích đáng đối với bọn xâm lược bằng đòn tiến công chặt chẽ giữa pháo binh và bộ binh. Suốt đêm 22, mặc dù vừa trải qua một ngày chiến đấu khốc liệt, sư đoàn đã nhanh chóng hoàn chỉnh thế trận phòng ngự mới, tập kết toàn bộ lực lượng cơ động của mình trên hướng chủ yếu, xác định tọa độ bắn cho pháo binh vào các khu vực dự kiến tác chiến, đặc biệt đã bí mật đưa trận địa pháo 85 bắn thẳng lên điểm cao 417 cách Phai Môn chưa đầy một ki-lô-mét để chi viện trực tiếp cho bộ binh. Tất cả khối công việc khổng lồ đó chỉ diễn ra trong một đêm, khiến cho bọn địch khi ào ạt tràn lên Phai Môn đã hứng chịu một trận tập kích bất ngờ, dữ đội của pháo binh ta giáng xuống. Đội hình chúng lập tức rối loạn, số xông lên đỉnh đồi bị các chiến sĩ đại đội 10 đánh hất xuống, số tụt xuống suối bị pháo ta giã vào. Hàng trăm tên địch đã phải bỏ mạng trong những đợt tiến công ấy.
Sau lần xung phong thứ sáu, địch buộc phải rút về điểm cao 611 và điểm cao 409. Lúc đó, sư đoàn ra lệnh cho trung đoàn 2 dùng lực lượng cơ động cắt rừng đánh thốc vào sườn đội hình chúng. Hàng trăm xác giặc nằm ngổn ngang trên đường rút chạy của chúng.
Một tiếng đồng hồ sau, trinh sát sư đoàn báo cáo một cánh quân địch từ Đồng Đăng xuống nhập bọn với đám tàn binh vừa thua trận lại kéo vào Phai Môn. Bộ tư lệnh sư đoàn nhận định địch đã tung lực lượng dự bị vào để chiếm bằng được Phai Môn. Lập tức, lệnh chiến đấu được truyền ngay tới các đơn vị.
14 giờ, khi pháo địch đang bắn lên trận địa Phai Môn, sư đoàn ra lệnh cho pháo binh ta bắn trùm lên cụm xuất phát tiến công của địch ở dưới chân đồi. Sau đó, khi địch thực hành xung phong thì lực lượng cơ động của trung đoàn 2 cũng được lệnh xuất kích diệt địch ở lưng chừng đồi phối hợp với đại đội 10 từ đỉnh đồi đánh xuống. Trận kịch chiến diễn ra hàng tiếng đồng hồ.
Giữa bốn bề là địch, đại đội 10 dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Phan Bá Mạnh và chính trị viên Nguyễn Xuân Phúc đã bình tĩnh đánh trả hết toán quân này đến toán quân khác của chúng. Mỗi người đều khoác trên mình hai ba khẩu súng để diệt địch. Đại đội trưởng Phan Bá Mạnh vừa dùng AK vừa bắn B.40; ở đâu khó khăn là có anh. Trong một lần di chuyển, anh đã trúng một quả đạn ĐKZ của địch. Phan Bá Mạnh hy sinh để lại tấm gương chiến đấu oanh liệt và niềm thương tiếc vô hạn cho cán bộ chiến sĩ trong đơn vị. Thay thế Mạnh, chính trị viên Nguyễn Xuân Phúc tiếp tục chỉ huy đơn vị đánh hất địch xuống chân đồi, giữ vững trận địa.
Không chiếm được Phai Môn, địch dồn quân đánh vào Chậu Cảnh vào lúc 15 giờ 45 phút. Tại đây địch không ngờ toàn bộ đội hình tiến công của chúng đã phơi lưng một cách lộ liễu trước trận địa pháo bắn thẳng của sư đoàn và các trận địa hỏa lực của trung đoàn 2. Một trận bắn pháo dữ dội và chính xác của ta đã giáng xuống đội hình dày đặc của địch. Trong cảnh hoảng loạn của chúng, trung đoàn 2 ra lệnh cho một bộ phận tiểu đoàn 3 xuất kích, tiến công từ bên sườn, phối hợp với các chiến sĩ từ trên điểm tựa đánh xuống. Hàng trăm xác giặc bỏ tại trận địa, đánh đấu thất bại nặng nề của trung đoàn 870 địch sau 12 lần tiến công vào Tam Lung.
Nắng chiều tắt dần trên các điểm cao. Không gian trở lại yên ắng. Một ngày chiến đầu căng thẳng nữa đã trôi qua. Dưới các thung lũng về phía bắc, bọn địch đang lặng lẽ thu thập tàn quân và quát nạt nhau qua sóng đài hai oát vì không tìm thấy "thủ trưởng số 2"1 (Chú thích 1. Mật danh của tên phó trung đoàn trưởng địch.) Hơn một ngàn tên giặc bị tiêu diệt trong ngày hôm đó.
Vào lúc 15 giờ ngày hôm ấy, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng dẫn đầu đoàn cán bộ lên kiểm tra hướng Lạng Sơn, tới sở chỉ huy làm việc với bộ tư lệnh sư đoàn Sao Vàng. Sư đoàn trưởng sư đoàn Sao Vàng đã bác cáo với đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị toàn bộ diễn biến và kết quả chiến đấu bẩy ngày qua với tất cả những ưu điểm và thiếu sót trong công tác chỉ huy, bảo đảm cũng như tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ.
Khi sư đoàn trưởng trình bày xong, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nói, đại ý: So với những ngày đầu đánh Mỹ, sư đoàn đã vận dụng chiến thuật nhạy bén và chững chạc hơn nhiều. Bộ đội có bản lĩnh vững vàng nên trong mọi tình huống vẫn độc tập tác chiến và đánh khá tốt ở nhiều khu vực. Phải nhanh chóng phát huy những hành động anh hùng, bất khuất của cán bộ chiến sĩ và những phân đội đã đánh giáp lá cà, đánh bằng mọi thứ vũ khí, quả cảm, quên mình để bảo vệ trận địa. Đồng chí còn cho biết bảy ngày vừa qua, sư đoàn đã đánh với ba phần tư lực lượng của hai quân đoàn địch có hàng trung đoàn xe tăng yểm trợ. Đó là một cố gắng rất đáng kể. Tuy vậy, những thiếu sót về tổn thất vũ khí, phương tiện và duy trì kỷ luật chiến trường đối với cơ sở cần phải chú ý nghiêm khắc hơn. Các khu vực phòng ngự phải có kế hoạch bảo đảm để bộ đội có thể trụ bám được. Thị xã Lạng Sơn vẫn đang là mục tiêu của địch nên sắp tới sư đoàn còn phải đánh với những lực lượng đông hơn; ác liệt hơn. Trước mắt, sư đoàn điều chỉnh thế bố trí trận địa như vậy là kịp thời và cần thiết. Địch càng tiến vào sâu, tốc độ phát trổên càng chậm, tổn thất càng tăng. Đó là dấu hiệu của sự thất bại và nhất định chúng sẽ thất bại nặng như đã từng thất bại ở biên giới Xô - Trung năm trước.
Ngày hôm đó, trên toàn tuyến biên giới. địch bị chặn đứng lại trước các mục tiêu then chốt của chúng. Ở Cao Bằng.. hai quân đoàn 41, 42 và một sư đoàn độc lập có xe tăng, pháo binh yểm trợ đã bị đánh thiệt hại nặng ở Tà Sa, Nà Ngần, Bản Chan, Tĩnh Túc, Khâu Dồn, Khâu Chỉ... Ở Lào Cai, bốn sư đoàn của hai quân đoàn 13, 14, hai tiểu đoàn xe tăng bị bám đánh liên tục ở tây Lào Cai, Cốc Sân. Thanh Bình, bản Lầu, ga Phố Mới... Ở Hà Tuyên. Quảng Ninh, tiếng súng chặn địch vẫn vang lên từ ngày 17 tháng 2. Càng tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, địch càng lúng túng. Các mục tiêu chiến dịch đặt ra trong 48 giờ đồng hồ đến nay vẫn chưa đạt được. Cay cú, Hứa Thế Hữu và Đường Đắc Chí quyết định tung thêm các đơn vị bộ binh, pháo binh, xe tăng, lấy các binh đoàn chủ lực làm lực lượng đột phá, đánh chiếm bằng được các mục tiêu quy định; trong đó thị xã Lạng Sơn là mục tiêu chủ yếu của chúng.
*
* *
Sau hội nghị đảng ủy sư đoàn đêm 23 tháng 2 và những chỉ thị của đoàn kiểm tra Quân ủy Trung ương, sư đoàn gấp rút bố trí thế trận trên đường 1B, điều chỉnh lực lượng phòng giữ ở hướng đường 1A. Đại tá Nguyễn Ngọc Diệp, cục trưởng cục nhà trường, người sẽ thay thế chính ủy sư đoàn Nguyễn Khắc Hào đi nhận nhiệm vụ mới, cùng với các phái viên Bộ Tổng Tham mưu, phái viên Quân khu 1 xuống thẳng trung đoàn 12 hướng dẫn rút kinh nghiệm chiến đấu, tham gia tổ chức thực hiện phương án mới và động viên quyết tâm của cán bộ chiến sĩ.
Bộ tư lệnh Quân khu 1 tăng cường cho sư đoàn các đơn vị binh chủng kỹ thuật: B.72, A72.. xe tăng, công binh, tự vệ các cơ quan, xí nghiệp, nhà máy quanh thị xã Lạng Sơn được trang bị thêm súng đạn. Bộ đội địa phương các huyện Văn Quan, Chi Lăng, Hữu Lũng, các tiểu đoàn trực thuộc huyện Gia Lâm. Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm mới được nhân dân Hà Nội gửi lên Lạng Sơn sẵn sàng ra tuyến trước tham gia chiến đấu, biểu hiện sinh động ý chí đánh địch từ xa của quân dân Hà Nội bảo vệ Thủ đô yêu dấu.
Suốt ba ngày 24, 25, 26, mặt trận Lạng Sơn lắng dịu. Trong khi ta khẩn trương bố trí lại thế trận phòng ngự thì địch cũng gấp rút chuẩn bị cho những đợt tiến công mới. Quân đoàn 54 dự bị chiến dịch cùng với Sư đoàn 129, quân đoàn 43 được tung nốt vào khu vực tác chiến. Trong khi đó từ phía sau, những cuộc đôn quân, thay quân của chúng vẫn khẩn trương thực hiện. Hàng ngàn xe tải phủ kín bạt chạy thâu đêm sang tận Đồng Đăng đổ lính, đổ hàng. Tuyến xe lửa Bằng Tường Nam Quan tăng ngày bốn chuyến, chở từ 2.000 đến 3.000 quân và hàng ngàn tấn phương tiện. Khác với ngày 17 tháng 2, các cánh quân vu hồi lần này không thực hiện trước khi nổ súng mà triển khai trong quá trình tiến công với độ sâu từ bốn đến sáu ki-lô-mét.
6 giờ 05 phút sáng ngày 27 tháng 2, một đợt tiến công mới của quân Trung Quốc xâm lược vào trận địa phòng ngự của sư đoàn Sao Vàng bắt đầu. Với ba sư đoàn bộ binh 160, 161, 129, 90 xe tăng, 500 khẩu pháo các cỡ của 12 trung đoàn pháo binh, bốn tiểu đoàn tên lửa, bọn địch đã ồ ạt tiến công trên một chiều dài 20 ki-lô-mét từ xã Hồng Phong huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu huyện Cao Lộc.
Bằng một lực lượng đông gấp ba trên một về sồ lượng đơn vị, sáu trên một về binh lực và hỏa lực, bọn địch tin chắc sẽ nhanh chóng phá vỡ trận địa phòng ngự của sư đoàn Sao Vàng. Nhưng ở khắp nơi, chúng đã bị chặn đứng và bị đánh trả dữ dội.
Suốt ngày hôm đó sư đoàn 129 không sao đột phá nổi trận địa cơ bản của trung đoàn 141. Các chiến sĩ tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn địa phương huyện Cao Lộc đã cản phá nhiều đợt xung phong của một trung đoàn địch bằng các bãi mìn liên hoàn, các trận tập kích hoả lực, xung lực. Mỗi thước đất đi Bản Xâm, đi Thanh Lòa đều thấm đầy máu giặc.
Ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 cũng bị ghìm lại trước trận địa phòng ngự của trung đoàn 12. Tiểu đoàn 1 Bắc Thái, đơn vị đảm nhiệm khu vực then chốt của trung đoàn, hợp đồng chặt chẽ với tiểu đoàn 5 và được sự chi viện kịp thời của tiểu đoàn 23 pháo binh đã đánh lui 11 đợt xung phong của hơn một trung đoàn địch có 40 xe tăng yểm trợ. Riêng đại đội 1 ở phía bắc điểm cao 500 đã quần lộn với hai tiểu đoàn địch. Tiểu đội 7 khi hết đạn đã nhất loạt dùng lê, báng súng đánh giáp lá cà với chúng. Gần 600 tên địch, bảy xe tăng bị tiêu diệt trong ngày hôm đó.
Ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 cùng một lúc vừa chặn đánh sư đoàn 160 từ phía bắc xuống, vừa đánh với cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 từ hướng tây-bắc thọc sang. Những trận chiến đấu không cân sức diễn ra dai dẳng trên các mỏm đồi Không Tên, Chuồng Cu, 477, 417 từ sáng sớm đến tối mịt. Cùng với bộ binh, các pháo thủ tiểu đoàn 11 trung đoàn 68 đã chiến đấu hết sức kiên cường trên các trận địa bắn thẳng Cồn Phủ, 417. Vừa tiêu diệt xe tăng, trận địa hỏa lực địch, các pháo thủ vừa hạ thấp nòng pháo bắn tung từng tốp lính khi chúng la hét tràn lên định chiếm trận địa.
14 giờ ngày hôm đó, trong khi các trận đánh dồn dập diễn ra ở khắp nơi, một tiểu đoàn địch lặng lẽ luồn qua phía sau tiểu đoàn 1 bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn. Mất điểm cao 800, trận địa phòng ngự của trung đoàn 2 bị một lỗ rò chiến thuật lớn. Do đó, mặc dù đã đánh thiệt hại nặng trung đoàn 850 của địch (trung đoàn này mới được tung vào thay thế trung đoàn 870) tiêu diệt hàng ngàn tên, thế trận của ta ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao 417 đã bị chọc thủng. Địch ùn ùn dồn tới từ phía điểm cao 800.
Biết tổ chức đánh chiếm điểm cao 800 không kịp nữa, bộ tư lệnh sư đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 6 nhanh chóng lập trận địa từ khu vực Kéo Càng nối liền với trận địa tiểu đoàn 3 ở đông Quán Hồ. Đồng thời ra lệnh cho trung đoàn 141 củng cố thêm các điểm tựa, nhất là điểm cao 449. Tất cả đều phải gấp rút hoàn thành trước khi trời sáng.
Trước đó hai ngày, vào chiều ngày 25 tháng 2, tại Mai Sao, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đã họp với các đồng chí chỉ huy tiền phương Quân khu 1, đại diện tỉnh ủy, bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn và các cán bộ chủ chốt của các sư đoàn ở mặt trận Lạng Sơn. Tại cuộc họp quan trọng này đồng chí công bố quyết định của Bộ Quốc phòng về việc thành lập Quân đoàn 14 thuộc Quân khu 1 và thành lập Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn. Các đơn vị nằm trong đội hình quân đoàn gồm có sư đoàn 3, sư đoàn 327, sư đoàn 338, sư đoàn 337 (đang từ quân khu 4 ra) và sau này có thêm sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.
Quân đoàn 14 được thành lập, đáp ứng đòi hỏi việc tăng cường lực lượng và chỉ huy thống nhất, hình thành những quả đấm mạnh của lực lượng chủ lực, đồng thời báo hiệu một đợt phản kích trên quy mô lớn nhằm tiêu diệt quân Trung Quốc trên mặt trận Lạng Sơn.
Đêm hôm ấy, Tư lệnh Quân đoàn 14 tới sở chỉ huy sư đoàn Sao Vàng. Sau khi nắm lại tình hình khu vực tác chiến, đồng chí truyền đạt ý định của tiền phương Quân khu 1: Các đơn vị pháo binh, xe tăng trước đây tăng cường cho sư đoàn 3 nay sẽ do quân đoàn trực tiếp chỉ huy. Sư đoàn 337 chính thức đảm nhiệm chiến đấu tại cầu Khánh Khê. Từ ngày 28 tháng 2, sư đoàn 327 sẽ bước vào chiến đấu, đảm nhiệm phòng ngự tại thị xã Lạng Sơn, thị trấn Kỳ Lừa. Những quyết định đó đã tạo điều kiện cho sư đoàn 3 tập trung sức diệt địch, bảo vệ trận địa, chặn bước tiến của chúng.
Chiếm được khu vực Tam Lung và điểm cao 800, bộ chỉ huy quân sự địch liền ra lệnh cho các đơn vị của chúng tấn công thị xã Lạng Sơn vào sáng ngày 28. Chúng khẳng định lực lượng của sư đoàn Sao Vàng không còn bao nhiêu và không chịu nổi lần tiến công áp đảo này. Nhưng một lần nữa chúng đã tính nhầm.
Suốt ngày 28 tháng 2 rồi ngày 1, 2 tháng 3, tuy đã đổ vào hướng tiến công này gần năm sư đoàn bộ binh, địch vẫn không sao vượt qua nổi đoạn đường 4 ki-lô-mét để vào thị xã. Những trận đánh nảy lửa đã diễn ra tại đông và tây Quán Hồ (nam Tam Lung). Các tiểu đoàn bộ binh, các đại đội hỏa lực 12.7, DKZ, cối 82 của ta được pháo binh chi viện đã trụ bám đánh trả dai dẳng trên từng đoạn đường, từng mỏm đồi. Mỗi thước đất ở đây đều thấm đầy máu giặc. Mỗi khúc đường, mỗi ngọn đồi đều ghi dấu tích anh hùng của các chiến sĩ ta quyết hy sinh chiến đấu để bảo vệ trận địa. Trên đồi Kéo Càng, đại đội 61, đơn vị anh hùng đã từng nổi tiếng với chiến công Cây Rui năm 1972, và mới đây ở điểm cao 339, đã lại đánh một trận vô cùng oanh liệt.
Hôm ấy (28-2) ba tiểu đoàn địch từ ba hướng đánh vào Kéo Càng nơi chúng được báo là có sở chỉ huy trung đoàn 2, đơn vị đã làm cho chúng tổn thất nặng nề và khốn quẫn hơn chục ngày nay ở Tam Lung. Những cay cú và tổn thất đó giờ đây được chúng đổ vào đồi Kéo Càng. Một ngọn đồi mấy trăm mét vuông, chúng bắn liên tục nửa tiếng đồng hồ bằng đủ thứ đạn pháo và hỏa tiễn. Sau đó bọn bộ binh chia thành nhiều mũi luồn rừng ào tới. Nhưng sở chỉ huy trung đoàn 2 đã di chuyển. Đại đội 61 do chính trị viên Nguyễn Văn Biết và phó chính trị viên đại đội Bùi Đình Hưng chỉ huy đang chờ chúng. Được chỉ viện của trận địa hỏa lực 12.7, đại đội 61 đã bất ngờ đánh trả địch quyết liệt. Từng công sự, từng gốc cây đều trở thành điểm tựa vững chắc của các chiến sĩ.
Cuộc chiến đấu kéo dài từ sáng đến chiều. Địch bị chết hàng trăm tên, nhưng vòng vây của chúng quanh đại đội 61 mỗi lúc càng hẹp lại. Thấy trước kết cục có thể xảy ra, Nguyễn Văn Biết ra lệnh cho Bùi Đình Hưng nhanh chóng đưa anh em thương binh ra. Thấy Hưng do dự, Biết nói: "Chúng ta phải còn người để xây đựng đơn vị nếu còn muốn tiếp tục chiến đấu". Hưng và số anh em vừa ra khỏi một lúc thì đạn pháo địch lại giới xuống đồi Kéo Càng và sau đó là tiếng súng AK, tiếng súng B.40 rộ lên từng chập hàng tiếng đồng hồ nữa mới ngừng hẳn. Chính trị viên Nguyễn Văn Biết và các chiến sĩ của anh đã chiến đấu tới người cuối cùng, viên đạn cuối cùng.
Cũng như Phạm Ngọc Yểng, Hoàng Quý Nam, Phan Bá Mạnh ở Thâm Mô, Pháo Đài, Chậu Cảnh, Nguyễn Văn Biết và chiến sĩ đại đội 61 đã chiến đấu như những anh hùng. Mọi người vẫn nhớ nghị quyết hội nghị bất thường của chi bộ đại đội 61 ở điểm cao 339 khi hàng trung đoàn địch có xe tăng yểm trợ bao vây tiến công lên trận địa trong mấy ngày đầu chiến tranh: "Chúng ta quyết bảo vệ 339 như đại đội ta đã từng bảo vệ Cây Rui năm xưa". Và những đảng viên, cán bộ chiến sĩ đại đội 61 đã thực hiện quyết tâm đó một cách trọn vẹn. Họ đã bảo vệ trận địa 339 với những khẩu 85 bắn thẳng làm cho bộ binh, xe tăng địch kinh hồn. Những khẩu cối 120, 82 bắn đâu trúng đó và cuối cùng là những trận chiến đấu bằng súng trường, AK, B.40 hết ngày này qua ngày khác giữa bốn bề quân địch, kể cả khi Pháo Đài, Thâm Mô đã bị giặc chiếm. Một lần nữa các chiến sĩ đại đội 61 lại làm cho địch phải khâm phục. Một đại đội ta đã đương đầu với lực lượng gần một trung đoàn của chúng và đã chiến đấu tới cùng chứ không chịu để bị bắt sống, cũng không hề nghĩ đến chuyện rút lui mặc dù vẫn còn có điều kiện làm việc đó.
Tất cả những điều ấy dường như không thể tưởng tượng nổi đối với bọn xâm lược. Mấy ngày qua, những trận địa mà chúng chiếm được chứng tỏ đối phương chẳng có lực lượng bao nhiêu và những người hy sinh chỉ còn những khẩu súng đã hết sạch đạn, đã bật sẵn lê hoặc chỉ còn một đoạn súng gãy nắm trong tay.
Rạng sáng ngày 2 tháng 3, sau khi tung thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54, bộ chỉ huy địch ra lệnh cho sáu sư đoàn cùng tiến công trên nhiều hướng hòng chiếm thị xã Lạng Sơn ngay ngày hôm đó. Nhưng một lần nữa, bọn chúng lại không thực hiện được ý định tưởng đã cầm chắc phần thắng ấy.
Sau những đợt bắn pháo và hỏa tiễn điên cuồng lên trận địa ta, xe tăng, bộ binh địch từ các ngả tràn ra như kiến cỏ. Những trận kịch chiến bắt đầu từ đó. Trung đoàn 42. sư đoàn 327 của ta chặn đánh cánh quân địch ở bắc thị trấn Kỳ Lừa. Lực lượng còn lại của trung đoàn 2 và tiểu đoàn 6 sư đoàn Sao Vàng chặn đánh cánh quân địch ở bắc Tam Thanh nhằm bẻ gãy hai gọng kìm lợi hại của chúng. Trung đoàn 166 pháo mặt đất, trung đoàn 272 pháo cao xạ vừa chi viện cho bộ binh ta vừa bắn vào đội hình xe tăng và bộ binh địch trên đồng trống. Đại đội 5 xe bọc thép K.63 xuất kích đánh địch từ Tam Thanh đến Kỳ Lừa. Khu vực tác chiến cứ ngày một loang ra trên một chính diện rộng. Từ Tùng Huống đến Lục Khoang, từ Tam Thanh đến bắc sông Kỳ Cùng những trận chiến đấu diễn ra không lúc nào dứt.
Trên trận địa phòng ngự của trung đoàn 141, kết hợp với những trận phản kích, trung đoàn thực hiện có hiệu quả những trận tập kích bằng hỏa lực, gây cho địch nhiều thiệt hại. Chỉ sau hai ngày tiến công, sư đoàn 129 địch đã phải tung lực lượng dự bị vào đối phó với các trận đánh của ta. Ở điểm cao 449 và 473, tiểu đoàn 8, tiểu đoàn 7 giành đi giật lại với địch mỗi ngày năm, sáu lần, có trận, ta và địch giành nhau từng đoạn hào, từng công sự. Địch đánh vào sở chỉ huy trung đoàn, cắt đường dây điện thoại và toàn bộ các hệ thống liên lạc bị cắt đứt. Tuy vậy các đơn vị vẫn chủ động đánh địch, và đến ngày 2 tháng 3, tiếng súng vẫn nổ dữ dội trên điểm cao 614.
Trên hướng đường 1B, trung đoàn 12 từ sáng ngày 28 lại bước vào những trận quyết chiến mới.
Bị chặn đứng trước trận địa của tiểu đoàn 1 Bắc Thái và tiểu đoàn 5, sư đoàn 116 Trung Quốc vội vã tổ chức những cánh quân vu hồi đánh chiếm các điểm cao 555, 559, ngầm Khánh Khê và phong tỏa bờ bắc sông Kỳ Cùng. Đường 1B đoạn Điềm He đi Đồng Uất bị địch khống chế. Trung đoàn 12 trở thành một đơn vị tác chiến giữa lòng địch từ đó.
Ngày 1 và 2 tháng 3, bọn địch ném thêm lực lượng dự bị vào nhưng thế trận của trung đoàn 12 vẫn được giữ vững. Hàng loạt các trận đánh vận động tiến công, tập kích, phục kích liên tiếp được thực hiện trên các điểm cao 500, 607, 300, đồi Lê Đình Chinh, ngã ba Đồng Uất tiêu diệt hàng ngàn tên giặc. đánh thiệt hại nhiều đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn địch. Trong đó trận tập kích điểm cao 500 của đại đội 1 tiểu đoàn công binh sư đoàn và trận phục kích địch trên đường 1B của đại đội 51 tiểu đoàn 5 là những trận đánh xuất sắc.
Rạng sáng ngày 1 tháng 3, 20 chiến sĩ đại đội 1 do đại đội trưởng Nguyễn Nho Bông chỉ huy, bằng một trận tập kích chớp nhoáng đã đánh thiệt hại nặng một đại đội địch, khôi phục lại điểm cao 500 bị chúng chiếm từ mấy hôm trước:
Tiếp đó là những trận phản kích quyết liệt, địch nhiều lần tổ chức lực lượng đông gấp bội để chiếm lại điểm cao này nhưng đều bị đại đội đẩy bật trở xuống. Đại đội trưởng Nguyễn Nho Bông nhắc anh em bám chắc công sự rồi dẫn theo hai chiến sĩ tổ chức một mũi đánh tạt sườn đội hình tiến công của địch. Mới vận động được hơn hai chục mét, hai chiến sĩ trúng đạn hy sinh. Còn lại một mình, Bông vẫn không từ bỏ mũi tạt sườn mà anh cho rằng chỉ có nó mới đầy lui được quân địch ra khỏi trận địa của đại đội. Vận động thêm một quãng ngắn nữa, Bông nhìn thấy một tên giặc nấp sau một bụi cây đang giương khẩu B.41 về phía trận địa ta định bóp cò. Nhanh như cắt, Bông nhào tới giật khẩu súng trên tay nó. Thằng giặc hốt hoảng chồm dậy giằng trở lại. Bông dựa thế co chân đạp mạnh vào bụng dưới khiến nó kêu rú lên. ngã vật trên mặt đất. Thuận tay. Bông vung khẩu B.41 đập một nhát vào đầu nó. Bỗng từ bên phải một tên khác với khẩu CKC đã giương lê nhảy xổ vào Bông. Anh né tránh đường lê rồi rút khẩu K.54 bắn vào gáy tên địch. Cùng lúc, Bông phát hiện một khẩu đại liên địch đang thay băng. Anh ném một quả lựu đạn. diệt luôn ụ đại liên đó.
Bị đánh đứt đôi đội hình một cách đột ngột, bọn địch phải tụt xuống chân điểm cao, bỏ giở cuộc tiến công mà chúng đã nắm chắc phần thắng. "Đánh tạt sườn" là chiến thuật mà hầu như trận nào Nguyễn Nho Bông cũng thực hiện, có khi chỉ một tổ, thậm chí chỉ một người và bao giờ cũng đạt được kết quả tốt. Có trận đánh đêm, mũi tạt sườn của Bông đi lẫn vào đội hình địch. Anh em chỉ nghe thấy tiếng Bông thét lớn: "Đánh, nó đấy, bắn đi !". Tiếng súng rộ lên. Lát sau, Bông chạy về, ngón tay út của anh bị gãy nhựng hỉ hả: "Mình với nó rúc chung một chiếc hầm, sờ thấy mũi nhau nên chỉ diệt được bảy tên, tiếc quá".
Có thể nói không quá rằng, trong những ngày quần lộn giữa đội hình phản kích của địch, cùng với tinh thần chiến đấu lạc quan, gan dạ của các chiến sĩ trung đoàn 12 và các đơn vị trực thuộc trong sư đoàn, ý chí và hành động chiến đấu của Nguyễn Nho, Bông là một biểu hiện hết sức sống động về khả năng tiến công mưu trí, quyết liệt.
Những năm trước đây, trung đoàn 12 đã biến con đường số 19 thành con đường chết đối với bọn Mỹ-ngụy-Nam Triều Tiên thì hôm nay, trung đoàn lại biến đường 1B, đường Hoàng Văn Thụ thành mồ chôn xác quân Trung Quốc xâm lược. Sườn phía tây thị xã Lạng Sơn vẫn được trung đoàn 12 giữ vững.
Trụ bám với các chiến sĩ sư đoàn Sao Vàng là những trung đội dân quân, những tập thể cán bộ nhân viên các cơ quan xí nghiệp, các cửa hàng bách hóa huyện, xã. Trên một đoạn sông Kỳ Cùng ở ngầm Khánh Khê, mẹ Lý Thị Lời, chi hội trưởng phụ nữ xã Nhạc Kỳ huyện Văn Lãng không sợ hy sinh, ác liệt, ngày đêm bám bến, bám thuyền đưa bộ đội qua sông. Anh em gọi bến đò này là "Bến đò mẹ Lời", "Bến đò mẹ Suốt xứ Lạng". Bác nông dân người Tày Hoàng Văn Phát, xã Phú Xá đã cùng với du kích ở lại vừa đánh địch bảo vệ làng bản vừa giã gạo tiếp tế cho bộ đội, khi cần, bác trở thành chiến sĩ liên lạc của đội trinh sát trung đoàn. Mặc dù có chỉ thị sơ tán triệt để của tỉnh, huyện nhưng nhiều người dân vẫn tình nguyện ở lại và họ đã trở thành những chiến sĩ bám trụ kiên cường.
Ngày 2 tháng 3, Bộ tư lệnh Quân đoàn quyết định điều sư đoàn Sao Vàng về làm nhiệm vụ cơ động cho quân đoàn. Riêng trung đoàn 12 và các đơn vị phối thuộc ở hướng đường 1B vẫn được lệnh: "Kiên quyết giữ vững trận địa, làm bàn đạp cho quân đoàn mở những đợt phản kích mới".
Nhận được mệnh lệnh của sư đoàn, đảng ủy và cán bộ chỉ huy trung đoàn 12 hạ quyết tâm "Phòng ngự kiên cường, quyết biến đường 1B thành mồ chôn xác giặc". Mọi người đều hiểu bọn giặc đang cố sống cố chết khai thông con đường chiến lược quan trọng này để cơ động lực lượng và phương tiện trong chiến dịch tiến công của chúng. Giữ vững được trục đường 1B, trung đoàn sẽ chặn đứng được cánh quân vu hồi chiến dịch qua Ba Xã - Sài Hồ và Tu Đồn - Đồng Mỏ trong kế hoạch đánh chiếm thị xã Lạng Sơn của chúng.
Thực hiện ý định đó, đêm 2 tháng 3, đại đội 51 tiểu đoàn 5 được lệnh tổ chức một trận vận động phục kích ở đông đường 1B, đoạn từ Chốc Bình đến Lũng Pảng.
8 giờ sáng ngày 3, gần một trăm tên địch lặng lẽ tiến vào hướng phục kích của đại đội, định đánh ngược lên sở chỉ huy trung đoàn 12, phối hợp với cánh quân từ Khôn Làng phát triển xuống.
Khi tốp đi đầu của địch vào cách khẩu đại liên của Hoàng Văn Hùng độ hai chục mét, phó đại đội trưởng Nguyễn Văn Đức ra lệch nổ súng. Cùng lúc, khẩu đại liên của Nguyễn Văn Vượng từ sườn núi quét đạn xuống đội hình địch đang rối loạn. Trận địa cối 60 cũng bắn chính xác vào khu vực Chốc Bình và chân điểm cao 649, không cho địch rút chạy về phía sau. Đúng lúc đó, các tổ xung kích do chính trị viên Nguyễn Văn Chiến chỉ huy đồng loạt lao thẳng lên mặt đường diệt địch. Tiểu đội trưởng Trần Trọng Thường và chiến sĩ Nguyễn Hải Đăng dùng lựu đạn, tiểu liên, cuối cùng dùng lưỡi lê đánh giáp lá cà với địch.
Sau 30 phút chiến đấu, hơn 70 tên giặc bị tiêu diệt, đại đội 51 hy sinh một đồng chí.
Cùng với những trận đánh của các chiến sĩ trung đoàn 12 trên đường 1B, các chiến sĩ trung đoàn 4, trung đoàn 52 sư đoàn 337 từ ngày 27 tháng 2 đến ngày 2 tháng 3 liên tục chiến đấu quyết liệt với địch từ điểm cao 649, ngầm Khánh Khê tới điểm cao 595, tiêu diệt hơn 1.000tên, thu nhiều vũ khí, bắt tù binh, đập tan cánh quân vu hồi của địch vào phía sau trung đoàn 12. Những trận đánh của sư đoàn 337 ở khu vực cầu Khánh Khê không những có ý nghĩa quân sự mà còn có giá trị tinh thần rất lớn đối với trung đoàn 12 trong việc giữ vững trận địa trên đường 1B. Bởi vậy cho đến chiều ngày 4 tháng 3, ngày quân Trung Quốc mở đợt tiến công ồ ạt vào thị xã Lạng Sơn, các chiến sĩ trung đoàn 12 và các đơn vị trực thuộc vẫn giáng vào sau lưng đội hình tiến công của địch những đòn hết sức nặng nề. Trên điểm cao 607 tiểu đoàn 1 Bắc Thái kiên cường đánh lui hàng chục đợt tiến công của địch, diệt 200 tên. Trận địa phòng ngự của trung đoàn 12 trên đường 1B vẫn được giữ vững.
Hoạt động độc lập, trụ bám vững chắc sau lưng đội hình tiến công của địch là một trong những nét đặc trưng truyền thống chiến đấu của trung đoàn 12. Nhờ những kinh nghiệm chiến đấu ở phía nam Bình Định, những kinh nghiệm đánh cắt giao thông địch trên đường số 19 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lại có sự chỉ huy trực tiếp và chi viện kịp thời của sư đoàn, phối hợp chiến đấu chặt chẽ của các đơn vị bạn, trung đoàn 12, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về tiếp tế lương thực, đạn dược, cứu chữa thương binh, vẫn thường xuyên tổ chức những đợt phản kích làm chậm bước phát triển của địch trên hướng tiến công chủ yếu.
Tối ngày 4, giữa lúc sư đoàn Sao Vàng đang khẩn trương củng cố tổ chức, chuẩn bị làm nhiệm vụ mới theo mệnh lệnh của Bộ tư lệnh Quân đoàn thì được tin chiều hôm đó, bằng một trận tiến công ồ ạt, một cánh quân của địch đã vượt sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao 340 và một bộ phận của cánh quân này đã vào tới thị xã Lạng Sơn. Trong khi đó, cánh quân vu hồi của sư đoàn 128 địch cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở tây-nam thị xã...
Đêm hôm đó, tại sở chỉ huy tiền phương, Bộ tư lệnh quân đoàn 1 thông qua phương án phản kích tiêu diệt quân địch ở thị xã Lạng Sơn và thị trấn Đồng Đăng. Trong phương án này, sư đoàn Sao Vàng được giao nhiệm vụ chia cắt và thọc sâu vào giữa và phía sau đội hình chiến dịch của địch, tạo điều kiện cho các sư đoàn bạn tiến công trên chính diện thị xã Lạng Sơn. Đến lúc ấy mọi người mới nhận thấy hết ý nghĩa và giá trị chiến dịch của vị trí bàn đạp mà trung đoàn 12 đang kiên cường giữ vững ở trường B một đầu cầu xuất phát tiến công hết sức lợi hại.
Phân tích tình hình Bộ tư lệnh Quân đoàn chỉ rõ: Địch tới thị xã Lạng Sơn đã phải qua những thước đất đẫm máu với hàng vạn binh lính, sĩ quan chết và bị thương, hàng trăm xe pháo bị phá hủy, sức chiến đấu giảm đi rõ rệt. Chúng đã tung vào hướng này tám sư đoàn bộ binh nhưng vẫn phát triển rất chậm. Điều đó chứng tỏ chúng đông nhưng không mạnh. Trong trận tới lực lượng ta còn sung sức. Các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn. Sư đoàn Sao Vàng chiến đấu liên tục có tổn thất nhưng đã được củng cố và vẫn là một đơn vị mạnh, có kinh nghiệm. Pháo mặt đất đã được tăng cường các hoả khí hiện đại. Đây là lúc tốt nhất để ta mở trận phản kích lớn, diệt lớn quân địch, tiến tới quét sạch chúng khỏi biên giới nước ta
Đêm hôm đó và ngày hôm sau, những cuộc chuyển quân khẩn trương, bí mật nhưng náo nức diễn ra quanh thị xã Lạng Sơn. Những đoàn quân, những đoàn xe hối hả đổ về phía bắc. Xe kéo pháo, tên lửa, xe tăng, xe chở đạn chạy không ngớt trên các trục đường 1A , 1B và các đường ngang mới mở để vào chiếm lĩnh trận địa.. Trên đèo Sài Hồ, những giàn ăng ten ra đa mới dựng quay hối hả. Quân đoàn 2 chủ lực của Bộ đã tập kết phía sau đội hình Quân đoàn 14... Nhìn cảnh ấy, mọi người thầm nghĩ một trận Chi Lăng mới lại sắp đổ chụp xuống đầu quân Trung quốc.
Giữa lúc quân và dân Lạng Sơn đang sôi sục chuẩn bị thì do bị thiệt hại nặng và trước nguy cơ bị tiêu diệt, trưa ngày 5, nghĩa là chưa đầy một ngày vào thị xã Lạng Sơn, nhà cầm quyền Trung Quốc vội vã ra lệnh cho bọn xâm lược rút khỏi lãnh thổ nước ta.
Trận phản kích lớn của quân đoàn đã không xảy ra, nhưng mọi người đều thấy lòng mình phấn chấn tự hào bởi kè thù đã thừa nhận sự thất bại của chúng không chỉ ở Lạng Sơn mà thất bại trên toàn tuyến biên giới, thất bại ngay trên địa đầu Tổ quốc ta. Điều cay đắng trong sự thất bại của chúng là đối phương chỉ mới sử dụng một phần nhỏ lực lượng chủ lực, lực lượng chủ yêu chiến thắng chúng là lực lượng địa phương và nhân dân các dân tộc.
Sau này, nhiều nhà bình luận phương Tây dự tính rằng, trong hai nghìn năm với bao phen tràn sang đất Lạng Sơn, chưa bao giờ quân Trung Quốc xâm lược lại mất nhiều thời gian để đi một quãng đường ngắn như vậy, ước tính mỗi ngày chúng chỉ đi được 0,8 ki-lô-mét và có lẽ đây cũng là lần mà bọn Trung Quốc tập trung quân đông nhất nhưng cũng là lần tiến quân ì ạch nhất để rồi phải ôm đầu rút chạy sớm nhất.
*
* *
Tiếng súng trừng trị quân xâm lược vừa dứt, tại một vùng căn cứ phía nam Lạng Sơn, sư đoàn Sao vàng một mặt khẩn trương củng cố lại thế trận phòng ngự, giải quyết chu đáo chính sách thương binh liệt sĩ, cùng với nhân dân địa phương hàn gắn những vết thương chiến tranh do bọn xâm lược Trung Quốc gây ra, mặt khác, theo chỉ thị của quân khu, quân đoàn, gấp rút tiến hành hội nghị tổng kết kinh nghiệm chiến đấu và tổ chức đại hội mừng công đánh thắng quân Trung Quốc xâm lược.
Ngày 25 tháng 3, hội nghị bắt đầu làm việc. Đối với sư đoàn Sao vàng đây là hội nghị đông đủ nhất các đại biểu trong và ngoài quân đội. Không chỉ có đại biểu các đơn vị, địa phương tham gia chiến đấu trên hướng Lạng Sơn mà còn có đại biểu các cơ quan Bộ, các học viện, trường sĩ quan trong cả nước, hầu hết các tỉnh, thành phố phía bắc, các cơ quan đoàn thể trung ương và Hà Nội. Đặc biệt đoàn đại biểu mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh cũng vượt hàng ngàn ki-lô-mét đến với sư đoàn. Sự có mặt đông đủ đó, như sư đoàn trưởng Nguyễn Duy Thương đã nói: "Không chỉ đem đến cho sư đoàn một niềm vinh dự lớn mà điều quan trọng là làm cho việc tổng kết chiến đấu của sư đoàn thêm phong phú, khách quan về tất cả các mặt quân sự, chính trị, hậu cần; về hợp đồng chiến đấu với địa phương, với đơn vị bạn trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc"
Tổng kết chiến đấu, sư đoàn Sao Vàng, trong thế trận chung của toàn tuyến biên giới đã tiêu diệt hơn 11.000 tên giặc; đánh thiệt hại nặng hai trung đoàn, diệt gọn bốn tiểu đoàn, sáu đại đội; bắn cháy và phá hủy 124 xe quân sự, (có 82 xe tăng, xe bọc thép) gần 100 khẩu pháo, cối và nhiều phương tiện chiến tranh khác.
Thắng lợi của quân và dân ta trên toàn tuyến biên giới nói chung, của sư đoàn Sao Vàng và quân dân Lạng Sơn nói riêng đã chứng minh những nhận định của Đảng ta về kẻ thù mới là chính xác. Từ đó đã kịp thời điều chỉnh thế bố trí chiến lược trong cả nước, đưa các đơn vị chủ chốt ra xây dựng phòng tuyến ở biên giới, hải đảo ngay từ sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa kết thúc thắng lợi.
Đối với sư đoàn Sao Vàng, việc từng bước xác định rõ kẻ thù mới, chủ động chăm lo công tác tổ chức và nâng cao trình độ chỉ huy của cán bộ, kỹ năng chiến đấu của bộ đội trong thời kỳ mới là những chuẩn bị hết sức căn bản để chiến đấu thắng lợi.
17 ngày đêm đánh quân Trung Quốc xâm lược là 17 ngày đêm cán bộ chiến sĩ toàn sư đoàn tiếp tục phát huy truyền thống "đối tượng, kẻ thù nào cũng đánh thắng" và tỏ rõ quyết tâm đánh thắng trận đấu, trên tuyến đầu biên giới. Chưa có chiến dịch nào trong lịch sử đơn vị, sư đoàn phải đánh trả một lực lượng địch đông như thế (gấp 9 lần). Cũng chưa có chiến dịch nào khí phách anh hùng của hai thế hệ chiến sĩ cũ và mới lại nảy sinh rạng rỡ đến thế. Chỉ qua 17 ngày đêm chiến đấu, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ đã chiến đấu tới viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh. Bảy đơn vị, sáu cán bộ chiến sĩ đã được Quốc hội, Chính phủ tặng danh hiệu Đơn vị anh hùng và Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân.
Nhiều phần thưởng cao quý khác gồm hàng ngàn huân chương các loại, bằng khen, giấy khen đã được trao tặng cho cán bộ chiến sĩ trong sư đoàn. Riêng trung đoàn 12, đơn vị nổ súng đầu tiên và cũng là đơn vị dứt chiến sau cùng đã nêu một tấm gương sáng trên các điểm cao Pháo Đài, Thâm Mô, 339 và giữ vững trận địa phòng ngự của mình giữa bốn bề quân địch ở khu vực đường 1B xứng đáng là ngọn cờ đầu của sư đoàn trong cuộc chiến đấu mới.
Chiến dịch cũng tỏ rõ trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp trong sư đoàn được nâng lên một bước đáng kể. Nếu như sáu, bảy năm về trước, khi tổ chức phòng ngự bảo vệ vùng giải phóng Hoài ân, Hoài Nhơn, khái niệm chiến đấu phòng ngự mới chỉ ở bước đầu thì 17 ngày đêm đánh quân Trung Quốc xâm lược, ngay từ đầu sư đoàn đã có thế trận rõ rệt về chiến đấu phòng ngự và điều quan trọng là trên cơ sở ấy, thường xuyên phán đoán đúng âm mưu địch, xác đinh kịp thời và xử trí linh hoạt các tình huống trong quá trình chiến đấu. Hầu hết các mũi tiến công của địch đều nằm trong phương án đã được tập dượt nhiều lần của sư đoàn. Do đó mặc dù địch định tiến công bất ngờ về thời điểm và quy mô, tạo thế vu hồi, chia cắt ta ngay từ đầu nhưng chúng vẫn bị đánh trả đích đáng, dẫn tới lúng lúng, bị động phải liên tục dồn quân, tăng quân, thay đổi thủ đoạn chiến thuật để đối phó.
Trong quá trình diễn biến của chiến dịch, qua từng ngày từng trận, sư đoàn đã sớm rút ra những kết luận về âm mưu, thủ đoạn của địch, tính toán khả năng của ta. Từ đó điều chỉnh lực lượng kịp thời và thích hợp khi tổ chức phản kích cũng như khi chốt giữ. Việc xác định ngay từ đầu hướng tiến công chủ yếu của địch ở Đồng Đăng, Tam Lung là một nhận định chính xác, vì vậy đã chủ động rút bỏ hướng Tân Yên, dồn lực lượng liên tiếp mở những trận phản kích đánh thiệt hại nặng hàng trung đoàn địch trên hướng Tam Lung. Dám rút bỏ Tân Yên nhưng lại kiên quyết tổ chức trung đoàn 12 bám trụ trên hướng đường 1B, không chỉ có giá trị đánh bại cánh quân vu hồi chiến dịch của địch mà còn giữ thế, tạo bàn đạp chuẩn bị cho những trận đánh phản kích lớn của quân đoàn trên hướng chủ yếu thị xã Lạng Sơn.
Cũng như mọi chiến dịch thắng lợi trong chống Mỹ, cuộc chiến đấu của sư đoàn ở Lạng Sơn tháng 2 năm 1979 gắn rất chặt với các đơn vị bạn và quân dân địa phương. Nếu nói cuộc chiến đấu này, sư đoàn trưởng thành nhiều trong tác chiến hợp đồng binh chủng thì không thể tách rời chiến công của các đơn vị pháo mặt đất của quân khu và Bộ tăng cường cho sư đoàn, đã chi viện kịp thời, chính xác trong từng trận đánh lớn nhỏ của các đơn vị. Nếu nói tinh thần trụ bám của trung đoàn 12 ở đường 1B là một biểu hiện kiên cường thì không thể tách rời chiến công của sư đoàn 337 ở khu vực cầu Khánh Khê, của tiểu đoàn 23 (trung đoàn 66), tiểu đoàn 1 Bắc Thái, các đơn vị bộ đội biên phòng đã tự coi mình như một đơn vị của trung đoàn 12, không thể tách rời chiến công thầm lặng của cán bộ các cơ quan, các đơn vị trinh sát thông tin, vận tải, quân y ngày đêm lăn lộn chuyển vũ khí, đạn dược, đưa chiến sĩ mới vào, chuyển thương binh ra giữa pháo đạn và cả trận địa phục kích của địch. Sự nhạy bén của tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn trong tổ chức truy quét "Lực lượng thứ năm" của địch, triệt tận gốc âm mưu nổi loạn từ bên trong, cùng với việc chỉ đạo, tổ chức các lực lượng vũ trang chiến đấu với sư đoàn, chỉ đạo, tổ chức các cơ quan và nhân dân giúp sư đoàn trước và trong quá trình chiến dịch là những nhân tố quan trọng, tạo điều kiện cho sư đoàn chiến đấu và chiến thắng.
Hội nghị cũng đã nghiêm túc chỉ ra những mặt thiếu sót về tinh thần cảnh giác, về tổ chức chỉ huy, về xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, về phối hợp ba thứ quân trong tác chiến, về nắm địch, bảo đảm thông tin, bảo quản vũ khí, đạn dược trong những ngày đầu chiến tranh, về công tác chính trị, tư tưởng trong chiến đấu phòng ngự, v.v. Những khuyết điểm, nhược điểm đó là bài học sâu sắc mà mỗi cán bộ, đảng viên tự thấy mình phải chịu trách nhiệm trước tiên.
Vào ngày cuối cùng của hội nghị, sư đoàn vinh dự được đón đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng và đồng chí Chu Huy Mân, ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đến thăm. Nói chuyện với hội nghị, đồng chí Lê Duẩn phát biểu đại ý: "Vừa rồi, các đồng chí đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhưng đáng lý ra ta phải thắng to hơn, thắng đầy đủ hơn nữa. Các đồng chí đã diệt được nhiều địch. Nay mai, nếu chúng còn tiếp tục xâm lược, chúng ta quyết đánh cho chúng thất bại nặng nề hơn nữa. Quân dân ta phải thắng to hơn nữa. Muốn vậy, chúng ta phải làm cho được ba việc chính: Một là phải thực hiện cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong quân đội. Hai là phải thực hiện chế độ chỉ huy, quản lý nghiêm khắc. Ba là phải xây dựng con người có đủ ý chí và năng lực để làm chủ hai điều trên... Các đồng chí phải tổng kết nhiều tri thức khoa học quân sự, phải tiến lên nữa...".
Sau đó, đồng chí Chu Huy Mân nói, đại ý: "Thông thường, sau mỗi thắng lợi, người ta hay nói đến thành tích. Cái đó đúng thôi. Nhưng hôm nay, chúng ta phải khẳng định với nhau một điều: Đã tổng két thì nói cho hết ưu điểm để phát huy nhưng cũng cần phải nghiêm khắc với khuyết điểm. Gượng nhẹ với khuyết điểm là đưa đơn vị tới chỗ sa sút. Những đơn vị đã có thành tích, đã anh hùng càng cần phải nghiêm khắc, có như vậy mới anh hùng mãi mãi...'.
Từ mùa hè năm ấy, thực hiện lời căn dặn của đồng chí Tổng bí thư Đảng và đồng chí chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, kết hợp với yêu cầu, tiêu chuẩn của cuộc vận động xây dựng quân đội và nghị quyết của đảng ủy quân đoàn, sư đoàn, toàn thể cán bộ, chiến sĩ Sao Vàng lại bước vào một giai đoạn xây dựng, sẵn sàng chiến đấu mới đầy hào hứng nhưng cũng đầy gian khổ, không ngừng tăng cường cảnh giác. .
Kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm, thâm độc vẫn đang ở trước mặt sư đoàn và quân dân cả nước ta, nhưng chiến công cũng đang chờ chúng ta ở phía trước.